Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Người nước ngoài nhận trẻ em việt nam làm con nuôi theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.53 KB, 55 trang )

1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................2
CHƯƠNG I............................................................................................................................5
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CHỈNH QUAN HỆ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
NHẬN TRẺ EM VIỆT NAM LÀM CON NI...............................................................5
1.1. Mục đích và ý nghĩa xã hội của việc ni con ni có yếu tố nước ngồi.............5
1.2. Quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi...........................................................8
1.3. Pháp luật điều chỉnh quan hệ người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con
nuôi.....................................................................................................................................9
CHƯƠNG II........................................................................................................................12
PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI NHẬN
TRẺ EM VIỆT NAM LÀM CON NI..........................................................................12
2.1. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về ni con ni có
yếu tố nước ngoài............................................................................................................12
2.2. Điều kiện nhận trẻ em Việt Nam làm con ni người nước ngồi......................15
2.2.1. Điều kiện đối với người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi...15
2.2.2. Điều kiện đối với người được nhận làm con ni...............................................19
2.3. Thủ tục đăng ký việc người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi..........23
2.3.1. Đăng ký việc người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con ni tại Việt
Nam..............................................................................................................................23
2.3.2. Đăng ký việc người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi tại cơ
quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam.........................................................................28
2.4. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi.....................................................29
2.5. Chấm dứt việc nuôi con ni.....................................................................................33
CHƯƠNG III.......................................................................................................................40
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐIỀU
CHỈNH QUAN HỆ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI NHẬN......................................................40
TRẺ EM VIỆT NAM LÀM CON NUÔI..........................................................................40
3.1. Thực trạng người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam làm con ni...................40


3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Pháp luật Việt Nam điều chỉnh qua hệ người
nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi..........................................................42
3.2.1. Cần sớm ban hành Luật nuôi con ni...........................................................42
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hồn thiện quy định pháp luật hiện hành về việc
người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi...........................................44
3.2.3. Một số kiến nghị nhằm hồn thiện các thiết chế ni con ni....................47
KẾT LUẬN..............................................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................54


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ni con ni là một chế định pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật
của nhiều quốc gia và trong pháp luật quốc tế. Công ước của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em đã khẳng định: “Để phát triển đầy đủ và hài hịa về nhân cách của
mình trẻ em cần được trưởng thành trong mơi trường gia đình, trong bầu khơng
khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm”. Chế định nuôi con ni có yếu tố
nước ngồi được các quốc gia và cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt vì đó là
sự bảo vệ pháp lý rất cần thiết đối với những lợi ích tốt nhất cho trẻ em, những
đối tượng đặc biệt không chỉ non nớt về thể chất và trí tuệ mà cịn có hồn cảnh
khó khăn, thiếu tình yêu thương lại thiếu một mái ấm gia đình trên quê cha đất
tổ. Với tư cách là thành viên của Công ước về bảo vệ quyền trẻ em, Nhà nước ta
ln ln có chính sách nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em, hướng sự
quan tâm tới trẻ em có hồn cảnh khó khăn, nhất là những trẻ em thiếu mái ấm
gia đình.
Từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, quan hệ quốc tế
ngày càng được mở rộng giao lưu về mọi mặt giữa cơng dân Việt Nam và người
nước ngồi ngày càng phát triển thì quan hệ hơn nhân và gia đình trong đó có

quan hệ về ni con ni đã và đang là hiện tượng thu hút sự quan tâm của
nhiều người cả trong và ngồi nước. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ
thống, tồn diện pháp luật về ni con ni có yếu tố nước ngồi trở thành vấn
đề cấp thiết. Điều này sẽ góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc để chúng ta tham
gia hợp tác chặt chẽ với cộng đồng quốc tế bảo vệ trẻ em đặc biệt là trẻ em Việt
Nam sau khi làm con ni người nước ngồi.
Như chúng ta đã biết, thực tiễn cho và nhận con nuôi quốc tế ở Việt Nam
chủ yếu là việc cho trẻ em Việt Nam làm con ni người nước ngồi đã và đang
là một nhu cầu chính đáng của chính các trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn
và cả từ phía những gia đình nước ngồi muốn được nhận các em về ni trong
gia đình của họ, chính vì vậy khóa luận này tập trung vào việc nghiên cứu việc


