Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh bằng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
NĂM 2012

Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh
bằng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự

Chủ nhiệm đề tài: ThS ĐẶNG THANH HOA

TP. HCM, 7/2013


DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA ĐỀ TÀI

A.

Thành viên tham gia viết Đề tài
1.

ThS. Đặng Thanh Hoa: Giảng viên Trường Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh

2.

LS. TS. Lƣu Tiến Dũng: Trọng tài viên VIAC, Luật sư thành
viên Công ty luật hợp danh YKVN


3.

TS. Trần Anh Tuấn: Giảng viên, Trưởng Bộ môn Luật tố tụng
dân sự Đại học Luật Hà Nội

4.

TS. Nguyễn Ngọc Sơn: Giảng viên Trường Đại học Kinh tế
Luật - Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh

5.

CN. Phạm Hồng Hạnh: Chuyên viên pháp lý, Công ty luật
hợp danh YKVN

B.

Thành viên tham gia thu thập và xử lý dữ liệu
6.

ThS. Nguyễn Lâm Bình: Trung tâm Tư vấn pháp luật và Đào
tạo ngắn hạn Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

7.

Lƣơng Hải Bình: Cơng ty luật NHQuang & Associates

8.

Một số sinh viên và học viên Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA NGƢỜI TIÊU DÙNG VỚI TỔ
CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH .............................................................. 7
1.1.

Cơ sở pháp lý về bảo vệ ngƣời tiêu dùng và giải quyết tranh chấp giữa
ngƣời tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh ...................................... 7

1.1.1. Tổng quan về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam ....... 7
1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng……………….……………………………...…………………...……14
1.1.3. Thủ tục giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với cá nhân, tổ chức kinh
doanh hiện nay .............................................................................................. 22
1.2.

Tính cấp thiết và nhu cầu xây dựng thủ tục rút gọn/đơn giản đối với việc
giải quyết tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với ngƣời tiêu
dùng .............................................................................................................. 23

1.3.

Một số vấn đề lý luận về xây dựng cơ chế bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu
dùng và giải quyết tranh chấp giữa ngƣời tiêu dùng với tổ chức, cá nhân
kinh doanh ................................................................................................... 24

1.3.1. Cần có cơ chế tự bảo vệ cho người tiêu dùng - trọng tâm của pháp luật về

bảo vệ người tiêu dùng .................................................................................. 25
1.3.2. Việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm cần xem xét
đến chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng - cơ sở
phát sinh tranh chấp ...................................................................................... 31
1.4.

Cần xác định nguyên tắc xây dựng thủ tục rút gọn/đơn giản trong việc
giải quyết các tranh chấp giữa ngƣời tiêu dùng với cá nhân, tổ chức kinh
doanh ............................................................................................................ 34


CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU
NẠI/TRANH CHẤP CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM VÀ
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN/ĐƠN GIẢN......36
2.1.

Thực trạng khiếu nại và giải quyết khiếu nại/tranh chấp của ngƣời tiêu
dùng .............................................................................................................. 36

2.1.1. Thực trạng khiếu nại và giải quyết khiếu nại tại các hội bảo vệ người tiêu
dùng… ........................................................................................................... 36
2.1.2. Thực trạng khiếu nại của người tiêu dùng căn cứ kết quả điều tra xã hội
học… ............................................................................................................. 40
2.2.

Thực tiễn thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp dân sự của ngƣời tiêu
dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh tại Tòa án .................................... 44

2.2.1. Sơ lược thủ tục tố tụng giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án ........................... 44
2.2.2. Sơ lược thủ tục tố tụng giải quyết việc dân sự .............................................. 47

2.2.3. Một số nhận xét về thủ tục tố tụng dân sự hiện nay ..................................... 48
2.3.

Kinh nghiệm quốc tế về giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn hoặc
thủ tục đơn giản ........................................................................................... 55

2.3.1. Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự của một số nước theo hệ thống
Châu Âu lục địa ............................................................................................. 55
2.3.2. Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự của một số nước theo hệ thống
luật Anh - Mỹ ................................................................................................ 71
2.3.3. Một số điểm giống và khác trong thủ tục rút gọn của tố tụng dân sự của hai
hệ thống pháp luật ......................................................................................... 76

CHƢƠNG 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ NÓI CHUNG VÀ ÁP DỤNG ĐỐI VỚI
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA NGƢỜI TIÊU DÙNG VỚI TỔ
CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH NÓI RIÊNG......................................79


3.1.

Nhu cầu và bối cảnh xây dựng thủ tục rút gọn/đơn giản trong tố tụng
dân sự ở Việt Nam hiện nay ....................................................................... 79

3.2.

Các quan điểm chỉ đạo về việc xây dựng thủ tục rút gọn/đơn giản trong
tố tụng dân sự tại Việt Nam ....................................................................... 80

3.2.1. Chủ trương của Đảng trong việc cải cách thủ tục tố tụng, bảo đảm hiệu quả của

hoạt động tố tụng dân sự là định hướng chỉ đạo cho việc xây dựng một thủ tục
tố tụng rút gọn ở Việt Nam ............................................................................. 80
3.2.2. Sự cần thiết phải đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc bảo vệ
quyền lợi của đương sự .................................................................................. 81
3.2.3. Việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn phải bảo đảm hiệu quả trong việc
bảo vệ quyền lợi của đương sự ....................................................................... 82
3.2.4. Việc nghiên cứu xây dựng một thủ tục tố tụng dân sự rút gọn phải bảo đảm mối
liên hệ giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng, tôn trọng quyền tự định
đoạt của đương sự .......................................................................................... 82
3.3.

