KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
----------
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
*****
SÁNG TẠO VỀ LÝ LUẬN CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÌ DÂN Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
Tên đề tài: Sáng tạo về lý luận của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Ý nghĩa đối với việc xây dựng nhà nước ta hiện nay .
TIÊU CHÍ NỘI DUNG BỐ CỤC
TRÌNH BÀY
TỔNG
ĐIỂM
NHẬN XÉT
….…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………….…..
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
Ký tên
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
\
Xây dựng Nhà nước ngang tầm
nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng
mới
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu........................................................................................1
3. Phương pháp nghiên cứu................................................................................1
4. Bố cục đề tài.....................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................3
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN,
DO DÂN, VÌ DÂN............................................................................................... 3
1.1. Sơ lược về Nhà nước và Nhà nước của dân, do dân, vì dân.................3
1.2. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...................................................................... 4
1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do
dân, vì dân........................................................................................................6
1.3.1. Nhà nước do dân làm chủ.................................................................6
1.3.2. Nhà nước phục vụ quyền lợi nhân dân............................................8
1.3.3. Bản chất giai cấp cơng nhân của nhà nước Việt Nam.................10
1.3.4. Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, hoạt động có hiệu quả .11
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN
NAY.................................................................................................................... 14
2.1. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay.................................................................................................14
2.2. Xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ giai đoạn cách mạng mới 15
2.2.1. Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân...........15
2.2.2. Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước....................................... 16
2.2.3. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước...16
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................18
PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................19
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những luận điểm khoa học rộng lớn, sâu sắc và
phong phú về xã hội được nghiên cứu trong suốt quá trình hoạt động tìm đường cứu nước
và hoạt động cách mạng của Người. Những giá trị tư tưởng của Người để lại như một kho
tàng kiến thức đủ mọi lĩnh vực để Đảng ta khai thác, bắt kịp với thời đại trong bối cảnh
tình hình trong và ngồi nước liên tục thay đổi và cịn để đưa vào giáo dục đào tạo sinh
viên, Đảng viên trên giảng đường. Một trong những giá trị đó là sự sáng tạo về lý luận
của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân. Từ đó, có thể rút ra ý nghĩa to
lớn đối với việc xây dựng Nhà nước ta hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ được nội dung và lý luận thực tiễn của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân, vì dân.
Phân tích được tính chất, nhiệm vụ, mục tiêu, ý nghĩa của lý luận đối với đất nước
ta hiện nay đồng thời đề ra những giải pháp hợp lý cho xu hướng phát triển của đất nước
ta trong thời kỳ hiện nay và cả trong tương lai.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu chính đó là: Phương pháp luận
khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử; các nguyên tắc, quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh về
nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Phương pháp cụ thể: Vận dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic,
phương pháp phân tích – tổng hợp lý thuyết, phân tích rõ hơn nữa về những ứng dụng của
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân đối với nhà nước Việt Nam ta
hiện nay. Bên cạnh đó cịn sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp những nghiên cứu
thực tiễn hiện nay để cho bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
4. Bố cục đề tài
Tiểu luận được trình bày với nội dung gồm 2 chương chính:
1
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO
DÂN, VÌ DÂN
1.1. Sơ lược về Nhà nước và Nhà nước của dân, do dân, vì dân
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu tranh
giai cấp xuất hiện, do đó, nhà nước là sản phẩm của một xã hội có giai cấp, nó bao giờ
cũng mang bản chất một giai cấp nhất định, không có một nhà nước nào là phi giai cấp,
khơng có nhà nước đứng trên giai cấp.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước ta được coi là Nhà nước của dân, do dân,
vì dân nhưng bản chất giai cấp của Nhà nước ta là bản chất giai cấp công nhân.
Nhà nước của dân: Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi
quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Hồ Chí Minh đã nêu lên
quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, cịn
dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước
phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm
chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt
ở vị trí tối thượng. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát
triển của nhân loại và nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa là nhà nước của dân, nhân
dân có vai trị quyết định mọi cơng việc quan trọng của đất nước.