3

“Người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con ni theo quy định của
pháp luật Việt Nam”.
2.Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Thứ nhất, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về pháp luật điều
chỉnh quan hệ người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Đồng thời
từ sự thống kê, phân tích các số liệu liên quan đến việc người nước ngoài nhận
trẻ em Việt Nam làm con nuôi rút ra được những nhận xét, đánh giá thực trạng
thi hành pháp luật về ni con ni có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
Thứ hai, kiến nghị những phương hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
quan hệ người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam làm con ni trong giai đoạn
hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung phân tích những vấn đề cơ bản của pháp luật điều
chỉnh quá trình giải quyết cho, nhận trẻ em Việt Nam làm con ni người nước

ngồi; đánh giá thực trạng và đề xuất một số kiến nghị góp phần hồn thiện pháp
luật ni con ni có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn hiện nay.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trong điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam cũng như thế giới có những
biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc, quan hệ ni con ni có những diễn biến đa dạng,
phức tạp mà pháp luật chưa thể điều chỉnh kịp thời. Luận văn là cơng trình khoa
học nghiên cứu về vấn đề này. Kết quả nghiên cứu sẽ là những bổ sung vào lý
luận về pháp luật điều chỉnh quan hệ người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam
làm con ni trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay. Các nội dung đề xuất,
kiến nghị trong luận văn cũng có thể được áp dụng để giải quyết được phần nào
những vấn đề bức xúc liên quan đã và đang đặt ra trong thực tiễn.
4. Nội dung cơ bản của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có:


4

- Chương 1: Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh quan hệ người nước
ngoại nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi
- Chương 2: Pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ người nước ngoài nhận
trẻ em Việt Nam làm con nuôi
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam điều
chỉnh quan hệ người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam làm con ni


5

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CHỈNH QUAN HỆ NGƯỜI

NƯỚC NGỒI NHẬN TRẺ EM VIỆT NAM LÀM CON NI
1.1. Mục đích và ý nghĩa xã hội của việc ni con ni có yếu tố nước
ngồi
Mục đích cơ bản của việc ni con ni chính là bảo đảm cho người con
ni được trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã
hội. Thực tiễn cho thấy có rất nhiều trẻ nhỏ khi sinh ra đã bị bố mẹ bỏ rơi, nhiều
em bị tàn tật bẩm sinh hoặc bị nhiễm các chất độc hoá học do chiến tranh để lại,
bố mẹ không đủ điều kiện để chăm sóc giáo dục các em… Vì lẽ đó các em
khơng có mơi trường để phát triển tồn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Nếu
như những em đó được nhận làm con nuôi, được hưởng sự nuôi dưỡng, quan
tâm chăm sóc từ phía cha mẹ ni thì sẽ đảm bảo cho các em có sự phát triển
tồn diện, tránh đi vào những con đường lầm lỡ.
So với pháp luật phong kiến, mục đích của việc ni con ni theo quy
định trong Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam thực sự là một bước phát triển
vượt bậc. Trong xã hội phong kiến, việc nuôi con nuôi chủ yếu nhằm mục đích
đảm bảo sự kế tục trong việc thờ cúng tổ tiên, nối dõi tông đường; khuyếch
trương quyền thế gia đình; ni con ni vì mê tín dị đoan… vì vậy có thể nhận
thấy việc cho nhận con ni trong chế độ phong kiến chủ yếu là xuất phát từ lợi
ích của người nhận con ni chứ khơng vì quyền lợi của chính người con ni.
Mục đích của việc nhận nuôi con nuôi theo quy định của Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam thể hiện tính nhân đạo của nhà nước và có sự tương đồng so
với chế định ni con ni của một số nước có nền pháp luật khá hoàn thiện trên
thế giới. Đơn cử như: Điều 1741 Bộ luật dân sự Đức hay Điều 2 Luật về ni
con ni của nước Cộng hồ nhân dân Trung Hoa đều quy định: mục đích của
việc nhận con ni phải nhằm thiết lập quan hệ cha mẹ và con cái giữa người
nuôi con nuôi và người con nuôi, bảo đảm vì sự phát triển và hạnh phúc của
ngưịi con ni. Việc pháp luật Việt Nam có những nét tương đồng so với pháp