Tiêu chí xác định các tranh chấp đƣợc áp dụng thủ tục rút gọn/đơn giản
trong tố tụng dân sự tại Việt Nam ............................................................. 83

3.3.1. Về vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, bị đơn khơng phản đối hoặc thừa nhận nghĩa
vụ ................................................................................................................... 83
3.3.2. Về vụ việc được các bên lựa chọn giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
....................................................................................................................... 84
3.4.

Các mơ hình thủ tục dân sự rút gọn/đơn giản đƣợc đề xuất .................. 85

3.5.

Đề xuất, kiến nghị thủ tục rút gọn/đơn giản giải quyết tranh chấp giữa
ngƣời tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh tại Việt nam.............. 86

3.5.1. Về sửa đổi quy định của Hiến pháp liên quan tới nguyên tắc Tòa án xét xử
tập thể và quyết định theo đa số .................................................................... 87



3.5.2. Về sửa đổi quy định liên quan tới nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
trong Bộ luật tố tụng dân sự .......................................................................... 90

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................98
PHỤ LỤC 1. PHIẾU KHẢO SÁT ............................................................101
PHỤ LỤC 2. THỐNG KẾ SỐ LIỆU KHẢO SÁT ...................................106


MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của Đề tài
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là một trong những nhiệm vụ của quản lý

Nhà nước và là trách nhiệm của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Thực tiễn cho
thấy, khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, mức độ tự do hóa thương mại càng
gia tăng thì càng nảy sinh nhiều vấn đề không chỉ gây ảnh hưởng đến quyền lợi
người tiêu dùng mà còn gây bất ổn cho cả nền kinh tế và xã hội nói chung.1
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được Quốc hội nước Cộng hịa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 17 tháng 11 năm
2010 và bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011. Tại Điều 41 của
Luật đã quy định rằng vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải
quyết theo thủ tục đơn giản quy định của pháp luật về tố tụng dân sự khi có đủ các
điều kiện quy định tại điều luật này, trong đó có một điều kiện là vụ án đơn giản,
chứng cứ rõ ràng.
Đối chiếu với các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, đặc biệt
là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội nước

Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 9 thơng qua ngày
29/3/2011, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/1/2012, khơng có bất kỳ một quy định
nào đề cập đến thủ tục đơn giản trong tố tụng dân sự như Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng đã quy định. Tuy nhiên, có một khái niệm, theo chúng tơi có nhiều
điểm tương đồng về nội hàm là thủ tục rút gọn/đơn giản trong tố tụng dân sự đã
từng được đề cập và bàn thảo khá lâu ngay từ những ngày đầu xây dựng Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004 và gần nhất là quá trình soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 (sau đây gọi chung là “Bộ luật tố tụng
dân sự”).
1

/>

Về cơ sở lý luận, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ ra rằng “Cải cách tư pháp phải
xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,… tiếp thu có chọn lọc những kinh
nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh của nước ta và yêu cầu chủ động
hội nhập quốc tế…”2 Nghị quyết này cũng chỉ ra những nhiệm vụ trọng tâm trong
việc hồn thiện thủ tục tố tụng tư pháp. Đó là cần phải “… Xây dựng cơ chế xét xử
theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định.”3 Đặc
biệt, tại Nghị quyết số 20/2011/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2011 về Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh của quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII đã ghi nhận việc phải
soạn thảo Pháp lệnh thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự.
Về thực tiễn, do là một vấn đề khá mới mẻ nên nhận thức về thủ tục tố tụng
dân sự rút gọn/đơn giản cũng cịn có những ý kiến trái ngược nhau. Sự khác nhau
về nhận thức trên dẫn tới quá trình xây dựng thủ tục rút gọn/đơn giản ở Việt Nam
đã gặp khơng ít khó khăn.
Từ những lý do trên, Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng, hơn lúc nào hết, bên
cạnh những phương thức giải quyết tranh chấp khác mà người tiêu dùng có thể lựa
chọn như thương lượng, hịa giải hoặc tố tụng trọng tài… thì việc xây dựng thủ tục

rút gọn/đơn giản trong tố tụng dân sự là nhu cầu cần thiết góp phần quan trọng để
người tiêu dùng có nhiều điều kiện và cơ hội thuận lợi bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ.
2.

Mục tiêu của Đề tài
Nhóm thực hiện đề tài dự định sản phẩm của cơng trình nghiên cứu phải đạt

được các mục tiêu sau đây:

2

Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,

tr. 2.
3

Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, tr. 3, 4, 10.

2


Thứ nhất: Góp phần làm rõ các tiêu chí xác định việc áp dụng thủ tục rút
gọn/đơn giản trong tố tụng dân sự và đối với việc giải quyết các tranh chấp giữa
người tiêu dùng với cá nhân, tổ chức kinh doanh;
Thứ hai: Góp phần xác định thủ tục rút gọn/đơn giản trong tố tụng dân sự và
đối với việc giải quyết các tranh chấp giữa người tiêu dùng với cá nhân, tổ chức
kinh doanh.
3.


Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là giải quyết tranh chấp về bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi tranh chấp được
giải quyết theo thủ tục tố tụng rút gọn tại Tòa án.
4.

