Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (22.34 MB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

Ồ XUÂN TUẤN

LÊ THỊ HUỆ

THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ HUỆ

THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG


TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Đề tài “Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam” là cơng trình do
chính tác giả nghiên cứu, thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.
Nguyễn Thị Hồi Phương. Các số liệu trích dẫn trong luận văn đều trung thực,
chính xác, mọi kết quả nghiên cứu của các cơng trình được sử dụng trong luận văn
đều được tôn trọng giữ nguyên ý tưởng và có trích dẫn nguồn đầy đủ. Nội dung của
luận văn khơng sao chép bất cứ cơng trình khoa học nào.
Tác giả xin chịu trách nhiệm về tính trung thực của luận văn.
Tác giả luận văn

Lê Thị Huệ


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
ADBPKCTT
BLTTDS
HĐXX
Luật TCTAND
TANDTC
TAND
TTRG
TTDS

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Bộ luật tố tụng dân sự
Hội đồng xét xử
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

Tòa án nhân dân tối cao
Tòa án nhân dân
Thủ tục rút gọn
Tố tụng dân sự


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ................................................................................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân
sự ......................................................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự ....................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự ............................... 11
1.1.3. Ý nghĩa của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự ............ 13
1.1.4. Tổng quan các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục rút gọn
trong tố tụng dân sự trước ngày 01/01/2005 ................................................... 14
1.2. Quy định pháp luật về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự tại một
số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam............................................................ 19
1.2.1. Quy định về phạm vi, nguyên tắc, điều kiện giải quyết vụ án theo
thủ tục rút gọn ................................................................................................ 19
1.2.2. Quy định về trình tự, thủ tục xét xử theo thủ tục rút gọn ....................... 23
1.2.3. Quy định về thành phần xét xử và hiệu lực của bản án khi áp dụng
thủ tục rút gọn ................................................................................................ 29
1.2.4. Quy định về án phí, lệ phí đối với trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn....... 31
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM ................................................................................... 35
2.1. Thực trạng tố tụng dân sự và xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút
gọn ở Việt Nam................................................................................................. 35

2.1.1. Thực trạng tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay .................................... 35
2.1.2. Thực trạng xây dựng thủ tục rút gọn ở Việt Nam hiện nay .................... 45
2.2. Đề xuất các nội dung cơ bản của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân
sự Việt Nam ...................................................................................................... 46
2.2.1. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam ........... 46
2.2.2. Nguyên tắc áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam ...... 53
2.2.3. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam ......... 56
2.2.4. Thành phần tiến hành tố tụng theo thủ tục rút gọn trong tố tụng
dân sự Việt Nam ............................................................................................. 59
2.2.5. Thời hạn giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn trong tố tụng dân
sự Việt Nam .................................................................................................... 61


2.2.6. Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn trong tố
tụng dân sự Việt Nam ..................................................................................... 62
2.2.7. Mức án phí, lệ phí đối với trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn
trong tố tụng dân sự Việt Nam ........................................................................ 68
2.2.8. Cơ chế chuyển đổi từ giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn sang
giải quyết theo thủ tục thông thường .............................................................. 68
2.2.9. Hiệu lực pháp lý đối với bản án, quyết định của Tòa án khi áp dụng
thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam .................................................... 69
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong xu thế hội nhập hiện nay, bên cạnh những lợi ích mang lại từ quá trình
giao lưu, hợp tác kinh tế quốc tế thì số lượng các tranh chấp trong quan hệ dân sự,
kinh doanh, thương mại cũng tăng lên đáng kể. Thực tế này đã dẫn đến nhiều áp lực
cho công tác xét xử của Tòa án nhân dân các cấp, do đó, u cầu về cải cách trình
tự, thủ tục xét xử vụ án dân sự nhanh chóng, linh hoạt nhằm giải quyết những tranh
chấp có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối yêu cầu của
nguyên đơn hoặc những vụ án có giá ngạch thấp là một yêu cầu cấp thiết.
Trên cơ sở nắm bắt và dự liệu được những đòi hỏi của thực tiễn khách quan
trong lĩnh vực tố tụng dân sự, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương, đường lối
đúng đắn tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với nội dung chỉ đạo: “… Xây dựng cơ chế xét
xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”. Quán
triệt tinh thần chỉ đạo trên, ngày 18/6/2013, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số
45/2013/QH13 về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ
Quốc hội khóa XIII năm 2013 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014,
trong đó, bổ sung dự án Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) vào Chương trình chính
thức.
Điều 103 Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã
quy định các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Tòa án với những nội dung
mang tính đổi mới và có tính chất đột phá. Các quy định của Hiến pháp mới đã tạo
cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng mơ hình xét xử của Tịa án nhân dân
theo thủ tục rút gọn. Có thể thấy rằng, mặc dù thủ tục rút gọn đang còn là vấn đề
mới trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam nhưng việc quy định thủ tục rút gọn
trong giai đoạn hiện nay là phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp mà Đảng và
Nhà nước đã đề ra.
Tuy nhiên, việc xây dựng mơ hình xét xử các vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn
hiện nay sao cho phù hợp với các nguyên tắc của Hiến pháp, Bộ luật dân sự và đảm
bảo nhu cầu giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật đang là vấn đề
gây nhiều tranh luận và có nhiều luồng quan điểm khác nhau, chủ yếu xoay quanh
các vấn đề như: về nguyên tắc, phạm vi, điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn; về trình

tự, thủ tục khi áp dụng thủ tục rút gọn; về thành phần, số lượng Thẩm phán tham gia
phiên tòa; về yêu cầu tiến hành hòa giải của Tòa án nhân dân; về thời hạn xét xử vụ


2

án theo thủ tục rút gọn; về hiệu lực của bản án sơ thẩm và quyền kháng cáo xét xử
theo thủ tục phúc thẩm.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự
Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Luật Dân sự và Tố
tụng dân sự của mình. Thơng qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả hy vọng kết quả
của việc nghiên cứu sẽ đưa ra những giải pháp hiệu quả trong việc xây dựng các
quy định về thủ tục rút gọn trong giải quyết các vụ án dân sự và góp phần hồn
thiện pháp luật tố tụng dân sự tại Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của Chiến lược
cải cách tư pháp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát, tổng hợp những cơng trình nghiên cứu trong khoa học pháp lý
trong nước liên quan đến đề tài “Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam”,
tác giả nhận thấy trong thời gian qua có nhiều cơng trình nghiên cứu dưới các góc
độ khác nhau, cụ thể như :
- Đặng Thanh Hoa (2012), “Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ
chức, cá nhân kinh doanh bằng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự”, Đề tài nghiên
cứu khoa học của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung cơng
trình này đề cập đến các vấn đề về tiêu chí áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân
sự và cách thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và cá nhân, tổ chức kinh
doanh.
- Trần Anh Tuấn (2000), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây
dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học của
Trường Đại học Luật Hà nội. Đề tài này được thực hiện trong thời điểm Hiến pháp
năm 1992 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 đang có hiệu

lực áp dụng. Trong luận văn, tác giả tập trung phân tích những cơ sở lý luận và thực
tiễn để làm rõ sự cần thiết xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam
và đưa ra một số kiến nghị xây dựng mơ hình thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự.
- Trần Anh Tuấn (2014), “Về xây dựng mơ hình tố tụng dân sự rút gọn ở Việt
Nam”, Tạp chí Luật Học (số 7). Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng và nêu một số
kiến nghị xây dựng mơ hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn tại việt Nam trên cơ sở
nghiên cứu, so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong phạm
vi một bài báo khoa học, tác giả chỉ dừng lại ở việc nêu khái quát các kiến nghị
mang tính định hướng chung.
- Đỗ Văn Chỉnh, Phạm Thị Hằng (2013), “Cần có quy định thủ tục rút gọn
trong Bộ luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân (số 3). Bài viết nêu khái