6


luật một số nước phát triển, thể hiện chính sách nhân đạo và tư duy tiến bộ về
quan hệ nuôi con nuôi, sự tôn trọng pháp luật quốc tế và các công ước về quyền
trẻ em mà Việt Nam đã ký kết.
Việc nuôi con nuôi trước hết phải xuất phát từ mục đích quan trọng là vì lợi
ích của người được nhận làm con nuôi, nhằm mang lại cho đứa trẻ có được một
mái ấm gia đình, được u thương, đùm bọc, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục
trong điều kiện bình thường như bao đứa trẻ khác… Bên cạnh đó việc nuôi con
nuôi cũng phải xuất phát từ nhu cầu tình cảm của người nhận ni con ni
nhằm thiết lập quan hệ tình cảm gắn bó trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con
cái.
Xuất phát từ ý nghĩa xã hội và mục đích nhân đạo của việc ni con nuôi là
những trẻ mồ côi, trẻ lang thang cơ nhỡ, trẻ bị bỏ rơi, trẻ bị tàn tật vv...Nhà nước
còn cho phép nhận người đã thành niên là thương binh, người tàn tật, người mất
năng lực hành vi dân sự được làm con nuôi của người già yếu cô đơn, để cha,
mẹ ni và con ni nương tựa, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên mối quan
hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôểntong các trường hợp này phải dựa trên cơ sở
hoàn cảnh thực tế và phù hợp với đạo đức xã hội.
Như vậy, việc nuôi con nuôi trước hết phải nhằm xác lập quan hệ cha mẹ
và con, giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con ni, qua đó bảo vệ
được lợi ích chính đáng của ca hai bên. Đặc thù của quan hệ nuôi con ni chính
là ở chỗ xác lập quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi, chứ không chỉ là việc đảm
bảo cho người được nhận làm con nuôi được trông nom ni dưỡng, chăm sóc,
giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Mục đích việc xác lập quan hệ cha mẹ
ni và con ni nhằm để hình thành một gia đình thực sự, đó cũng là điểm đặc
trưng cơ bản để phân biệt việc nuôi con nuôi với những hình thức chăm sóc ni
dưỡng khác. Hơn nữa, người nhận nuôi và người được nhận nuôi đều không chỉ
hướng tới việc chăm sóc, ni dưỡng nhau mà điều quan trọng hơn cả đối với họ
là thiết lập và gắn bó với nhau trong một mối quan hệ khăng khít như một gia
đình ruột thịt.



7

Ni con ni nói chung và ni con ni có yếu tố nước ngồi nói riêng là
quan hệ xã hội được hình thành và phát triển một cách khách quan. Nó tồn tại
như một nhu cầu tất yếu trong cuộc sống của con người cần được thỏa mãn lợi
ích nào đó, có thể là nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm nhưng cũng có thể nó bị
biến dạng bởi những tính tốn vật chất. Vì vậy để việc ni con ni phù hợp
với bản chất tốt đẹp của nó cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật.
Chính vì nhận thức rằng: quan hệ nuôi con nuôi cần phải được điều chỉnh
bằng những quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm cho mối quan hệ đó có cơ sở để
tồn tại và phát triển theo một trật tự và phạm vi nhất định, phù hợp với lợi ích
chung của cộng đồng và xã hội vì vậy Nhà nước ta ln xây dựng và điều chỉnh
các quy định pháp luật cho sát với thực tế phát triển của mối quan hệ có phần
nhạy cảm và tương đối phức tạp này.
Xét về phương diện xã hội việc nhận nuôi con nuôi là thể hiện quan hệ xã
hội cao đẹp, thể hiện truyền thống tương thân tương ái, đùm bọc, giúp đỡ lẫn
nhau giữa con người với con người, đặc biệt là với trẻ em mồ côi không nơi
nương tựa. Việc nuôi con nuôi cũng là một trong những biện pháp tốt nhất và có
hiệu quả nhất để giải quyết tình trạng trẻ em mồ côi, lang thang không nơi
nương tựa, giúp em có được mái ấm gia đình, được đùm bọc giáo dục trong sự
được yêu thương của cha mẹ.
Việc giới thiệu trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn từ các gia đình hoặc
bị bỏ rơi tại các cơ sở y tế được làm con ni cũng sẽ góp phần giảm bớt khó
khăn cho các gia đình đơng con nghèo khó hoặc những phụ nữ sinh con ngồi ý
muốn khơng có điều kiện ni dưỡng con hay như việc tìm cho các em một mái
ấm gia đình...đó cũng chính là một chính sách nhằm góp phần làm ổn định xã
hội. Hơn nữa, cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài cũng phần
nào làm giảm bớt gánh nặng cho các cơ sở nuôi dưỡng của nhà nước trong điều