Phƣơng pháp nghiên cứu của Đề tài
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, nhóm nghiên cứu sử dụng nhiều

phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành: (i) Phương pháp phân tích được
sử dụng nhằm nghiên cứu từ khái quát đến cụ thể từng khía cạnh của vấn đề; (ii)
Phương pháp tổng hợp được sử dụng nhằm tổng kết, xâu chuỗi các vấn đề với nhau;
(iii) Phương pháp so sánh nhằm đối chiếu giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật
một số nước trên thế giới về thủ tục rút gọn/đơn giản; (iv) Phương pháp điều tra xã
hội học nhằm bảo đảm công trình nghiên cứu có phản ánh và có kiểm chứng bởi
thực tiễn và một số phương pháp khác…
5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Đề tài
-

Góp phần xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng các môn

học tự chọn cho sinh viên hoặc các khóa học ngắn hạn cho các đối tượng có liên
quan như người tiêu dùng, nhà sản xuất trong việc tìm hiểu và vận dụng thủ tục giải
quyết các tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh tại Tòa
án.


3


-

Góp phần xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho q trình hồn thiện

pháp luật tố tụng dân sự nói chung và pháp luật về thủ tục rút gọn nói riêng nhằm
giải quyết hiệu quả hơn các tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân
kinh doanh;
-

Là nguồn tài liệu tham khảo cung cấp cho Ban soạn thảo Dự thảo Pháp

lệnh Thủ tục rút gọn/đơn giản trong tố tụng dân sự.
-

Là nguồn tài liệu tra cứu phục vụ cho công tác đào tạo bậc đại học và sau

đại học về các môn chuyên ngành tự chọn có liên quan và các khóa học ngắn hạn
(nếu có).
6.

Tình hình nghiên cứu Đề tài

6.1.

Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Cho đến nay chỉ có một số ít bài viết nghiên cứu, trao đổi về bảo vệ quyền


lợi người tiêu dùng ở Việt Nam. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc tìm
hiểu và đề xuất các biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích của người tiêu dùng chứ
chưa đề cập chuyên và sâu về cơ chế giải quyết các tranh chấp giữa người tiêu dùng
với tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Kể từ ngày Quốc hội ban hành Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có
sự chú ý nhiều hơn đến việc bàn thảo về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa người
tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh. Các cuộc trao đổi đó cũng đã được thực
hiện ngay tại diễn đàn của Quốc hội khi thảo luận về Dự án Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng. Một số hội thảo quốc tế về bảo vệ người tiêu dùng cũng đã được
tổ chức. Tuy nhiên các tài liệu và trao đổi này chưa đề cập thấu đáo vấn đề giải
quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng đối với tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh
doanh, xét từ khía cạnh nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu
dùng.

4


Về giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng thông qua thủ tục rút gọn/đơn
giản tại Tịa án thì cho đến nay mới chỉ có một số bài nghiên cứu đề xuất về việc
xây dựng thủ tục rút gọn/đơn giản trong tố tụng dân sự nói chung chứ chưa có một
nghiên cứu chuyên và sâu nào giới thiệu, tìm hiểu và xây dựng việc giải quyết tranh
chấp của người tiêu dùng nhìn từ góc độ thủ tục tố tụng rút gọn/đơn giản tại Tòa án.
Một trong những lý do của thực trạng này là do pháp luật tố tụng dân sự hiện hành
vẫn chưa có bất kỳ quy định nào đối với thủ tục rút gọn/đơn giản.
6.2.

Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc
Hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới, bên cạnh thủ tục tố tụng dân

sự thông thường cịn có thủ tục tố tụng dân sự rút gọn/đơn giản. Việc áp dụng thủ

tục tố tụng dân sự rút gọn/đơn giản để giải quyết một số loại vụ việc cụ thể nhằm
đảm bảo cho việc giải quyết tranh chấp, u cầu dân sự được nhanh chóng mà vẫn
chính xác, khách quan.
Mơ hình thủ tục rút gọn/đơn giản trong tố tụng dân sự thường được áp dụng
đối với những loại vụ án có giá trị tài sản tranh chấp khơng lớn, chứng cứ rõ ràng,
bị đơn thừa nhận nghĩa vụ hoặc các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn thủ tục này.
Việc phân biệt mơ hình thủ tục tố tụng thông thường và thủ tục tố tụng rút gọn/đơn
giản dựa trên tính chất phức tạp và giá trị tranh chấp của vụ án dân sự.
Qua nghiên cứu cho thấy có khá nhiều tài liệu nước ngoài, kể cả các quy
định của pháp luật và các bài viết liên quan, về các tiêu chí áp dụng và xác định thủ
tục rút gọn/đơn giản. Nhóm nghiên cứu Đề tài sử dụng một số nguồn tài liệu nước
ngoài trong Đề tài này nhằm đưa ra một số nhận định so sánh liên quan đến các đề
xuất và kết luận của Đề tài.
7.

Cấu trúc Báo cáo Đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Báo cáo Đề tài

gồm 3 Chương:

5


Chương1: Một số vấn đề lý luận và cơ sở pháp lý về giải quyết tranh chấp
giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh
Chương 2: Thực trạng khiếu nại và giải quyết khiếu nại/tranh chấp của
người tiêu dùng ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế về giải quyết tranh chấp về thủ
tục rút gọn/đơn giản trong tố tụng dân sự
Chương 3: Một số đề xuất về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự nói chung
và áp dụng đối với việc giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá

nhân đăng ký kinh doanh nói riêng

6


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA NGƢỜI TIÊU DÙNG VỚI
TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KINH DOANH
1.1.