Nhà nước do dân: Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì
vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm
cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao
được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình.
Nhà nước vì dân: Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân
dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngồi ra khơng có bất cứ một lợi ích
nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, khơng có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào.
Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa
lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho
3
dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Một Nhà nước vì dân, theo quan
điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến cơng chức bình thường đều phải làm
cơng bộc, làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải "làm quan cách mạng" để "đè đầu
cưỡi cổ nhân dân" như dưới thời đế quốc thực dân.
1.2. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng là vấn đề chính quyền nhà nước. Q trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh
gắn liền với những nhận thức, tìm kiếm, lựa chọn một hình thức, chế độ nhà nước thích
hợp, thúc đẩy dân tộc Việt Nam phát triển theo đúng quỹ đạo tiến bộ xã hội. Chính vì thế,
ngay ở tuổi trưởng thành, trên quê hương mình, Hồ Chí Minh đã thấy rõ bộ mặt phản
nhân tính của nhà nước thực dân phong kiến. Toàn bộ bản chất thật sự của nhà nước đó
được chủ tịch Hồ Chí Minh bóc trần, lên án gay gắt trong nhiều tác phẩm, bài nói, bài
viết, trước hết là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp. Từ đó, Hồ Chí Minh đặt vấn đề
về sự cần thiết phải lật đổ nhà nước thối nát đó, nhưng bằng cách nào, con đường nào, lấy
gì để thay thế nó thì Người chưa có sẵn một câu trả lời.
Xuất phát từ nhu cầu giải phóng dân tộc, trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí
Minh đã tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, là lý luận cách mạng tiên tiến nhất của thời đại.
Hồ Chí Minh đã phát hiện vị trí lịch sử của các chế độ nhà nước đang vận hành,
trên cơ sở phân tích, so sánh và đặt chúng trong dòng chảy liền mạch của tiến bộ lịch sử.
Trong q trình khảo cứu, Hồ Chí Minh chú ý tìm hiểu hai loại hình nhà nước hiện thời:
Nhà nước dân chủ tư sản mà những đại diện tiêu biểu là Mỹ, Pháp và nhà nước xã hội
chủ nghĩa ra đời từ Cách mạng Tháng Mười 1917.
Bằng những khảo nghiệm thực tiễn, với tư duy chính trị nhạy cảm, Hồ Chí Minh đã
quyết định lựa chọn con đường Cách mạng Tháng Mười, kiểu nhà nước theo học thuyết Mác
- Lênin. Câu hỏi về con đường xóa bỏ nhà nước thực dân phong kiến và lấy gì để thay thế đã
tìm được lời giải xác đáng. Để lựa chọn kiểu nhà nước theo xu thế vận động của lịch sử, Hồ
Chí Minh dựa trên hai cơ sở chính: Tính chất nhân dân và khả năng của nhà nước trong việc
bảo đảm cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thoả mãn các “nhu cầu trần
4
thế” của nhân dân và con người. Ở Hồ Chí Minh, việc lựa chọn kiểu nhà nước gắn bó
chặt chẽ với mục tiêu giải phóng con người và phát triển xã hội.
Tính chất sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh là việc vận dụng kinh nghiệm Xô
viết để kiến tạo, xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam., vì vậy nên năm 1941, khi về
nước, Hồ Chí Minh thành lập Ủy ban Việt minh, Ủy ban giải phóng và Ủy ban nhân dân
cách mạng tỉnh, liên tỉnh.
Giữa năm 1945, khu giải phóng Việt Bắc đã hình thành chính quyền hồn chỉnh,
đồng bào tồn khu được hít thở khơng khí tự do, tự tổ chức đời sống của mình, từ sản
xuất, đánh giặc, quản lý mọi mặt đời sống xã hội đến bảo vệ chính quyền.