kiện kinh tế - xã hội Việt Nam còn nhiều khó khăn như hiện nay.
Đối với bản thân đứa trẻ, khi được sống trong một mái ấm gia đình sẽ được
quan tâm che chở, được thương yêu, chăm sóc… sẽ làm thay đổi cơ bản số phận
của một con người. Đứa trẻ sẽ được nuôi dưỡng trong môi trường thuận lợi để


8

phát triển hài hòa về thể chất, nhân cách và tinh thần. Qua kết quả phản ánh từ
phía cha mẹ ni người nước ngồi trong thời gian vừa qua thì đại đa số trẻ em
Việt Nam đều hội nhập nhanh với mơi trường gia đình mới và được ni dưỡng,
chăm sóc chu đáo, được đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp như trẻ em của
nước sở tại.
Đối với người nhận nuôi con nuôi, việc nuôi con nuôi đem lại cho họ sự
thỏa mãn về nhu cầu tình cảm. Có nhiều trường hợp nhận trẻ em làm con ni
do họ khơng có được cơ hội làm cha, làm mẹ, họ cần có một đứa trẻ để họ yêu
thương chăm sóc. Cũng có những trường hợp do họ nhìn thấy những đứa trẻ
lang thang, những em bé khơng có được đầy đủ tình yêu thương của cha mẹ mà
nhận về làm con ni, để chia sẻ tình u thương, xây dựng mái ấm gia đình. Vì
vậy xét về mọi góc độ đều có thể thấy: ni con ni có là một vấn đề mang tính
xã hội sâu sắc, thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả, với “mục đích cơ bản là đem
đến cho đứa trẻ một gia đình chứ khơng phải đem đến cho gia đình một đứa trẻ”.
[3,tr.5]
1.2 Quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi
Nhu cầu sinh tồn và phát triển đã buộc con người phải liên kết với nhau
thành những cộng đồng. Giữa các thành viên của cộng đồng luôn nảy sinh
những liên hệ về vật chất và tinh thần với nhau, những mối liên hệ này ln có
giới hạn nên người ta gọi chúng là các “quan hệ”. Những quan hệ xuất hiện
trong quá trình sản xuất và phân phối của cải vật chất, trong việc thỏa mãn
những nhu cầu văn hóa, tinh thần cũng như trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội

thì được gọi là “quan hệ xã hội”. Quan hệ xã hội rất đa dạng và phong phú, đó
có thể là quan hệ lao động, quan hệ tài sản hay quan hệ gia đình…. Trong quan
hệ gia đình cịn có quan hệ giữa cha mẹ; vợ chồng; quan hệ giữa cha mẹ và các
con (trong đó quan mối hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi là một thực tế)
Ni con ni có yếu tố nước ngồi là một trong các nhóm quan hệ hơn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi, đó là việc ni con giữa cơng dân Việt
Nam với người nước ngồi, giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam với