3

quát về thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
hiện hành và nhấn mạnh sự cần thiết quy định thủ tục rút gọn.
- Trương Hịa Bình (2004), “Vấn đề áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử và
thành lập tòa giản lược trong hệ thống tòa án nhân dân”, Tạp chí Tịa án nhân dân
(số 4). Bài viết nêu khái quát chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn
đề xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự và yêu cầu thành lập tòa giản lược
trong hệ thống tòa án cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn xét xử.
- Trần Anh Tuấn (2004), “Thủ tục xét xử nhanh trong Bộ luật Tố tụng dân sự
Pháp và yêu cầu xây dựng thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam”,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật (số 2). Bài viết tập trung so sánh các quy định về thủ
tục tố tụng nhanh trong Bộ luật tố tụng dân sự Pháp 1807 và các quy định về thủ tục
này trong Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 để chỉ ra những điểm
tương đồng và những đặc thù riêng nhằm rút ra những nhân tố hợp lý cho việc hoàn
thiện dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
- Ngô Anh Dũng (2002), “Sự cần thiết phải quy định thủ tục rút gọn trong

pháp luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân (số 4). Bài viết nhấn mạnh việc
quy định thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự là rất cần thiết, là đòi hỏi
bức xúc mà thực tiễn trong cơng tác xét xử và nhiều cơng trình nghiên cứu khác về
thủ tục rút gọn đã giúp tác giả có cái nhìn tồn diện, bao qt hơn về bản chất pháp
lý thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự.
Nhìn chung, các bài viết, cơng trình nghiên cứu chủ yếu đề cập đến sự cần
thiết quy định về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự, nêu khái quát một số quy định
liên quan đến thủ tục rút gọn tại một số nước trên thế giới và đưa ra một số kiến
nghị về xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự tại Việt Nam mà chưa đề cập
nhiều đến điều kiện; trình tự, thủ tục; hiệu lực của bản án khi giải quyết vụ án dân
sự theo thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, những cơng trình nghiên cứu trên là nguồn tài
liệu quý giá để tác giả tham khảo trong q trình nghiên cứu và hồn thành luận văn
của mình. Tiếp nối những kết quả nghiên cứu trên, tác giả tiếp tục đưa ra những
kiến nghị, đề xuất xây dựng quy định về điều kiện; trình tự, thủ tục; hiệu lực của
bản án khi giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn được hiệu quả, đáp ứng yêu
cầu của Chiến lược cải cách tư pháp.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận,
nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ và
một số nước trên thế giới để so sánh quy định về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân


4

sự nhằm đề xuất những giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp, luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần hồn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đối với các quy định
về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả đặt ra các nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và xây dựng khái niệm thủ tục rút gọn,
phân tích đặc điểm, ý nghĩa và sự cần thiết quy định thủ tục rút gọn trong tố tụng
dân sự.
- Nghiên cứu, phân tích và so sánh các quy định về thủ tục rút gọn của một số
nước tiên tiến trên thế giới để rút ra kinh nghiệm học tập cho Việt Nam.
- Phân tích, tổng hợp số liệu thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân và nghiên
cứu hệ thống cơ sở lý luận để lý giải được các câu hỏi đặt ra xoay quanh vấn đề này
như: trong trường hợp nào thì các tranh chấp dân sự sẽ được giải quyết theo thủ tục
rút gọn? những điểm khác biệt giữa thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự và thủ tục
thơng thường là gì? ưu điểm của việc áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử? cách
thức xây thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự tại Việt Nam.
- Đề xuất một mơ hình về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự để giải quyết
một số vụ án dân sự, kinh tế, lao động ở Việt Nam.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, đối tượng nghiên cứu và
phương pháp nghiên cứu.
4.1 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ hệ thống pháp luật về tố tụng dân sự
của Việt Nam và phân tích, tổng hợp tình hình thực tiễn xét xử của Tịa án nhân
dân. Ngồi ra, luận văn cịn đề cập đến các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
của một số nước như Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Vương quốc Anh,
Liên bang Nga, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,
Singgapor, Austraylia nhằm so sánh, tham khảo.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà tác giả muốn nghiên cứu bao gồm:
Thứ nhất, những quy định của pháp luật tố tụng dân sự thông thường và quy
định về thủ tục rút gọn từng tồn tại trong các văn bản pháp luật qua các thời kỳ.
Thứ hai, thực tiễn hoạt động tố tụng dân sự của Toà án nhân dân các cấp
nhằm làm rõ khả năng xây dựng thủ tục rút gọn đối với thủ tục xét xử sơ thẩm trong
tố tụng dân sự ở Việt Nam.



5

4.3. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận, quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện
chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư
pháp. Đồng thời, kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như:
Phương pháp lịch sử, so sánh: phương pháp này được tác giả tập trung sử
dụng tại chương 01 để nghiên cứu, so sánh những quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam và pháp luật các nước có liên quan về phạm vi, điều kiện, trình tự,
thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn.
Phương pháp phân tích: phương pháp này được sử dụng xuyên suốt trong 02
chương của luận văn.
- Tại chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích để phân tích các khái
niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quy định pháp luật tố tụng dân sự về thủ tục rút gọn.
- Tại chương 2, tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích thực trạng quy
định pháp luật và công tác xét xử vụ việc dân sự theo quy định hiện hành. Đồng thời,
tác giả còn sử dụng phương pháp này để phân tích khi đề cập đến những khó khăn,
vướng mắc của việc áp dụng các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân
sự theo thủ tục thơng thường tại Tịa án nhân dân, từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất
xây dựng thủ tục rút gọn nhằm mục đích đơn giản hóa thủ tục tố tụng dân sự.
Phương pháp thống kê: phương pháp này được tác giả sử dụng để thống kê
các số liệu từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp và khảo sát ý kiến.
Phương pháp tổng hợp: tác giả sử dụng để tổng kết, xâu chuỗi và đưa ra các
kết luận về vấn đề trên cơ sở các trên cơ sở phân tích, so sánh, thống kê các tài liệu
thu thập được.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở phân tích quy định pháp luật luật thực định và thực tiễn hoạt động
tố tụng dân sự của Toà án qua các thời kỳ, tác giả đã đưa ra những đề xuất về việc
xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam. Cụ thể là:

Thứ nhất: Đưa ra khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút
gọn.
Thứ hai: Dựa trên các luận cứ khoa học, tác giả đã đưa ra một số vấn đề cơ bản
trong việc xây dựng mơ hình thủ tục rút gọn, trên cơ sở rút ngắn về thời gian, đơn
giản hoá về thành phần người tiến hành tố tụng cũng như thủ tục tố tụng mà Toà án
phải tiến hành so với thủ tục tố tụng thông thường.
Ngồi ra, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho cơng tác
nghiên cứu hồn thiện quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, công tác đào
tạo, nghiên cứu khoa học và những người có quan tâm đến vấn đề này.