Cơ sở pháp lý về bảo vệ ngƣời tiêu dùng và giải quyết tranh chấp giữa

ngƣời tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh
1.1.1. Tổng quan về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng luôn là một trong những nhiệm vụ cơ bản
của pháp luật hiện đại. Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là một trong
những bộ phận cơ bản của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh, điều tiết thị
trường. Việc bảo vệ người tiêu dùng trước những hành vi kinh doanh bất chính của
doanh nghiệp được pháp luật của các quốc gia phát triển chú trọng từ thập niên 60
và 70 của thế kỷ XX. Trong môi trường cạnh tranh, lợi nhuận là điều kiện, là mục
tiêu tồn tại của các chủ thể tham gia thị trường, việc tranh giành khách hàng là hình
thức chạy đua của các doanh nghiệp. Những hành vi giành khách hàng có thể cịn
bao gồm những thủ đoạn cạnh tranh bất chính, lừa dối, xâm phạm quyền lợi của
người tiêu dùng.
Ngày 15 tháng 3 năm 1962, Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kenedy đã tuyên bố
trước Thượng viện về các quyền cơ bản của người tiêu dùng là: quyền được an toàn,
quyền được thông tin, quyền được lựa chọn và quyền được lắng nghe ý kiến. Tổ
chức quốc tế người tiêu dùng (CI) bổ sung thêm bốn quyền cơ bản nữa là: quyền
được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, quyền được đền bù, quyền được giáo dục và

quyền được sống trong mơi trường lành mạnh. Trên tinh thần đó, pháp luật về bảo
vệ quyền lợi của người tiêu dùng phát sinh từ nhu cầu lành mạnh hóa hoạt động
cạnh tranh của thị trường. Những quyền mang tính nguyên tắc trên của người tiêu
dùng đã được nhiều quốc gia tiếp thu trong việc xây dựng pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, pháp luật cạnh tranh. Dưới áp lực từ nhu cầu của người

7


tiêu dùng về chất lượng và giá cả, các doanh nghiệp phải tìm kiếm phương cách
kinh doanh để đáp ứng tốt nhất nhu cầu đó. Trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng và pháp luật cạnh tranh luôn có các nội dung ngăn cấm và trừng phạt hành
vi cạnh tranh xâm hại lợi ích của người tiêu dùng.
Trong khung pháp luật kinh doanh của Việt Nam hiện nay, pháp luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng đã được định hình bằng sự ra đời của Luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, khi xem xét hệ thống pháp luật về kinh doanh
chúng ta có thể nhận thấy rằng, các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
xuất hiện trong nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, trong đó những lĩnh vực cơ bản
có đề cập đến nội dung này phải kể đến:
Thứ nhất, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các văn bản hướng dẫn
đặt ra nguyên tắc pháp lý cơ bản trong việc bảo vệ người tiêu dùng và thiết kế cơ
chế để thực thi nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng. Nghiên cứu những nội dung của
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, có thể nhận thấy rằng:
-

Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tạo nền tảng pháp lý và vững chắc

cho công tác bảo vệ người tiêu dùng bằng việc ghi nhận những quyền năng cơ bản
của người tiêu dùng và ghi nhận trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân kinh doanh;
-


Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã cố gắng đặt người tiêu

dùng vào vị trí thực tế của họ trong các giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh
với những dự liệu cụ thể về từng loại giao dịch đặc thù. Về cơ bản, việc bảo vệ
người tiêu dùng phát sinh từ thực tiễn của thị trường và xã hội trong từng giao dịch
giữa người tiêu dùng với các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Những giao dịch này về
cơ bản được xác lập dựa trên những nguyên lý cơ bản của dân luật, song do luôn tồn
tại những khiếm khuyết mặc nhiên về thông tin, về vị thế của người tiêu dùng trước
các tổ chức, cá nhân kinh doanh nên các nguyên tắc pháp lý của pháp luật dân sự
không thể áp dụng một cách tuyệt đối trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh.
Vì vậy, ngồi việc quy định về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh liên

8


quan đến việc cung cấp thông tin, nghĩa vụ bảo hành… Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng còn quy định rõ những tình huống xử lý điều khoản chung trong
giao dịch giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh bị vô hiệu do xâm phạm quyền hợp
pháp của người tiêu dùng, quy định về tiêu chuẩn của hợp đồng mẫu… Những quy
định này là nền tảng quan trọng để pháp luật thiết kế cơ chế cho người tiêu dùng tự
bảo vệ mình và các cơ quan, tổ chức có thể tham gia chủ động vào quá trình bảo vệ
người tiêu dùng;
-

Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn xây dựng cơ chế bảo vệ người

tiêu dùng bằng các quy định liên quan đến việc thành lập tổ chức bảo vệ người tiêu
dùng; quy định về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc bảo vệ người
tiêu dùng; quy định về cơ chế giải quyết xung đột giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh

với người tiêu dùng... Theo đó: (i) Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khẳng
định những hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là hành vi vi phạm pháp luật
và chủ thể thực hiện hành vi sẽ phải gánh chịu những chế tài nặng bằng việc xử phạt
vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự và nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường thiệt hại cho người tiêu dùng. Về lý thuyết, nguyên tắc này đã thể hiện rõ
thái độ dứt khoát của Nhà nước trong việc bảo vệ người tiêu dùng và sự nghiêm
khắc của pháp luật đối với chủ thể có hành vi vi phạm quyền lợi nguời tiêu dùng;
(ii) Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đặt ra các phương thức giải quyết tranh
chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh, bao gồm: thương lượng,
hòa giải, trọng tài và Tòa án. Các phương thức giải quyết trên chủ yếu để giải quyết
các vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu
dùng. Các phương thức này không thay thế những phương thức xử lý hành vi vi
phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ hai, bên cạnh pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, pháp luật cạnh
tranh cũng góp phần vảo bảo vệ người tiêu dùng bằng các quy định cấm hành vi
cạnh tranh không lành mạnh và xử lý những hành vi hạn chế cạnh tranh có khả năng
xâm phạm đến quyền lợi người tiêu dùng.