Chính phủ lâm thời (Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam) do Đại hội quốc dân
Tân Trào bầu ra (16-8-1945) và Nhà nước hình thành theo quy định của Hiến pháp 1946
đều tiếp tục truyền thống này, thực sự là một nhà nước dân chủ nhân dân.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam dân
chủ cộng hịa. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khai sinh, đứng đầu và là linh hồn của nhà
nước đó.Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khai sinh, đứng đầu và là linh hồn của nhà nước
Việt Nam dân chủ Cộng Hịa.
Sau khi đọc bản Tun ngơn độc lập lịch sử ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh cơng bố
danh sách Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ Cộng Hòa.
Tại phiên họp đầu tiên, ngày 3-9-1945, Hồ Chí Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp
bách làm cho Nhà nước ta trở thành nhà nước dân chủ, hợp hiến. Dưới sự lãnh đạo của
Hồ Chí Minh, ngay từ những ngày đầu tiên, chính quyền mới đã hướng vào giải quyết và
thỏa mãn các nhu cầu tối cần thiết của nhân dân.
Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được tổ
chức thắng lợi vào ngày 6-1-1946, trong điều kiện cả nước đang chuẩn bị kháng chiến.
Quốc hội khóa I có 333 đại biểu, sau bổ sung 70 đại biểu gồm 20 đại biểu thuộc Việt
Nam cách mạng đồng minh hội và 50 đại biểu của Việt Nam quốc dân đảng.
Ngày 20-9-1945, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 34 thành lập Ban dự thảo Hiến
pháp gồm 7 thành viên, do Người làm Trưởng ban. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí
Minh, đến tháng 10-1946, bản Dự thảo hiến pháp đã hoàn thành. Quốc hội khóa I nước
5
Việt Nam dân chủ cộng hòa trong phiên họp ngày 9-11-1946, đã chính thức thơng qua
bản dự thảo Hiến pháp. Đó là bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Sau này, vào cuối
những năm 50, cũng chính Hồ Chí Minh lãnh đạo và chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp 1959,
làm cơ sở pháp lý cho đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đấu tranh thống
nhất nước nhà.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam ngày càng được củng cố
và hoàn thiện về các mặt: lập pháp, hành pháp và tư pháp, thật sự là công cụ quyền lực
của nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi ích và nguyện vọng của toàn dân tộc. Trong xây
dựng và lãnh đạo nhà nước, Hồ Chí Minh đã tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, bảo đảm
quyền lực nhà nước là thống nhất, có phân công, phân nhiệm rõ ràng nhằm thực hiện mục
tiêu dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Căn cứ vào các nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ, Người đã chỉ đạo tổ chức
bộ máy nhà nước gọn, nhẹ, thích hợp, đủ năng lực và trí tuệ quản lý đất nước.Hồ Chí
Minh ln ln căn dặn cán bộ chính quyền, đồn thể phải tin ở dân, vì khả năng của dân
là to lớn, là vơ tận.Hồ Chí Minh ln ln khẳng định tư tưởng nước lấy dân làm gốc, lợi
ích của nhân dân là trước hết và trên hết, nhiệm vụ của chính quyền và đoàn thể là phụng
sự nhân dân.
Qua thực tiễn lãnh đạo, quản lý, Hồ Chí Minh nhìn thấy rất rõ những căn bệnh phát
sinh làm hủy hoại và biến dạng Nhà nước. Trong 24 năm đứng đầu Nhà nước, Hồ Chí Minh
đã dày công xây dựng các thiết chế, thể chế và cơ chế dân chủ, khơi nguồn truyền thống dân
chủ ở Việt Nam. Người đã để lại một tấm gương sáng về đạo đức liêm khiết, trong sạch, hết
lòng phục vụ nhân dân, vì dân, vì nước và một phong cách lãnh đạo đặc sắc
- phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh.