6

6. Bố cục luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn được chia thành hai (02) chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự.
Chương 2. Xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam


7

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự
Nhà nước pháp quyền luôn tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân trong mọi lĩnh vực đời sống, để đạt được mục tiêu đó thì yêu cầu đặt ra là
phải nghiên cứu, xây dựng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của quy định pháp luật

nhằm phát huy tối đa vai trị thực thi cơng lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân một cách nhanh chóng, kịp thời. Trong thực tế, khi các bên đương sự
không thể cùng nhau thỏa thuận về ý chí và mục đích chung thì cơ quan Tịa án là
giải pháp lựa chọn cuối cùng. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là làm thế nào để cơ quan
Tòa án phát huy hiệu quả hoạt động nhanh chóng và kịp thời bảo vệ quyền lợi chính
đáng của cơng dân mỗi khi cần thiết?
Để trả lời được câu hỏi nêu trên thì trước hết cần nghiên cứu xây dựng một
cơ chế xét xử linh hoạt, đáp ứng yêu cầu về trình tự, thủ tục xét xử của Tịa án sao
cho thật nhanh chóng, kịp thời để giúp người dân dễ dàng tiếp cận công lý, bảo vệ
tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp dựa trên nền tảng quy định pháp luật chặt
chẽ, đơn giản, gọn nhẹ và phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Về mặt lý luận, đơn giản hóa thủ tục tố tụng là làm giảm đi số lượng và trình
tự các bước thực hiện trên cơ sở trình tự, thủ tục xét xử thơng thường để giản lược
đi những bước không cần thiết mà vẫn không làm thay đổi bản chất của bản án,
quyết định của Tòa án, vẫn bảo đảm được yếu tố hợp hiến, hợp pháp và mang lại
nhiều hiệu quả cho công tác xét xử. Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam
đã đề cập đến TTRG trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 tại Chương XXXIV
(từ Điều 318 đến Điều 324). Theo đó, TTRG được hiểu là “thủ tục đặc biệt trong tố
tụng hình sự được áp dụng đối với những vụ án về tội phạm ít nghiêm trọng, sự việc
phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả
tang, có căn cước, lai lịch rõ ràng”1. Khác với khoa học luật Hình sự, mặc dù
TTRG trong TTDS khơng phải là vấn đề mới trong khoa học pháp luật TTDS các
quốc gia theo hệ thống thông luật và dân luật trên thế giới nhưng đây là một vấn đề
mới trong pháp luật TTDS Việt Nam, được chính thức ghi nhận tại Điều 103 Hiến
pháp năm 2013, đồng thời, được Quốc hội khóa XIII thống nhất chủ trương xây

1

Đại học luật Hà Nội (2013), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, tr.535.



8

dựng TTRG trong xét xử nhằm đảm bảo mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp
trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Mục đích của TTDS là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức và lợi ích của nhà nước2. Theo đó, tiến trình giải quyết vụ việc dân sự là
chuỗi các hoạt động có liên quan mật thiết với nhau, diễn ra theo nhiều bước tuần tự
và mang tính quy tắc bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Tuy nhiên, nếu giải quyết tất cả các vụ án dân
sự theo thủ tục thơng thường thì sẽ khơng đáp ứng được yêu cầu về sự linh hoạt của
công tác xét xử trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay do số lượng tranh chấp
đang gia tăng nhanh chóng và tính chất ngày càng phức tạp. Vì vậy, cần thiết phải
xây dựng một loại thủ tục xét xử song song với thủ tục TTDS thông thường3 nhưng
vẫn đảm bảo tính nhanh gọn, chính xác và cơng bằng của pháp luật.
Theo Từ điển luật học Black’s Law Dictionary thì thuật ngữ “summary
Proceeding được định nghĩa là: “a non jury proceeding that settles a controversy or
dispose of a case in a relatively prompt and simple manner” 4, tạm dịch: TTRG là
một quy trình giải quyết một vụ tranh chấp hoặc mâu thuẫn trong trường hợp liên
quan đến hành vi đơn giản và rõ ràng mà khơng có bồi thẩm đoàn”.
Theo từ điển Thuật ngữ pháp luật Pháp - Việt thì thuật ngữ “Procédure
sommaire” được hiểu là: “thủ tục tố tụng theo đó các thủ tục được đơn giản hóa hơn
so với thủ tục tố tụng thông thường, được áp dụng trước các Tịa án theo thơng luật
hoặc trước các Tịa án có thẩm quyền chung trong những trường hợp đặc biệt”5.
Qua nghiên cứu các giáo trình và quy định pháp luật TTDS hiện hành cho thấy,
TTRG trong TTDS là một vấn đề pháp lý khá mới mẻ ở Việt Nam nên vẫn chưa có
một tài liệu chính thống nào định nghĩa chính xác, đầy đủ về thủ tục này. Thực tế cũng
cho thấy, ở các quốc gia có nền lập pháp khác nhau đều có sự khác nhau nhất định về
tên gọi và mức độ rút gọn trong quá trình xét xử vụ án dân sự theo thủ tục này. Ở một
số nước trên thế giới, tuy đã có quy định về TTRG nhưng vẫn còn tồn tại nhiều quan

điểm khác nhau về cách hiểu và khái niệm của TTRG trong TTDS6.
Các nước theo hệ thống luật dân sự mà điển hình là Pháp cho thấy cũng
khơng có một khái niệm riêng về TTRG. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Pierre
2

Viện khoa học pháp lý Bộ tư pháp, Từ điển luật học, Nxb Tư pháp và Nxb Từ điển bách khoa, tr.785.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011.
4
Bryan A.Garner (2009) Black’s Law Dictionary, 9th edition, st.paul, MN:West, p.559.
5
Nguyễn Văn Bỉnh (chủ biên) (2009) từ điển pháp luật Pháp –Việt, nhà pháp luật Việt – Pháp, Nxb từ điển
bách khoa, Hà Nội, tr.706.
6
Trần Anh Tuấn (2014), “Đơn giản hóa thủ tục tố tụng dân sự trong bối cảnh cải cách tư pháp và hội nhập
kinh tế, quốc tế”, xu thế đơn giản hóa thủ tục tố tụng dân sự trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với
Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp khoa, Hà Nội, Tr.1.
3