9

nhau hoặc giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ pháp lý làm phát sinh,
thay đổi chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngồi.
Hiểu theo nghĩa rộng, ni con ni có yếu tố nước ngồi cịn bao gồm việc
nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên
định cư ở nước ngồi. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, đề tài sẽ xoay quanh vấn đề
người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
Như chúng ta đã biết: Người nước ngồi là người khơng có quốc tịch Việt
Nam, bao gồm cơng dân nước ngồi và người khơng quốc tịch. Cơng dân nước
ngồi là người có quốc tịch nước ngồi và khơng đồng thời có quốc tịch Việt
Nam.
Việc xác định yếu tố nước ngồi trong quan hệ ni con nuôi, trước hết
nhằm xác định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước của Việt Nam trong việc
giải quyết các vấn đề phát sinh. Đồng thời việc xác định yếu tố nước ngồi trong
quan hệ ni con ni cịn nhằm mục đích xem quan hệ đó có thuộc đối tượng
điều chỉnh của tư pháp quốc tế Việt Nam hay khơng. Điều đó cũng giúp cho các
cơ quan chức năng có thẩm quyền của Việt Nam xác định được đúng mối quan
hệ pháp luật một khi có xảy ra các tranh chấp phát sinh liên quan đến quan hệ
nuôi con ni nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của cơng dân Việt Nam
nói chung và quyền lợi của đứa trẻ được nhận làm con ni nói riêng.

1.3. Pháp luật điều chỉnh quan hệ người nước ngoài nhận trẻ em Việt
Nam làm con nuôi
Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngồi của Việt Nam từ trước đến
nay đều thể hiện truyền thống đạo đức Việt Nam, lấy lợi ích tốt nhất của trẻ em
được cho làm con ni và quan hệ gia đình bền vững giữ cha mẹ nuôi và con
nuôi làm mục tiêu cơ bản. Hệ thống các văn bản quy định về vấn đề này khá
chặt chẽ, đảm bảo tính thống nhất giữa văn bản pháp luật quốc gia và các văn
bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Quan hệ ni con ni
có yếu tố nước ngồi là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời của hệ thống
pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình giữa cơng dân Việt Nam với
người nước ngồi.


10

Để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi quốc tế, pháp luật là cơng cụ mang
tính thiết thực và hiệu quả nhất. Pháp luật nuôi con nuôi quốc tế ở Việt Nam
hiện nay gồm hai nguồn: nguồn quốc tế và nguồn quốc gia. Ở nguồn quốc tế,
Việt Nam đã ký trên 10 hiệp định về hợp tác nuôi con nuôi quốc tế. Về phía
pháp luật quốc gia, vấn đề ni con nuôi quốc tế được quy định trong một số
văn bản luật như: Luật hơn nhân và gia đình năm 2000; Nghị định 68/2002/NĐCP ngày 10/07/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân
và gia đình về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định
69/2006/NĐ-CP ngày 21/07/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
68/2002/NĐ-CP; Thông tư của Bộ Tư pháp số 07/2002/TT-BTP ngày
16/12/2002 về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số
68/2002/NĐ-CP; và Thông tư của Bộ Tư pháp số 08/2006/TT-BTP ngày
08/12/2006 hướng dẫn thực hiện một số quy định về nuôi con ni có yếu tố
nước ngồi. Điểm đáng chú ý nhất có thể thấy là việc hạn chế, điều chỉnh hoạt
động cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Pháp luật Việt
Nam quy định rõ về các bước thực hiện của giai đoạn đầu trong việc làm thủ tục