9


Trên thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng và khả năng của các doanh
nghiệp cùng nhau giải quyết ba vấn đề cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và
sản xuất như thế nào. Giống như việc bỏ phiếu của cử tri trong các cuộc bầu cử,
hành vi lựa chọn hàng hố và dịch vụ có chất lượng, phù hợp với nhu cầu và túi tiền
của người tiêu dùng là những hướng dẫn quan trọng liên quan đến hoạt động kinh
doanh cho các doanh nghiệp. Quyền lựa chọn được gọi là quyền tối cao, quyết định
vị trí trung tâm của người tiêu dùng trên thị trường mà bất kỳ doanh nghiệp nào
muốn tồn tại đều phải cung phụng. Để có thể tồn tại, các doanh nghiệp ln tìm
mọi phương cách và thậm chí trong một số trường hợp cịn dùng những thủ đoạn để

lơi kéo khách hàng mua sản phẩm của mình. Trên thực tế, có nhiều trường hợp
hành vi của doanh nghiệp còn là sự xâm phạm, bóc lột khách hàng, thể hiện qua
những nội dung sau đây:
-

Trong quan hệ giữa nhà sản xuất hoặc cung ứng sản phẩm và người tiêu

dùng thì người tiêu dùng ln ở vị trí bất lợi. Mặc dù mục tiêu hướng đến của quan
hệ thị trường là định hướng cơ bản cho hoạt động sản xuất và cung ứng của doanh
nghiệp, nhu cầu của người tiêu dùng bị khống chế bởi khả năng đáp ứng và chịu sự
kiểm soát từ các doanh nghiệp. Các nhà sản xuất và phân phối thường hiểu biết về
hàng hóa và dịch vụ của họ hơn người tiêu dùng. Cùng với sự tiến bộ của khoa học
kỹ thuật, hàng hóa và dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng cho xã hội hiện đại. Có một số doanh nghiệp lợi dụng sự thiếu hiểu biết của
người tiêu dùng để cung cấp các hàng hóa kém chất lượng. Khi phát hiện, người
tiêu dùng khó có thể khiếu nại hay kiện tụng vì nhiều trường hợp giao dịch đã hình
thành hồn tồn tự nguyện.
-

Dưới góc độ pháp luật, các giao dịch giữa người tiêu dùng và doanh

nghiệp là kết quả của những thỏa thuận tự nguyện. Người tiêu dùng được quyền tự
do lựa chọn hàng hóa và thiết lập giao dịch với người cung cấp. Những thỏa thuận
đã hình thành và có hiệu lực thi hành làm cho người mua phải tự hài lịng với những
gì mình đã lựa chọn. Có nhiều trường hợp việc thiếu những thơng tin về hàng hóa

10


từ những nhà cung cấp và những thủ đoạn gian dối, che lấp những khiếm khuyết

trong việc cung ứng và trong tính năng, kết cấu của sản phẩm đã dẫn đến việc hình
thành thỏa thuận. Việc giao dịch của người tiêu dùng với doanh nghiệp về hình
thức được hình thành theo sự lựa chọn và tự nguyện của người tiêu dùng. Vì thế,
nguyên tắc trung thực trong khế ước của dân luật dường như chỉ cịn mang tính hình
thức mà không thể dùng làm căn cứ pháp lý bảo vệ quyền lợi của người đã bị lường
gạt. Lúc này, sự trung thực trong cạnh tranh với những thiết chế cấm đoán của pháp
luật cạnh tranh nhằm bảo vệ sự lành mạnh của thị trường và lợi ích của người tiêu
dùng.
-

Cạnh tranh vốn là sự ganh đua để lấy lòng khách hàng. Những hạn chế

từ khả năng nhận biết tính trung thực của hành vi kinh doanh, sự phát triển không
ngừng của tư duy sáng tạo trong thủ pháp kinh doanh làm cho người tiêu dùng từ vị
trí trung tâm của thị trường thường được đi tàu bay giấy bằng các khẩu hiệu hoặc
thủ đoạn tinh vi, suy tôn họ lên vai trò của thượng đế. Đến khi thượng đế trở về với
đời sống thực mới hiểu là bị mắc lừa. Các hành vi đó ngày càng đa dạng từ những
trưng bày, quảng cáo sai sự thật cho đến những lời hứa thưởng gian dối… Những
hành vi bất chính này ảnh hưởng đến sự lựa chọn của người tiêu dùng và xâm hại
đến lợi ích của những doanh nghiệp làm ăn chân chính.
-

Khi cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bị triệt tiêu bằng những thủ đoạn

không lành mạnh hoặc bằng sự tích tụ, tập trung tất yếu của thị trường, dường như
quyền lựa chọn của người tiêu dùng - quyền tối cao trên thị trường đã bị xâm phạm.
Họ khơng cịn khả năng lựa chọn vì chỉ có một loại sản phẩm do một hoặc một
nhóm doanh nghiệp cung cấp. Lúc này, quyền được đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dùng, lợi ích chung của xã hội sẽ bị hạn chế, bị xâm phạm nghiêm trọng và
những lợi ích xã hội sẽ trở thành siêu lợi nhuận cho doanh nghiệp độc quyền.