9

Estoup thì “Thủ tục ra lệnh là loại hình đơn giản cho phép người có quyền có được
lệnh buộc người có nghĩa vụ phải thanh tốn một khoản nợ hoặc thi hành một nghĩa
vụ từ hợp đồng”7.
Mặc dù tại Việt Nam chưa có cách hiểu thống nhất về khái niệm TTRG
nhưng cũng có một vài ý kiến nhắc tới một số đặc điểm của loại thủ tục này, cụ thể
theo tác giả Nguyễn Huy Đẩu thì “Thủ tục giản lược là một thủ tục ít lệ thức, đỡ tốn
kém và mau chóng hơn, được nhà lập pháp dự liệu như biệt lệ đối với thủ tục tố
tụng thơng thường”8, cịn theo tác giả Nguyễn Cơng Bình thì TTRG là cụm từ ghép
của “thủ tục” và “rút gọn”, với quan điểm này tác giả cho rằng nếu xét theo nghĩa

thông thường thì thủ tục được hiểu là “những việc cụ thể phải làm theo một trật tự
quy định, để tiến hành một cơng việc có tính chính thức”9, cịn rút gọn được hiểu là
“làm cho có hình thức ngắn gọn, đơn giản hơn”10. Trên cơ sở phân tích khá đơn
giản theo cách hiểu thông thường như trên, tác giả Nguyễn Công Bình cũng đưa ra
khái niệm về TTRG như sau: “thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là một thủ tục đặc biệt
của tố tụng dân sự được pháp luật quy định để áp dụng giải quyết các vụ việc dân
sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có nội dung đơn giản,
rõ ràng hoặc có giá ngạch thấp, với thủ tục, thành phần tiến hành tố tụng và tham
gia tố tụng được giản lược, thời hạn giải quyết ngắn”11. Cũng tương tự như vậy, tác
giả Trần Anh Tuấn cũng đưa ra định nghĩa về TTRG như sau: “Thủ tục rút gọn
trong tố tụng dân sự là một quy trình tố tụng được áp dụng để Tòa án giải quyết các
loại vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hơn nhân và gia đình có nội dung đơn giản,
chứng cứ rõ ràng hay tranh chấp hợp đồng về tài sản có giá ngạch thấp”12.
Ngồi ra, có một số bài viết, cơng trình nghiên cứu cũng đưa ra khái niệm về
TTRG, cụ thể theo tác giả Phạm Thị Hằng và Đỗ Văn Chỉnh thì cho rằng: “Thủ tục
rút gọn giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án giải quyết vụ án dân sự mà vụ án đó
có đủ điều kiện được áp dụng quy định về giảm bớt thủ tục, giảm bớt người giải
quyết, rút ngắn thời gian giải quyết, đơn giản về hình thức giải quyết tại Tòa án cấp
sơ thẩm”13, theo quan điểm này, hai tác giả thống nhất về căn cứ xác định TTRG để
TAND áp dụng giải quyết vụ án dân sự là nhằm rút ngắn thời gian và hình thức giải
7

Pierre Estoup (1990), la pratique des procédures rapides, Litec, tr.279.
Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Nxb Sài Gịn, tr.503.
9
Viện ngơn ngữ học (2006), từ điển tiếng việt – Nxb Đà Nẵng, tr.960.
10
Viện ngôn ngữ học (2006), từ điển tiếng việt – Nxb Đà Nẵng, tr.839.
11
Nguyễn Cơng Bình, chun đề “Khái niệm đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục tố tụng dân sự rút gon”, đề tài

vấn đề xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay - thực trạng và giải pháp, Tr.134.
12
Trần Anh Tuấn (2000), Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng
dân sự Việt Nam, Luận văn cao học, tr.85.
13
Đỗ Văn Chỉnh, Phạm Thị Hằng (2013), “Cần có quy định thủ tục rút gọn trong Bộ luật Tố tụng dân sự”,
tạp chí Tịa án nhân dân, (3), Tr.14.
8


10

quyết khi vụ án dân sự thỏa mãn những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, định nghĩa
chưa nêu cụ thể trình tự, thành phần xét xử, cấp xét xử và giá trị hiệu lực của bản
án, quyết định được xét xử theo TTRG.
Bên cạnh đó, theo tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy lại cho rằng “TTRG là dạng
đơn giản hóa của thủ tục xét xử thông thường được sử dụng để giải quyết vụ án dân
sự có chung những đặc điểm là nhỏ, đơn giản, rõ ràng và có giá trị tranh chấp nhỏ.
Phán quyết và quyết định của Tòa án sử dụng thủ tục rút gọn có thể có giá trị chung
thẩm”14, với quan điểm này, tác giả đã nêu ra cơ sở xây dựng TTRG là dạng đơn
giản hóa các quy định của thủ tục thơng thường, liệt kê một số đặc điểm làm cơ sở
để áp dụng TTRG. Tuy nhiên, định nghĩa vẫn chưa liệt kê đầy đủ các trường hợp,
phạm vi các loại tranh chấp nảy sinh trên thực tế để có thể áp dụng TTRG nhằm
giải quyết vụ án dân sự nhanh chóng.
Có thể nhận thấy, mặc dù các tác giả chưa đưa ra khái niệm về TTRG một
cách đầy đủ và chính xác tuyệt đối, tuy nhiên, cũng làm sáng tỏ một số yêu cầu cơ
bản và cần thiết của khái niệm TTRG trong TTDS, bảo đảm những quy định mang
tính nguyên tắc chung, nền tảng. Những quan điểm nêu trên là cơ sở lý luận quan
trọng giúp tác giả rút ra những đặc điểm cơ bản của TTRG trong TTDS. Cùng với

việc tổng hợp tài liệu và nghiên cứu quy định pháp luật các nước trên thế giới về
TTRG trong TTDS có thể rút ra một số tiêu chí xác định như sau:
Thứ nhất, đây là thủ tục được áp dụng để giải quyết các vụ án dân sự kinh
doanh, thương mại, lao động, hơn nhân và gia đình có nội dung đơn giản, chứng cứ
rõ ràng, các bên đương sự đều thừa nhận hoặc không phản đối quyền và nghĩa vụ.
Thứ hai, đây là một thủ tục đặc biệt dựa trên sự đơn giản hóa thủ tục tố tụng
thơng thường khi vụ án thỏa mãn những điều kiện luật định nhằm bảo vệ nhanh
chóng, kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.
Thứ ba, đây là một thủ tục được rút ngắn về thời gian, lược bỏ một số trình
tự, thủ tục, hành vi tố tụng, thành phần xét xử không cần thiết so với thủ tục tố tụng
thông thường nhưng vẫn đảm bảo được tính chính xác và khách quan của bản án,
quyết định.
Thứ thư, bản án, quyết định giải quyết theo TTRG sẽ có hiệu lực ngay, có thể
bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật.
Như vậy, về bản chất thì việc xét xử theo TTRG khơng phải là một cấp xét
xử riêng biệt nằm ngoài thủ tục thủ tục TTDS thông thường mà thủ tục thông
thường là cơ sở của TTRG và ngược lại TTRG là sự đơn giản hóa và lược bỏ đi một
14

Nguyễn Thị Thu Thuỷ (2011), “Khả năng áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự ở Việt Nam”, tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, (12), tr.37.