1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân,
vì dân
1.3.1. Nhà nước do dân làm chủ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của
nhân dân trong lịch sử: “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là tối thượng”, “Trong
6
bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng
đồn kết của nhân dân”, “Dân là gốc của nước, của cách mạng”, “Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân”, “Dân chúng đồng lịng, việc gì cũng làm được. Dân
chúng khơng ủng hộ, việc gì làm cũng khơng nên”, “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững
cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Người đã huy động sức mạnh của
toàn dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, góp phần to lớn đưa dân tộc Việt Nam
tới độc lập, tự do, đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội. Vì vậy, “đối với dân, ta đừng có làm gì trái ý dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức
rất rõ vai trị của dân chủ, coi dân chủ là nhân tố động lực của sự phát triển, thực hành
dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, bản chất của dân chủ tức là dân là chủ và dân
làm chủ. Người chỉ rõ, địa vị của nhân dân là người chủ đối với xã hội, đất nước và nhân
dân là chủ thể của quyền lực. Đây là nội dung cốt lõi trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí
Minh, phản ánh giá trị cao nhất, chung nhất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân:
“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”, “chế độ ta là chế độ dân
chủ, tức là dân làm chủ”. Điều này khẳng định giá trị xã hội đích thực của dân chủ là ở
chỗ dành về cho đại đa số nhân dân lao động những quyền lực của chính họ thơng qua
đấu tranh cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới của chính bản thân quần chúng nhân
dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một “ham muốn, ham muốn tột bậc là làm cho nước
nhà được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”. Người đã phấn đấu không mệt mỏi, làm tất cả để thực hiện Độc lập - Tự
do - Hạnh phúc cho Tổ quốc, cho dân tộc và nhân dân. Người đã rút ra một chân lý
không chỉ cho dân tộc mà cịn cho cả nhân loại “khơng có gì q hơn độc lập, tự do”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ,
thể chế chính trị và thể chế nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người
khẳng định: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi
mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là cơng việc của
dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ
7
Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”. Nhà nước ta là nhà nước của dân, coi nhân dân là chủ thể quyền lực; nhà nước là
công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự
nghiệp chung chứ nhà nước.
Nhà nước do dân tức là dân phải tham gia vào công việc của nhà nước. Quốc hội
nước ta tuy ở vị trí cao nhất song khơng phải là cơ quan tập trung tất cả quyền lực. Khi
xuất hiện những công việc liên quan đến vận mệnh của quốc gia, thì sẽ được đưa ra tồn
dân phúc quyết. Nhà nước vì dân, tức nhà nước ta ngồi lợi ích phục vụ dân chúng khơng
có lợi ích nào khác, đó là bản chất giai cấp cơng nhân của Nhà nước ta.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do dân, vì dân phải là một nhà nước
pháp quyền có hiệu lực mạnh, được quản lý bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu
lực trong thực tế. Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải ln đi đơi với
nhau, có mối quan hệ chặt chẽ mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Khơng thể có
dân chủ ngồi pháp luật, pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người dân
phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo
đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế.
1.3.2. Nhà nước phục vụ quyền lợi nhân dân
Sau cách mạng tháng Tám thành cơng, Hồ Chí Minh đã nêu bật sự khác nhau căn
bản về chất giữa Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa với các loại hình nhà nước trước
đó: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ tồn quốc cho đến các làng, đều
là cơng bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu
dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” .
Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ phải quan tâm đến những kiến nghị, đề
đạt của nhân dân: “Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những
8
vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người
ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ
cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của dân phải được ta đặc biệt chú ý”.
Về quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh xác định: “Nếu khơng có
nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu khơng có Chính phủ thì nhân dân khơng
ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”. Chức
năng đối nội cơ bản của Nhà nước là hướng dẫn nhân dân tổ chức tốt đời sống, tăng gia
sản xuất, thực hành tiết kiệm, từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần nhằm thỏa
mãn nhu cầu cần thiết hàng ngày. Theo Hồ Chí Minh “Chúng ta tranh được tự do, độc lập
rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá
trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1) Làm cho dân có ăn.