Từ đó, một trong những vai trị của pháp luật cạnh tranh là bảo vệ người tiêu
dùng. Vai trò này được thể hiện qua các nội dung như bảo vệ người tiêu dùng trước
những hợp đồng không trung thực và không công bằng theo hướng phải sửa đổi lại

11


các điều khoản không công bằng; đặt ra các quy định trong việc đảm bảo thông tin
về sản phẩm, kiểm soát hoạt động quảng cáo, khuyến mãi và ngăn cấm các biểu
hiện bất chính trong các lĩnh vực này; quy định trách nhiệm đối với những vi phạm
có thể đe dọa đến quyền lợi của người tiêu dùng.
Trong thời kỳ đầu mới hình thành, pháp luật cạnh tranh chưa để ý đến việc
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng mà chủ yếu tập trung vào bảo vệ quyền tự do
cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thương trường. Mãi đến những thập niên 60
và 70 của thế kỷ XX, việc bảo vệ người tiêu dùng trước những thủ đoạn cạnh tranh
không lành mạnh của các doanh nghiệp mới được chú ý. Vì trong mơi trường cạnh
tranh, lợi nhuận là điều kiện, là mục tiêu tồn tại của các chủ thể tham gia thị trường,
việc tranh giành khách hàng là hình thức chạy đua của các doanh nghiệp. Những
hành vi giành khách hàng có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng
nhưng có thể là những thủ đoạn cạnh tranh bất chính, lừa dối, xâm phạm quyền lợi
của người tiêu dùng. Trên tinh thần đó, pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng phát sinh từ nhu cầu lành mạnh hóa hoạt động cạnh tranh của thị trường.
Những quyền năng mang tính nguyên tắc trên của người tiêu dùng đã được
nhiều quốc gia tiếp thu trong việc xây dựng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng và pháp luật cạnh tranh. Dưới áp lực từ nhu cầu của người tiêu dùng về
chất lượng và giá cả, các doanh nghiệp phải tìm kiếm phương thức kinh doanh để
đáp ứng tốt nhất nhu cầu đó. Trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và
pháp luật cạnh tranh ln có các nội dung ngăn cấm và trừng phạt hành vi cạnh
tranh xâm hại lợi ích của người tiêu dùng.
Nhiều nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng được quy định trong Luật Cạnh

tranh năm 2004.4 Các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi
hạn chế cạnh tranh lấy sự xâm phạm và khả năng xâm phạm quyền lợi của người
4

Khoản 2 Điều 4 Luật Cạnh tranh quy định: “Việc cạnh tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc
trung thực, không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp, của người tiêu dùng và phải tuân theo quy định của Luật này”.

12


tiêu dùng làm một trong những căn cứ cơ bản để xác định hành vi vi phạm (hành vi
áp đặt giá mua bán bất hợp lý, áp đặt giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách
hàng, hành vi hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, hành vi
ngăn cản sự gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh mới)… Nói cách khác, các
quyền hưởng thụ của người tiêu dùng, quyền lựa chọn, quyền được thơng tin, quyền
được đảm bảo an tồn là những căn cứ và nguyên tắc cơ bản để Luật Cạnh tranh xác
định các hành vi vi phạm bị luật cấm đoán.
Trong pháp luật cạnh tranh, việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng mang
một số đặc thù riêng biệt, theo đó:
(i)

Pháp luật cạnh tranh chú trọng đến việc bảo vệ người tiêu dùng trong

bối cảnh thị trường bị khiếm khuyết về cạnh tranh khi tồn tại doanh nghiệp, nhóm
doanh nghiệp có khả năng chi phối thị trường. Trong bối cảnh đó, người tiêu dùng
ln ở vào vị thế yếu hơn so với doanh nghiệp. Vì vậy, Nhà nước với vai trò quản
lý xã hội đã can thiệp vào quan hệ này bằng cơ chế giám sát các doanh nghiệp có
khả năng chi phối thị trường (có quyền lực thị trường) và xử lý những hành vi lạm
dụng quyền lực thị trường xâm phạm đến quyền lợi người tiêu dùng.