11

số thủ tục rườm rà, không cần thiết trong quá trình xét xử vụ án dân sự mà vẫn
khơng làm khác đi bản chất của vụ việc và mục đích cuối cùng của việc xét xử vẫn
đạt được. Từ những phân tích nêu trên tác giả luận văn xin đưa ra khái niệm về
TTRG trong TTDS như sau:
Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự là trình tự, thủ tục xét xử dựa trên cơ sở

đơn giản hóa thủ tục xét xử thông thường, do một Thẩm phán tiến hành để giải
quyết nhanh chóng một vụ án dân sự khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện luật định
nhằm đạt được mục đích của việc xét xử. Bản án, quyết định của Tòa án sử dụng
thủ tục tố tụng rút gọn có hiệu lực ngay và có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự
Xuất phát từ bản chất của TTRG đã cho thấy những đặc điểm cơ bản của
TTRG về phạm vi loại việc, thành phần giải quyết, thời hạn tố tụng và các thủ tục
được giản lược so với thủ tục tố tụng thông thường, cụ thể như sau:
Thứ nhất, loại vụ án được giải quyết theo TTRG là những vụ án dân sự có
giá trị nhỏ, nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, Tòa án không phải thu thập thêm
chứng cứ và việc áp dụng pháp luật là khơng khó khăn, phức tạp.
Đây là những loại vụ án khơng có tranh chấp về chứng cứ, tài liệu, mặc dù
bên bị kiện vẫn có thể có tranh tụng về các vấn đề liên quan nhưng việc áp dụng
pháp luật để giải quyết là rõ ràng, đơn giản. Việc áp dụng pháp luật để giải quyết là
rõ ràng, đơn giản được hiểu là đối với trường hợp đó thì Thẩm phán hoặc bất kỳ
người nào đã được đào tạo căn bản về luật pháp cũng không thể có cách hiểu và áp
dụng khác.
Những loại vụ án này có thể chia làm hai dạng cụ thể là:
- Trường hợp bị đơn thừa nhận quyền và nghĩa vụ của mình và ngun đơn
có chứng cứ đầy đủ, hợp pháp.
Đối với những vụ án này, Tịa án có thể nhanh chóng đưa ra một phán quyết
buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình mà khơng cần xét xử. Ví
dụ: Người vay tài sản đã thừa nhận nghĩa vụ của mình nhưng viện lý do chưa có
điều kiện thanh tốn để trì hỗn thực hiện nghĩa vụ.
- Trường hợp bị đơn không thừa nhận về nghĩa vụ của mình, nhưng nguyên
đơn đã cung cấp chứng cứ đầy đủ, hợp pháp và pháp luật quy định rõ ràng về cách
thức giải quyết cho trường hợp đó. Ví dụ: các vụ án đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động, người lao động không hiểu biết nhiều về pháp luật nên yêu cầu công
ty thực hiện nghĩa vụ thanh tốn khơng đúng với quy định pháp luật.



12

Thứ hai, TTRG được tiến hành theo cơ chế một Thẩm phán quyết định mà
không phải thông qua Hội đồng xét xử như thủ tục thông thường.
Qua nghiên cứu lý luận tố tụng về TTRG của nhiều nước và dựa vào tính
đơn giản, rõ ràng của những vụ án dân sự được giải quyết bằng TTRG có thể nhận
thấy ở các nước có quy định áp dụng TTRG trong xét xử đều vận dụng cơ chế một
Thẩm phán. Cơ chế này có tác dụng đẩy nhanh tiến trình giải quyết vụ việc dân sự,
giảm bớt chi phí tố tụng, tiết kiệm chi phí cho ngân sách nhà nước và các bên
đương sự, đồng thời, nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán.
Thứ ba, khi giải quyết theo TTRG thì bản án, quyết định của Tịa án sẽ có
hiệu lực ngay và có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy
định của pháp luật.
Như vậy, quyết định của Tòa án giải quyết vụ án theo TTRG sẽ có hiệu lực
ngay đối với các vụ án theo quy định của pháp luật hoặc vụ việc sẽ được chuyển
sang giải quyết theo trình tự tố tụng thơng thường, nếu khơng thỏa mãn các tiêu chí
về loại việc được giải quyết theo TTRG. Điều này đảm bảo rằng vụ án dân sự sẽ
không bị kéo dài về thời gian giải quyết, hạn chế được những thiệt hại khơng cần
thiết cho đương sự, nhà nước và tồn xã hội. Tuy nhiên, bản án, quyết định của Tịa
án có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm để bảo vệ tốt nhất
quyền và lợi ích của đương sự, đồng thời cũng thể hiện tính cơng bằng và chính xác
của pháp luật.
Thứ tư, TTRG là thủ tục giảm thiểu thời gian, chi phí tố tụng cho đương sự
và các yếu tố không cần thiết phù hợp với tính chất của loại vụ án dân sự được áp
dụng nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của đương sự được nhanh gọn.
Qua nghiên cứu lý luận TTDS của nhiều nước có quy định về TTRG đều đi
theo hướng: TTRG được xây dựng trên cơ sở đơn giản hóa thủ tục tố tụng thơng
thường, có thể bỏ qua các bước không cần thiết. Do vậy, thời gian và chi phí giải

quyết cũng sẽ được giảm thiểu.
Thứ năm, TTRG là thủ tục bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
một cách nhanh chóng, kịp thời với thời hạn tố tụng được rút ngắn.
Khi giải quyết vụ án theo TTRG, Tịa án khơng cần tốn nhiều thời gian để
tiến hành xác minh, thu thập các chứng cứ, tài liệu để làm sáng tỏ sự việc. Qua
nghiên cứu TTRG ở các nước thì thời gian giải quyết vụ án dân sự theo TTRG sẽ
được rút ngắn do sự giản lược về thủ tục, giới hạn về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm và việc áp dụng cơ chế xét xử một lần. Vì vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự được bảo vệ một cách nhanh chóng, kịp thời.