2) Làm cho dân có mặc.
3) Làm cho dân có chỗ ở.
4) Làm cho dân có học hành.
Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự
do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập”.
Theo Hồ Chí Minh việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của nhân dân là tiêu
chí số một để đánh giá hiệu quả năng lực hoạt động của nhà nước.
Muốn đạt được mục đích nhân bản đó, vấn đề đặt ra là phải bằng mọi cách giữ cho
được định hướng hoạt động của nhà nước, bảo đảm cho bộ máy thật sự trong sạch. Nếu
hoạt động của nhà nước kém hiệu quả, bộ máy quan liêu, đội ngũ cán bộ công chức, nhất
là cán bộ chủ chốt, bị thối hóa, biến chất thì nhà nước đó đã trượt ra khỏi quỹ đạo dân
chủ nhân dân, trở thành một thế lực đối lập với nhân dân. Bằng nhạy cảm chính trị, chiêm
9
nghiệm thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh đã phát hiện và cảnh báo ngay từ rất sớm
những căn bệnh có thể phát sinh làm biến dạng, tha hóa nhà nước. Quán triệt phép biện
chứng duy vật, Hồ Chí Minh ý thức rằng, quản lý đất nước, xã hội là một việc làm khó,
cán bộ, cơng chức của ta lại ít kinh nghiệm, chưa qua đào tạo, chắc chắn có thiếu sót, sai
lầm, nhưng nếu biết thành thật, học hỏi, đặt lợi ích nhân dân lên trên hết, trước hết thì có
thể khắc phục, sửa chữa được, đảm bảo cho Nhà nước ta thật sự phục vụ quyền lợi của
nhân dân, trở thành công bộc, đầy tớ của dân.
1.3.3. Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước Việt Nam
1.3.3.1. Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước là một vấn đề rất cơ
bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: Nhà nước ta là
Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân
lãnh đạo. Trong quan điểm cơ bản xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ,
một nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh nòng cốt
của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do giai
cấp cơng nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp với từng thời kỳ.
Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước, đất nước ta phải vừa tiến hành kháng
chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây
dựng chế độ mới. Do đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta thời kỳ đó
khơng giống với những thời kỳ sau này. Song, trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có những
vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ. Đó là:
1) Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế
hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
2) Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên
của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.
10
3) Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra
1.3.3.2. Bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội
chủ nghĩa của sự phát triển của Đất nước
Điều này được thể hiện rất rõ ngay sau khi đất nước được thành lập được Bác Hồ
viết trong bản tuyên ngôn độc lập vào ngày 2/9/1945.
1.3.3.3. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ
chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin về chính đảng của giai cấp cơng nhân, được ra đời cùng với lý luận về xây
dựng “Đảng kiểu mới” và là một trong những nguyên tắc cơ bản để xây dựng “Đảng kiểu
mới”. Nguyên tắc này đã được Đảng ta nhiều lần khẳng định là một nguyên tắc cơ bản
trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, là sự khác biệt giữa “Đảng kiểu mới” của
giai cấp công nhân, đảng cách mạng chân chính với các Đảng chính trị xã hội khác.
Hồ Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ
máy, cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy
cao độ tập trung. Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực
vào tay nhân dân.
1.3.4. Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, hoạt động có hiệu quả
1.3.4.1. Xây dựng một nhà nước hợp tiến
Nhà nước hợp hiến, hợp pháp là một Nhà nước ra đời dựa trên những cơ sở pháp
lý có hiệu lực, được quảng đại quần chúng nhân dân trong nước thừa nhận và được cộng
đồng quốc tế công nhận
Vì vậy để xây một nhà nước hợp hiến ngay sau ngày quốc khánh đầu tiên, trong
phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời, Bác đã yêu cầu tổ chức tổng tuyển cử càng
sớm càng tốt để lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy chính
thức khác của Nhà nước mới.