cho nhận con ni, ví dụ như: về điều kiện của người nhận nuôi, của con nuôi,
rồi thủ tục cho nhận con ni… Cịn đối với giai đoạn sau của q trình ni
con ni quốc tế (vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của đứa trẻ trong mối quan hệ
với bố mẹ ni ở nước mà nó cư trú). Sau khi trẻ em Việt Nam đã được bàn giao
cho bố mẹ ni - thì gần như pháp luật Việt Nam không thể phát huy được hiệu
lực, bởi lẽ hiệu lực của hệ thống pháp luật mỗi quốc gia ln chỉ có giá trị trên
lãnh thổ của mình. Trong khi đó, các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam
với nước ngoài cũng chỉ dừng lại ở mức độ quy định về vấn đề luật áp dụng và
thẩm quyền giải quyết quan hệ nuôi con nuôi quốc tế. Các hiệp định hợp tác về
nuôi con nuôi quốc tế - dù đã đi xa hơn và hiệu quả hơn khi thiết lập các cơ chế
hỗ trợ song phương trong việc đảm bảo một cuộc sống tốt đẹp cho đứa trẻ ngay
cả khi nó đã được chuyển ra nước ngoài sinh sống - nhưng lại hạn chế ở hai
điểm căn bản, đó là:


11

- Các hiệp định hợp tác nuôi con nuôi vẫn chưa thực sự là một khung pháp
lý đầy đủ để chi phối được rộng khắp các vấn đề có thể phát sinh trong nuôi con
nuôi quốc tế;
- Hay như là các hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi quốc tế hiện nay tuy
đã rõ ràng nhưng vẫn là những thỏa thuận riêng lẻ giữa Việt Nam với từng nước
cụ thể, trong khi số lượng các nước có hiệp định với Việt Nam lại là rất hạn chế.


12

CHƯƠNG II
PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ NGƯỜI NƯỚC
NGỒI NHẬN TRẺ EM VIỆT NAM LÀM CON NI

2.1. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về ni
con ni có yếu tố nước ngồi
Kể từ khi Cách Mạng tháng Tám thành công đến nay, quá trình hình thành
và phát triển của pháp luật nước ta về điều chỉnh quan hệ pháp luật ni con
ni có yếu tố nước ngồi có thể chia thành hai giai đoạn sau:
Giai đoạn thứ nhất, từ năm 1945 đến năm 1986, đây là giai đoạn pháp luật
Việt Nam còn thiếu nhiều, chưa bao quát và điều chỉnh được các quan hệ phát
sinh trong đời sống xã hội. Thời gian này, vấn đề cho và nhận con ni nhìn
chung khơng nhiều, chủ yếu diễn ra giữa công dân Việt Nam ở trong nước với
nhau và được thực hiện theo tập quán. Vì vậy, Luật Hơn nhân và gia đình năm
1959 và điều lệ đăng ký hộ tịch ban hành kèm theo nghị định số 04/NĐ-CP ngày
16/01/1961 (áp dụng ở miền Bắc) chỉ đề cập một cách đơn giản đến thủ tục công
nhận và giải quyết việc nuôi con nuôi, riêng các việc về hộ tịch của ngoại kiều
cư trú trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm cả việc nuôi con nuôi cũng được tiến
hành như cơng dân trong nước. Có thể thấy rằng luật chưa có quy định rõ về
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi với con nuôi cũng khơng quy định riêng
trình tự thủ tục cho việc người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam làm con ni.
Kết thúc chiến tranh, nước ta có rất nhiều trẻ em mồ cơi cha mẹ, khơng cịn
họ hàng thân thích cưu mang, đùm bọc. Trong khi đó, các cơ sở ni dưỡng bảo
trợ xã hội cũng chưa đủ khả năng đón nhận trẻ về chăm sóc, ni dưỡng và cũng
chưa thu xếp cho các gia đình trong nước nhận về làm con ni. Trong bối cảnh
đó nhu cầu ni con ni có yếu tố nước ngồi bắt đầu xuất hiện, nhưng pháp
luật Việt Nam chưa có sự điều chỉnh nên mặc dù ni con ni có yếu tố nước
ngồi hay nói cụ thể hơn đó là việc người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam làm
con nuôi đã diễn ra trên thực tế nhưng lại rất ít được đăng ký tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.