13

1.1.3. Ý nghĩa của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, xây dựng TTRG góp phần thúc đẩy q trình hội nhập quốc tế của
Việt Nam trong thời kỳ hiện nay.
Sự phát triển ngày càng lớn mạnh của nền kinh tế thị trường ở nước ta đang
đặt ra nhu cầu giải quyết nhanh chóng các tranh chấp dân sự đã và đang phát sinh.
Nếu những tranh chấp này khơng được giải quyết nhanh chóng, triệt để sẽ gây ra
những ảnh hưởng không tốt đến q trình quay vịng của đồng vốn, nhất là với
những tranh chấp liên quan đến các tài sản lớn có hệ số sinh lời cao, những tài sản
là tiền, vàng có giá trị giao dịch biến đổi nhanh chóng. Ngồi ra, việc áp dụng
TTRG còn thúc đẩy hoạt động hội nhập quốc tế khi mà các quan hệ dân sự, thương
mại, lao động, hơn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài chiếm tỷ lệ ngày càng lớn.
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới,
nhưng pháp luật TTDS của chúng ta lại thiếu vắng các quy định về thủ tục tố tụng
rút gọn áp dụng đối với các vụ án dân sự, thương mại đơn giản, rõ ràng. Do vậy, có
thể nói pháp luật TTDS của chúng ta chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu về tính
mềm dẻo, linh hoạt mà công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra. Việc thiết lập
TTRG trong TTDS là cấp thiết, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của đương sự, đáp ứng yêu cầu về cải cách thủ tục tố tụng tư pháp
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, về thời gian và chi phí tố tụng: xét xử theo thủ tục rút gọn sẽ rút
ngắn thời gian và giảm nhẹ đáng kể gánh nặng về chi phí tố tụng cho các đương sự,
tạo điều kiện cho các Tòa án có thể tập trung thời gian và nguồn lực vào những vụ
án khó khăn, phức tạp.
Khi giải quyết theo TTRG, trình tự tố tụng được giản lược và thời gian giải
quyết được rút ngắn nên các đương sự sẽ không phải mất nhiều thời gian theo kiện,
giảm được các tổn phí một cách khơng cần thiết như chi phí đi lại, án phí, lệ phí, và
các chi phí tố tụng, góp phần nâng cao khả năng tiếp cận cơng lý của các cá nhân, tổ
chức trong xã hội. Tòa án cũng không phải tiến hành tất cả các thủ tục tố tụng như
đối với thủ tục thơng thường nên có thể tiết kiệm được thời gian, nhân lực và các
chi phí phát sinh. Do đó, cần thiết phải xây dựng loại hình thủ tục đơn giản, nhanh
chóng hơn để giải quyết những tranh chấp có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng,
có giá ngạch thấp, tạo điều kiện cho ngành Tịa án tập trung vào những vụ án khó
khăn, phức tạp hơn.
Thứ ba, TTRG tạo điều kiện cho đương sự được bảo vệ quyền lợi của mình
một cách nhanh chóng. Niềm tin của người dân vào sự bảo vệ kịp thời của pháp
luật được nâng cao.


14

Xét xử theo TTRG, các bên đương sự đều không phải trải qua tất cả các giai
đoạn tố tụng như thủ tục TTDS thông thường mà chỉ cần thực hiện một số thủ tục
luật định cần thiết để giải quyết vụ án. Đồng thời, thời gian xét xử cũng được rút
ngắn, tạo điều kiện cho các bên đương có thể nhanh chóng đạt được quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tòa án làm cơ sở buộc đối phương phải thực hiện nghĩa vụ
của mình. Ngồi ra, cơ chế xét xử một lần của TTRG ở một số quốc gia còn làm
hạn chế được hiện tượng lạm quyền kháng án nhằm trì hỗn việc thi hành nghĩa vụ.

Bên cạnh đó, việc xét xử theo TTRG cũng khuyến khích người dân sử dụng Tịa án
như là một cách thức hiệu có hiệu quả để giải quyết tranh chấp. Từ đó, nâng cao
niềm tin của người dân đối với pháp luật, tránh những phiền tối như dân gian quan
niệm “Vơ phúc đáo tụng đình, tụng đình rình vơ phúc”15, hạn chế việc người dân sử
dụng các cách thức tiêu cực khác để giải quyết tranh chấp như: đòi nợ thuê, hành
hung đe dọa gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự …
Thứ tư, xét xử theo TTRG góp phần nâng cao vai trò trách nhiệm, năng lực
của Thẩm phán, đồng thời, cũng nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của TAND.
Xét xử theo TTRG tạo điều kiện cho Thẩm phán chủ động giải quyết vụ việc
một cách linh hoạt, thúc đẩy Tòa án giải quyết kịp thời hàng loạt vụ án dân sự đơn
giản góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác xét xử của Tịa án. Ngồi ra, Thẩm phán
tiến hành xét xử theo TTRG có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Theo Chánh án TANDTC Trương Hịa Bình: “Giải quyết vụ việc dân sự theo
thủ tục đơn giản sẽ ... tạo điều kiện cho Thẩm phán chủ động giải quyết vụ việc một
cách linh hoạt. Khi áp dụng thủ tục này sẽ giải quyết nhanh chóng các vi phạm hoặc
các tranh chấp, bất đồng nảy sinh, góp phần ổn định các quan hệ xã hội. ...”16.
1.1.4. Tổng quan các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục rút gọn
trong tố tụng dân sự trước ngày 01/01/2005
1.1.4.1. Thời kỳ từ 1945 - 1959
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời. Ngay sau đó, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47 SL ngày 10/10/1945 cho
giữ tạm thời các luật lệ hiện hành của chế độ cũ, trong đó có pháp luật về TTDS.
Ngày 24/1/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 13 “Về tổ chức các
Toà án và các ngạch Thẩm phán”. Theo Sắc lệnh này, Ban tư pháp xã vẫn được coi

15

Ngọc Lan (2007), Tục ngữ Việt Nam chọn lọc, Nxb Văn hố Thơng tin, tr.111.
/>16



15

như một tổ chức trong hệ thống các cơ quan tiến hành TTDS17. Ngồi ra, Sắc lệnh
này cịn có những quy định liên quan đến thành phần Hội đồng xét xử và thẩm
quyền của Thẩm phán18.
Như vậy, Sắc lệnh số 13 cho thấy việc xét xử ở các cấp Toà án có sự phân
biệt về thành phần của Hội đồng, sự phân biệt đó xuất phát từ sự phức tạp hoặc đơn
giản của tranh chấp, ngoài ra, giá trị tranh chấp (nhiều hay ít) của từng loại vụ án
cũng là một điều kiện để xác định thành phần Hội đồng xét xử là một Thẩm phán,
một mình Chánh án hay Hội đồng phải có thêm Hội thẩm nhân dân.
Tiếp theo đó, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 về “Ấn định thẩm quyền các
Tồ án và sự phân cơng giữa các nhân viên trong ngành Toà án” quy định thêm
một số vấn đề cụ thể về thẩm quyền xét xử, giá ngạch của vụ án như: quy định về
cơ chế xét xử chung thẩm (xét xử một lần) về dân sự19. Cơ chế xét xử một lần
được áp dụng cả ở Toà án sơ cấp và cả ở Toà án đệ nhị cấp và thường áp dụng để
xử những vụ án mà đối tượng tranh chấp là những tài sản có giá trị nhỏ (định theo
giá ngạch). Cơ chế này bảo đảm việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm vụ án, bảo
vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của các bên, tránh được sự tổn phí một cách khơng
cần thiết cho các đương sự và Nhà nước. Có thể nhận thấy, đây là một cơ chế hợp
lý, là một tiền lệ trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam mà chúng ta cần xem
xét, nghiên cứu và vận dụng để xây dựng quy định về thủ tục rút gọn trong điều
kiện hiện tại.
Nghị định ngày 20/10/1947 của hội đồng Chấp chánh lâm thời Trung kỳ về
sửa đổi giá ngạch cũ có quy định: Các tịa đệ nhị cấp xử chung thẩm các việc tương
tranh động sản hoặc đối với người, việc thương sự; việc địi tiền bồi hồn hay bồi
thường với giá ngạch trên 500 đồng nhưng dưới 1500 đồng, về bất động sản theo
giá ngạch đồng niên không quá 150 đồng20.
Theo quy định tại Sắc lệnh số 85 - SL ngày 22/5/1950 “Về cải cách bộ máy