Như một lẽ tất yếu vào ngày 6-1-1946 cuộc tổng tuyển cử đầu tiên được tiến hành
thắng lợi, với chế độ phổ thông đầu phiếu và lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm của
11
dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam châu á, tất cả mọi người dân từ 18
tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo... đều đi bỏ
phiếu bầu những đại biểu của mình vào trong Quốc Hội.
Vào ngày 2-3-1946, Quốc Hội khóa một đã có phiên họp đầu tiên lập ra các tổ
chức bộ máy và các chức vụ chính thức của nhà nước.
1.3.4.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào
trong cuộc sống.
Quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhau
nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống luật, trong đó quan trọng bậc nhất là
Hiến pháp - đạo luật cơ bản của nước nhà.
Có Hiến pháp và pháp luật nhưng khơng đưa được vào trong cuộc sống thì xã hội
cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước, tức
là đi liền với thực thi Hiến pháp và pháp luật.
Sống và làm việc theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã đi vào nếp sống, một tiêu chuẩn mà con
người Việt Nam luôn theo đuổi và truyền lại cho nhiều thế hệ sau.
"Thần linh pháp quyền" là sức mạnh do con người và vì con người. Do vậy, Hồ
Chí Minh bao giờ cũng đòi hỏi mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất
kể người đó giữ cương vị nào
Việc giáo dục pháp luật nhân dân đặc biệt là thế hệ trẻ là vô cùng quan trọng, đảm
bảo mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống.
Trong việc thực thi pháp luật, có quan hệ rất lớn tới trình độ dân trí của nhân dân,
vì vậy, Hồ Chí Minh chú trọng tới vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính
trị của nhân dân, làm cho nhân dân có ý thức chính trị trong việc tham gia cơng việc của
chính quyền các cấp. Làm tốt nghĩa vụ công dân cũng tức là thực hiện nghĩa vụ của mình
đối với Nhà nước, biết thực hành dân chủ.
12
1.3.4.3. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức của Nhà nước đủ đức và
tài
Một là: Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối
với đội ngũ này. Cán bộ, cơng chức phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ Nhà nước. Công tác này phải thực hiện từng ngày từng giờ, trên tất cả
mọi lĩnh vực.
Hai là: Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chun mơn, nghiệp vụ. Chỉ với lịng
nhiệt tình khơng thơi thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà không xây
được cái tốt, cái mới.
Ba là: Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Hồ Chí Minh ln ln chủ
trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội ngũ cán bộ, công chức với nhân dân. Đội
ngũ cán bộ, công chức là những người ăn lương từ nguồn ngân sách của Nhà nước mà
nguồn ngân sách này do dân đóng góp.
Bốn là: Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán,
dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, "thắng khơng kiêu, bại
khơng nản".
13
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước do dân và vì dân để tiếp tục định
hướng Nhà nước theo con đường chủ nghĩa xã hội. Đảng ta cần chú trọng hơn nữa trong
việc xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng Đảng về chính trị trước hết
đòi hỏi Đảng ta phải đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, đồng thời tổ chức thực
hiện thắng lợi đường lối đó ở tất cả các cấp, các ngành.