(ii)

Pháp luật cạnh tranh khơng có chức năng giải quyết tranh chấp hay

xung đột giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh là đối tượng điều chỉnh của đạo luật này
với người tiêu dùng. Pháp luật cạnh tranh sử dụng các biện pháp xử lý vi phạm
hành chính để giải quyết các hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc hành vi hạn
chế cạnh tranh bị cấm, trong đó có những hành vi xâm phạm quyền của người tiêu
dùng.
Thứ ba, các lĩnh vực pháp luật khác như pháp luật quảng cáo, pháp luật về
quản lý giá… cũng có các quy định cấm những hành vi xâm phạm người tiêu dùng,
ví dụ Luật quảng cáo năm 2012 cấm hành vi quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn,
quảng cáo những sản phẩm bị cấm quảng cáo; Luật giá năm 2012 cấm hành vi lũng
đoạn giá của doanh nghiệp xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng… Tương tự như

13


pháp luật cạnh tranh, các lĩnh vực pháp luật nêu trên cũng quy định cơ chế quản lý
Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế mà chúng điều chỉnh nên các hành vi xâm phạm
quyền lợi người tiêu dùng nghiễm nhiên bị cấm và chủ thể thực hiện hành vi bị xử
lý bằng các biện pháp xử phạt hành chính mà cơ bản là phạt cảnh cáo và phạt tiền.
Có thể thấy rằng, bảo vệ người tiêu dùng là nhiệm vụ của hệ thống pháp luật
điều chỉnh hoạt động kinh doanh. Nhà nước đã sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp
để chống lại những hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong
các biện pháp ấy việc giải quyết xung đột, tranh chấp giữa người tiêu dùng với các
tổ chức, cá nhân kinh doanh chủ yếu được đặt ra trong Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng. Vì vậy, đạo luật này là cơ sở pháp lý quan trọng để xác lập các quy tắc
giải quyết xung đột về quyền và lợi ích giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân
kinh doanh.

1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định bốn phương thức giải quyết
tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng, bao gồm: thương
lượng, hòa giải, trọng tài và giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
1.1.2.1. Thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân
kinh doanh với người tiêu dùng. Theo đó, (i) Người tiêu dùng có quyền gửi yêu cầu
đến tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ để thương lượng khi cho rằng
quyền và lợi ích của mình bị vi phạm; (ii) Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ có trách nhiệm tiếp nhận, tiến hành thương lượng với người tiêu dùng trong
thời hạn không quá 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu.5

5

Điều 31 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

14


Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không quy định chi tiết về
phương thức thương lượng ngoài yêu cầu: kết quả thương lượng thành công của tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ với người tiêu dùng được lập thể hiện
bằng văn bản, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.6
Như vậy, có thể khẳng định rằng việc sử dụng phương thức thương lượng
hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện và thiện chí của các bên trong tranh chấp. Việc thi
hành kết quả thương lượng phụ thuộc vào thái độ thiện chí của các bên.
1.1.2.2. Hòa giải
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân kinh
doanh với người tiêu dùng có sự tham gia của Hịa giải viên. Theo Luật bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng, Hịa giải viên có thể là tổ chức, cá nhân được các bên
trong tranh chấp thỏa thuận lựa chọn để tham gia giải quyết tranh chấp giữa người
tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Nghị định 99/2011/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2011 quy định Tổ chức
hòa giải do Cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Cục
Quản lý cạnh tranh) hoặc Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
thành lập; Hòa giải viên là cá nhân phải đáp ứng các điều kiện sau: (i) cơng dân
Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; (ii) có phẩm chất đạo đức tốt, trung
thực; (iii) có ít nhất năm năm kinh nghiệm công tác; (iv) không phải là người đang
bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án mà
chưa được xóa án tích.7
Phương thức hịa giải trong giải quyết tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân kinh
doanh với người tiêu dùng mang đủ đặc trưng của một cách thức tự giải quyết. Mặc
dù có sự tham gia của Tổ chức hịa giải hoặc Hòa giải viên, song phương thức này
6

Điều 32 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

7

Điều 31, Điều 32 Nghị định 99/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

15


khơng đảm bảo tính cưỡng chế thi hành đối với kết quả hòa giải thành. Việc thi
hành kết quả hòa giải thành phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp. Do đó,
khi kết quả hịa giải khơng được các bên tự nguyện thi hành thì phát sinh quyền
khởi kiện ra trọng tài hoặc Tòa án theo quy định của pháp luật.

Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì hịa giải tiền tố
tụng là phương thức giải quyết tranh chấp được thực hiện trước khi người khởi kiện
nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp và đây là điều kiện tiên quyết để Tòa
án thụ lý đơn khởi kiện và giải quyết vụ án trong một số trường hợp đặc biệt. Theo
đó, có hai loại tranh chấp được luật chuyên ngành quy định bắt buộc phải hòa giải
trước khi yêu cầu Tòa án giải quyết, đó là tranh chấp về đất đai và tranh chấp lao
động.8 Trong trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án nhưng khi xem xét hồ sơ, chứng
cứ nhận thấy các bên đương sự chưa thực hiện hịa giải tại cơ sở thì Tịa án sẽ ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự chờ đương sự tiến hành hịa giải tại
cơ sở.9
Ngồi hai trường hợp trên, các vụ án dân sự còn lại được tiến hành giải
quyết vụ án theo thủ tục tố tụng thơng thường mà khơng phải thơng qua hịa giải
tiền tố tụng. Do đó, đối với những vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, việc hòa giải tiền tố tụng không là điều kiện bắt buộc để Tòa án thụ lý vụ án.
Tương tự, trong pháp luật trọng tài, việc các bên hòa giải hoặc chưa hòa giải trước
khi khởi kiện một vụ việc thuộc thẩm quyền của trọng tài không phải là điều kiện để
bắt đầu một thủ tục trọng tài.
1.1.2.3. Trọng tài
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp ngồi Tịa án, theo đó các bên
tranh chấp thỏa thuận đưa tranh chấp của mình đến một trọng tài viên hoặc một hội
8

Xem Điều 135 Luật đất đai 2003 và Điều 201 Bộ luật lao động 2012.