tư pháp và luật tố tụng” đã khẳng định thẩm quyền của Ban tư pháp xã về dân sự
và thương sự, có quy định về cơ chế xét xử một lần21 (chung thẩm).

17

Điều 3 Sắc lệnh thì Ban tư pháp xã có quyền: Hoà giải tất cả các việc dân sự và thương sự; Phạt các việc vi cảnh
nhưng chỉ có quyền phạt tiền từ 5 hào đến 6 đồng bạc; Thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên.
18
Điều 10, Điều 15, Điều 17, Điều 43 của Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946.
19
Điều 6, Điều 11 Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946.
20
Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Nxb Sài Gòn, tr.255, 256.
21
Theo Điều 7 Sắc lệnh 85/SL thì Ban tư pháp xã có quyền xử:
A. Chung thẩm: Những vụ vi cảnh phạt bạc từ 5 đồng đến 30 đồng; Những việc đòi bồi thường hoặc bồi
hoàn từ 300 đồng trở xuống do người bị thiệt hại thỉnh cầu trong đơn kiện.
B. Sơ thẩm: Những việc địi bồi thường hoặc bồi hồn q 300 đồng do người bị thiệt hại thỉnh cầu trong
đơn kiện hay lúc xử.


16

Chức năng xét xử của Ban tư pháp xã (với tư cách là một cơ quan trong hệ
thống các cơ quan tiến hành TTDS) đối với các án kiện dân sự được duy trì cho tới
khi có Luật TCTAND ngày 14 tháng 7 năm 1960.
Nghị định số 32 ngày 6/4/1952 của Bộ Tư pháp, Thông tư số 4013 ngày
9/5/1959 của Bộ Tư pháp và Thơng tư liên bộ Thẩm phán-Tịa án nhân dân tối cao
số 93 ngày 11/11/1959 có quy định Tịa án huyện có quyền chung thẩm trong một
số lĩnh vực22.

Các Sắc lệnh về tố tụng trong thời kỳ 1945-1959 còn đề cập tới một loạt
những vấn đề khác nữa trong TTDS, như giá trị của biên bản hoà giải thành mà Tồ
án sơ cấp lập có hiệu lực công chứng thư (Điều 9 Sắc lệnh 51); quyền kháng cáo,
thời hạn kháng cáo (Sắc lệnh số 112 ngày 28/6/1946); ấn định các khoản lệ phí nộp
tại Tồ án (Sắc lệnh 113 ngày 28/6/1946)... Đặc biệt tại Điều 14 Sắc lệnh số 85/SL
ngày 22/5/1950 “Về cải cách Bộ máy tư pháp và luật tố tụng” có quy định về thẩm
quyền của Toà án trong việc ra quyết định áp dụng các biện pháp bảo thủ và hiệu
lực thi hành ngay của quyết định này.
1.1.4.2. Thời kỳ từ 1960 đến 1989
a) Giai đoạn từ 1960 đến 1980
Sau khi Hiến pháp năm 1959 ban hành, ngày 14/7/1960 Quốc hội nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hồ đã thơng qua Luật tổ chức Tồ án nhân dân năm 1960,
đánh dấu một bước ngoặt lớn trong ngành Tư pháp nước ta nói chung và trong pháp
luật TTDS nói riêng.
Luật TCTAND năm 1960 đã quy định các nguyên tắc cơ bản trong xét xử,
phân định thẩm quyền của các cấp Toà án và xác định nhiệm vụ cụ thể của
TANDTC là giám đốc việc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương, giúp cho
hoạt động của các Toà án tuân theo một hệ thống các nguyên tắc cơ bản về tố tụng.
Theo đó, việc xét xử được thực hiện theo chế độ hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm23,
vì vậy, các quy định về cơ chế xét xử một lần (chung thẩm) và bản án của Tồ án có
hiệu lực pháp luật ngay trong thời kỳ 1945 đến 1959 khơng cịn được áp dụng nữa.
Tuy nhiên, việc xét xử sơ thẩm vụ án do một Thẩm phán tiến hành vẫn được quy
định24.
Ngoài ra, các văn bản pháp luật về TTDS trong giai đoạn này vẫn quy định về
thủ tục hoà giải, thẩm quyền của Thẩm phán trong việc ra quyết định công nhận việc
22

/>Điều 9, Điều 10 Luật TCTAND 1960.
24
Điều 12 Luật TCTAND 1960 quy định: “Toà án nhân dân thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo

đa số” và “khi sơ thẩm, TAND gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; trường hợp xử những vụ án
nhỏ, giản đơn và khơng quan trọng thì TAND có thể xử khơng có Hội thẩm nhân dân ...”.
23


17

hoà giải thành và hiệu lực của các quyết định này. Theo Thơng tư số 25 TANDTC
ngày 30/11/1974 của Tồ án nhân dân Tối cao thì “các quyết định cơng nhận việc hồ
giải thành…đều có hiệu lực như bản án sơ thẩm hoặc bản án phúc thẩm”.
b) Giai đoạn từ 1981 đến 1989
Sau giải phóng miền nam thống nhất đất nước năm 1975, Hiến pháp năm
1980 được ban hành và tiếp theo đó là Luật tổ chức Tồ án năm 1981, Luật sửa đổi,
bổ sung Luật TCTAND năm 1988. Theo các văn bản này thì việc xét xử vẫn được
thực hiện theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời, trong các văn bản pháp
luật vẫn quy định về cơ chế xét xử một lần. Tuy nhiên, cơ chế xét xử một lần trong
thời kỳ này có sự thay đổi so với thời kỳ trước năm 1960. Nếu trước năm 1960 cơ
chế xét xử một lần chỉ áp dụng ở Toà án sơ cấp (ở cấp quận, huyện) và các Tồ án
đệ nhị cấp (ở cấp tỉnh), thì theo Điều 21 Luật TCTAND năm 1981 và Điều 27 Luật
sửa đổi bổ sung Luật TCTAND năm 1988, thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung
thẩm (xét xử một lần) chỉ thuộc về Tồ án nhân dân tối cao.
Bên cạnh đó, tại Điều 132 Hiến pháp năm 1980, Điều 7 Luật TCTAND năm
1981 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật TCTAND năm 1988 cũng đều có quy định về
ngun tắc “Tồ án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số”, do vậy, trong
giai đoạn này các quyết định của Toà án tại phiên toà đều do một Hội đồng xét xử
quyết định theo đa số, các quy định về việc xét xử sơ thẩm bằng một Thẩm phán
khơng cịn được áp dụng nữa.
Sau khi Hội đồng Nhà nước thông qua Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự ngày 07/12/1989, các quy định về thủ tục TTDS đã thực sự ổn định, góp
phần khơng nhỏ vào việc ổn định tình hình xã hội, giải quyết các tranh chấp dân sự,