Đường lối của Đảng phải được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở từng thời kỳ. Đường lối ấy
cần phàn đúng đắn, có khả năng thực thi, đáp ứng sự phát triển của đất nước. Đảng cần
phải nắm bắt được xu thế của thời đại, tình hình trong nước và quốc tế để cải thiện đường
lối đồng thời kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa để đưa ra những quyết sách mới nhằm
thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững, biến đất nước ta về cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về tư tưởng nhất định
phải giáo dục, bồi dưỡng đảng viên kiên định, giữ vững lập trường tư tưởng trên con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, không giao động trước tình hình
phức tạp. Hồ Chí Minh ln muốn Đảng ta trở thành một khối thống nhất về tư tưởng và
hành động, điều đó mang ý nghĩa quyết định. Lòng tin vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ
nghĩa là thước đo lớn nhất đối với việc xây dựng Đảng về tư tưởng.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng Đảng về tổ chức đòi hỏi Đảng
ta phải ln ln chú trọng kiện tồn các tổ chức của mình, làm cho Đảng có sức mạnh
vơ địch.Đảng viên cần chống lại lối sống chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng vác các tiêu cực
14
khác.Các tổ chức phải trong sạch, vững mạnh, làm theo những điều căn dặn của Hồ Chí
Minh trong Di chúc nhằm mục đích xây dựng Đảng vững mạnh trong thời kỳ đổi mới
hiện nay.
Đại hội XIII đánh giá: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều
tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu
quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”; nội
dung, phương thức xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được
điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và thông lệ quốc tế.
2.2. Xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ giai đoạn cách mạng mới
2.2.1. Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân
Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu
xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng và Nhà
nước cần chú trọng, đảm bảo và phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới tiếp tục mở rộng dân chủ.Do đó có bước
tiến bộ rõ nét cho nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục
được mở rộng và tăng cường nhằm thực hiện mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi sinh thời thường nhắc nhở: “Muốn đồn kết thực sự phải
có dân chủ thực sự”. Nhân dân được thực hiện quyền dân chủ, đó là nguồn sức mạnh , động
lực chủ yếu để Đảng và Nhà nước tiếp tục xây dựng và phát triển của đất nước.
Tuy Đảng ta đã thực hiện tốt quyền làm chủ thật sự của nhân dân, song, vẫn còn tồn
đọng những hạn chế nhất định đến từ tư tưởng không kiên định của một số Đảng viên, sự tổ
chức không chặt chẽ ở địa phương, không thực hiện được đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân.Những trường hợp này, cần trừng trị nghiêm để đem lại niềm tin cho nhân dân.
15
2.2.2. Kiện tồn bộ máy hành chính nhà nước
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực này bằng cách tiếp tục xây dựng bộ
máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Xây
dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp,
hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”. Bên cạnh văn kiện, Đảng và
Nhà nước cần xử lí mạnh và khắc phục quan liêu, hách dịch, tham nhũng, không tôn
trọng nhân dân; kỉ luật, xử phạt bộ phận các bộ sa sút phẩm chất đạo đức cách mạng,
năng lực phục vụ nhân dân kém cỏi. Song, cần kết hợp với các công tác đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng cán bộ công chức vừa có đức vừa có tài, chun nghiệp. Cơng tác đó
phải đặt lên hàng đầu và phải được tiến hành thường xuyên để đảm bảo chất lượng. Từ
đó, các trường đào tạo cán bộ, đặc biệt là cán bộ chuyên ngành tư pháp phải được đổi
mới, nâng cao chất lượng đào tạo để kiện tồn bộ máy hành chính nhà nước.
2.2.3. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng tất yếu gắn liền với tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước. Đây là trách nhiệm cực kỳ quan trọng của Đảng với tư cách là Đảng
cầm quyền, thể hiện vai trò lãnh của Đảng trong rất nhiều lĩnh vực: ngoại giao, an ninh quốc
phòng, quản lí Nhà nước, …. Đối mặt với những chuyển biến của xã hội hiện
nay, đòi hỏi Đảng phải ngày càng đổi mới, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và việc tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở những nội dung sau đây: lãnh đạo
Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và
phát huy vai trò quản lý của Nhà nước; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước: lãnh đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan Nhà nước,
bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước,
bằng công tác kiểm tra, Đảng không làm thay công việc quản lý của Nhà nước.
Một tiền đề tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng Cộng sản Việt
Nam chính là yếu tố quyết định cho thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
16