9

Khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Cần chờ kết quả giải quyết của vụ án có liên
quan và sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết vụ
án”.


16


đồng trọng tài để giải quyết theo quy định của pháp luật và chấp nhận sự ràng buộc
về mặt pháp lý, tuân thủ phán quyết của trọng tài viên hoặc của hội đồng trọng tài.10
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quy định về việc sử dụng phương thức
trọng tài để giải quyết tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu
dùng, theo đó:
Thứ nhất, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Luật Trọng tài thương
mại coi trọng ý chí của người tiêu dùng trong việc quyết định lựa chọn trọng tài làm
phương thức giải quyết tranh chấp. Điều 38 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
quy định: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải thơng báo về điều
khoản trọng tài trước khi giao kết hợp đồng và được người tiêu dùng chấp thuận.
Trường hợp điều khoản trọng tài do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
đưa vào hợp đồng theo mẫu hoặc điều kiện giao dịch chung thì khi xảy ra tranh
chấp, người tiêu dùng là cá nhân có quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp khác.” Điều 17 Luật Trọng tài thương mại quy định: “Đối với các tranh chấp
giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng
tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do
nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa
chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch
vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.”
Như vậy, người tiêu dùng có vai trị quyết định trong việc lựa chọn trọng tài
để giải quyết tranh chấp và các quy định trên của pháp luật có ý nghĩa ngăn chặn sự
chi phối của tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với việc lựa chọn trọng tài giải quyết
tranh chấp.
Thứ hai, thủ tục tố tụng trong phương thức giải quyết tranh chấp theo quy
định của pháp luật trọng tài và theo quy tắc tố tụng của từng tổ chức trọng tài nếu
10


Trung tâm trọng tài Thương mại quốc tế - UNCTAD CNUCED (2001), Trọng tài và phương thức
giải quyết tranh chấp lựa chọn: Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế như thế nào, Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam, tr. 68.

17


các bên lựa chọn hình thức trọng tài quy chế để giải quyết tranh chấp. Như vậy,
pháp luật không đặt ra cơ chế đặc biệt về tố tụng trọng tài đối với việc giải quyết
tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng. Về nguyên tắc,
pháp luật trọng tài khơng có những quy định riêng biệt trong việc giải quyết loại
tranh chấp này. Các nguyên tắc và các quy trình cơ bản trong thủ tục trọng tài được
Luật Trọng tài thương mại quy định cho các vụ việc thuộc thẩm quyền trọng tài đều
áp dụng đối với các tranh chấp có sự tham gia của người tiêu dùng với tư cách là
một bên của tranh chấp.
Thứ ba, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đặt ra quy định riêng về nghĩa
vụ chứng minh trong việc giải quyết tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh
với người tiêu dùng bằng phương thức trọng tài. Mặc dù Luật Trọng tài thương mại
khơng có điều luật riêng biệt về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng trọng tài, song
với các quy định về việc khởi kiện, nộp bản tự bảo vệ và quyền kiện lại của bị đơn
cho thấy nghĩa vụ chứng minh về yêu cầu và quan điểm trong tố tụng trọng tài
thuộc về các chủ thể đưa ra yêu cầu. Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quy
định rõ hơn về vấn đề này, theo đó: “Người tiêu dùng có nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ và chứng minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi của tổ chức,
cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh mình khơng có lỗi gây ra thiệt hại.”11
Như vậy, bằng quy định này pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã
giảm bớt một phần trách nhiệm của người tiêu dùng trong việc chứng minh về các
vấn đề liên quan đến yêu cầu của họ, trong đó việc chứng minh hành vi xâm phạm

quyền của người tiêu dùng, chứng minh về thiệt hại phải gánh chịu thuộc về người
yêu cầu. Yếu tố lỗi sẽ là mặc định trừ khi tổ chức, cá nhân kinh doanh chứng minh
họ khơng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại hoặc đối với hành vi vi phạm. Quy định
này được xây dựng từ sự khác biệt trong khả năng thu thập thông tin về hành vi
11

Điều 40 và Điều 42 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

18


giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh. Người tiêu dùng được giải
phóng khỏi nghĩa vụ chứng minh vượt quá khả năng của họ.
1.1.2.4. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định về việc giải quyết tranh
chấp giữa tổ chức, cá nhân với người tiêu dùng bằng thủ tục tố tụng dân sự, theo đó:
Thứ nhất, vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là vụ án mà bên
khởi kiện là người tiêu dùng hoặc tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 12
Như vậy, đặc trưng của vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
được xác định bằng chủ thể khởi kiện là người tiêu dùng hoặc tổ chức xã hội tham
gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đối với trường hợp tổ chức bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng khởi kiện thì tổ chức khởi kiện phải có trách nhiệm thơng báo cơng
khai bằng hình thức phù hợp về việc khởi kiện và chịu trách nhiệm về thơng tin do
mình cơng bố, bảo đảm khơng ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của tổ chức,
cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.13 Nội dung thông báo về việc khởi kiện phải
đảm bảo theo quy định tại Khoản 2 Điều 44 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ hai, vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết
theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật về tố tụng dân sự khi có đủ các điều
kiện sau đây: “Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp

cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện; Vụ án đơn giản,
chứng cứ rõ ràng; Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng.”14
Căn cứ theo quy định này, vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
được chia làm hai nhóm: nhóm giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường và
12

Khoản 1 Điều 41 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

13

Điều 44 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

14

Khoản 2 Điều 41 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

19


×