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định tại Khoản 3 Điều 11
về thẩm quyền của của các Tòa án các cấp quy định: “trong trường hợp đặc biệt,
TANDTC giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án thuộc
thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà TANDTC lấy lên để giải quyết”25.
1.1.4.3. Thời kỳ từ 1989 đến ngày 01/01/2005
Từ năm 1989 đến nay, cùng với tiến trình đổi mới về kinh tế - xã hội, trên cơ
sở các văn bản quy định về thủ tục TTDS, thẩm quyền của Toà án ngày càng được
mở rộng, cụ thể là:
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TCTAND ngày 28/12/1993 đã
quy định thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế và các
25

/>

18

quy định về thủ tục tố tụng điều chỉnh các quan hệ tố tụng phát sinh trong lĩnh vực
này là Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TCTAND ngày 28/10/1995 đã
mở rộng thêm thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp lao động.
Để điều chỉnh kịp thời các hoạt động tố tụng phát sinh trong lĩnh vực này, ngày
11/4/1996 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các tranh chấp lao động.
So với các văn bản pháp luật về TTDS trong các thời kỳ trước đó, Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989 vẫn ghi nhận thẩm quyền sơ
thẩm đồng thời chung thẩm của TANDTC và tại Điều 23 Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật TCTAND năm 1993 và năm 1995 vẫn quy định: “Toà dân sự
TANDTC có nhiệm vụ, quyền hạn sơ thẩm đồng thời là chung thẩm những vụ án
theo quy định của pháp luật tố tụng...”. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh

tế năm 1994 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996
khơng có quy định về thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm của Toà kinh tế và
Toà lao động TANDTC.
Ngoài ra, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế lại có quy định về
việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án các cấp dựa trên cơ sở giá
ngạch của vụ án (Điều 13).
Mặc dù có quy định nguyên tắc Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số,
nhưng tại Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Điều 36 Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Điều 38 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
tranh chấp lao động vẫn ghi nhận thẩm quyền của Thẩm phán trong việc ra quyết
định công nhận sự thoả thuận của các bên đương sự và hiệu lực của quyết định.
Theo quy định tại các Pháp lệnh nêu trên thì quyết định cơng nhận sự thoả
thuận của các bên đương sự là một quyết định của Toà án cấp sơ thẩm, do một
Thẩm phán ban hành vẫn có hiệu lực pháp luật ngay mà không bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời kỳ này, cơ chế xét xử hai cấp cũng khơng cịn
được ghi nhận thành một nguyên tắc như Luật TCTAND năm 1960 nữa. Đồng thời
với việc quy định thẩm quyền của Thẩm phán trong việc ra quyết định công nhận sự
thoả thuận của các bên đương sự, các Pháp lệnh này cũng ghi nhận thẩm quyền của
Thẩm phán trong việc ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời và
hiệu lực thi hành ngay của quyết định này.
Có thể nói rằng, cùng với Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
ngày 07/12/1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16 /3/1994 và
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động ngày 11/4/1996 là những văn


19

bản pháp luật tố tụng chính thức, có tính hệ thống về những nguyên tắc cơ bản, trình
tự, thủ tục chung trong tố tụng, đã tạo nên hành lang pháp lý tương đối ổn định góp
phần đáp ứng được những đòi hỏi từ thực tiễn.

Ngày 15/6/2004 Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5
thơng qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2005. Theo Bộ luật này bao gồm vụ
án dân sự (có tranh chấp) và việc dân sự (khơng có tranh chấp) được giải quyết theo
hai trình tự, thủ tục khác nhau.
Điểm qua lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật TTDS Việt Nam
chúng ta có thể nhận thấy rằng ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau pháp luật TTDS đều
có sự khác biệt nhất định, tuy nhiên, về cơ bản pháp luật vẫn ghi nhận thẩm quyền
quan trọng của Thẩm phán trong TTDS, nhất là việc đưa ra quyết định công nhận sự
thoả thuận giữa các bên đương sự, quyết định ADBPKCTT và hiệu lực thi hành
ngay của các quyết định này. Đồng thời, lịch sử TTDS cũng đã từng có thời kỳ quy
định về việc xét xử do một Thẩm phán tiến hành đối với việc dân sự hoặc do một
Hội đồng xét xử tuỳ theo tính chất phức tạp hoặc đơn giản, quan trọng hay không
quan trọng của từng loại vụ án và quy định về giá trị chung thẩm (có hiệu lực ngay)
của bản án, quyết định của Toà án.
1.2. Quy định pháp luật về thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự tại một
số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam
1.2.1. Quy định về phạm vi, nguyên tắc, điều kiện giải quyết vụ án theo thủ
tục rút gọn
1.2.1.1. Quy định trong pháp luật của Cộng hòa Pháp
Qua nghiên cứu pháp luật TTDS của Cộng Hịa Pháp cho thấy, những tranh
chấp có giá trị nhỏ sẽ được giải quyết theo một trình tự đơn giản. Cụ thể, theo Nghị
định số 28 tháng 12/1998 quy định về thẩm quyền của Tòa án sơ thẩm thẩm quyền
hẹp thì sẽ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án có giá
trị tranh chấp dưới 25.000 Francs26.
Ngoài ra, Điều 1405 Bộ luật TTDS Pháp cịn quy định về lệnh thanh tốn nợ
là một thủ tục giản đơn trong một số trường hợp như khoản nợ có nguồn gốc từ một
hợp đồng hoặc một nghĩa vụ theo điều lệ và là 1 số tiền nhất định, nợ do cam kết
nhận hoặc rút hối phiếu, ký nhận một kỳ phiếu, chuyển nhượng hoặc bảo lãnh các
loại tín phiếu hoặc nhận chuyển nhượng một khoản nợ27.
26

Viện khoa học pháp lý Bộ tư pháp (2015), “Xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách
tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, thực trạng và giải pháp”, Thông tin khoa học pháp lý, (3), tr.17.
27
Nhà pháp luật Việt Pháp (1998), Bộ luật Tố tụng dân sự của nước cộng hịa Pháp, Nxb Chính trị Quốc gia,
tr.314.


×