13


Giai đoạn thứ hai, từ năm 1986 đến nay:
Từ cuối năm 1986, Đảng và nhà nước ta thực hiện đường lối đổi mới, mở
cửa, các quan hệ dân sự giữa cơng dân Việt Nam với nhau và với người nước
ngồi ngày càng phát triển. Các quan hệ hôn nhân giữa cơng dân Việt Nam với
cơng dân nước ngồi, trong đó có quan hệ ni con ni (chủ yếu là người nước
ngồi nhận trẻ em Việt Nam làm con ni) ngày càng gia tăng.
Quy định nuôi con nuôi trong luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã có
những bước phát triển mới. Chế định nuôi con nuôi được quy định tại Chương
VI gồm 6 điều, từ Điều 34 đến Điều 39. Tuy nhiên, quy định về nuôi con nuôi
trong Luật hơn nhân và gia đình năm 1986 chủ yếu vẫn mang tính nguyên tắc,
khái quát chung, bao gồm các quy định về mục đích của việc ni con ni,
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi, điều kiện để được nhận con
nuôi và điều kiện để được nhận làm con ni, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
công nhận việc nuôi con nuôi hoặc ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Để hướng dẫn thi hành quy định của luật hơn nhân và gia đình năm 1986 nói
chung, quy định về ni con ni nói riêng, ngày 20 tháng 01 năm 1988, Hội
Đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành nghị quyết số 01/NQHĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật hơn nhân và gia đình. Tại
mục 6 vủa Nghị quyết hướng dẫn việc nuôi con nuôi trong luật hơn nhân và gia
đình năm 1986, bao gồm quy định về con nuôi thực tế, giải quyết trường hợp
cha mẹ địi lại con đã cho người khác làm con ni, quyền thừa kế của con nuôi
đối với tài sản của cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ, các trường hợp chấm dứt việc nuôi
con nuôi và hậu quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi.
Trong một thời gian khá dài pháp luật Việt Nam chưa có quy định thống
nhất cụ thể nên việc quản lý và giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con ni
người nước ngồi gặp rất nhiều khó khăn như: mỗi địa phương vận dụng và giải
quyết theo các hướng khác nhau; Việc người nước ngoài xin trẻ em Việt Nam
làm con nuôi chủ yếu phát sinh ở các khu cơng nghiệp, liên doanh với nước
ngồi hoặc tỉnh, thành phố lớn cũng đồng thời xuất hiện các hiện tượng thu gom



14

trẻ em và tìm cách mơi giới cho người nước ngoài nhằm kiếm lợi nhuận…; Từ
thực tế trên đây, các tổ chức con ni nước ngồi bắt đầu có nhu cầu vào Việt
Nam để tìm hiểu tình hình tuy nhiên việc chưa có cơ sở pháp lý đã là một rào
cản pháp luật để các cơ quan chức năng Việt Nam có thể ngăn ngừa và kiểm
sốt được những hiện tượng tiêu cực này.
Trước tình hình đó, ngày 02/4/1992 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành quyết
định số 145/ HĐBT quy định tạm thời về việc cho người nước ngoài nhận con
nuôi là trẻ em Việt Nam bị bỏ rơi, mồ côi, tàn tật ở các cơ sở nuôi dưỡng do Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý. Sau đó ngày 19/01/1993 Liên bộ
Lao động thương binh xã hội – Tư pháp – Ngoại giao – Nội vụ đã ban hành
thông tư liên bộ số 01/TT-LB hướng dẫn thi hành quy định tạm thời trên. Quy
định tạm thời trên đã đáp ứng được phần nhu cầu của người nước ngoài xin
nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Tuy nhiên, Quyết định số 145/HĐBT mới
chỉ điều chỉnh việc người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi
đang sống trong cơ sở nuôi dưỡng do ngành Lao động thương binh xã hội quản
lý, còn việc người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi thuộc các
đối tượng khác như trong các cơ sở y tế, trong các gia đình nghèo đơng con,…
thì chưa có văn bản nào quy định.
Ngày 2/12/1993, Quốc hội nước ta đã ban hành pháp lệnh hôn nhân và gia
đình giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi (gọi là pháp lệnh 1993). Để
thi hành pháp lệnh này và hướng dẫn áp dụng các quan hệ cụ thể về hơn nhân
gia đình có yếu tố nước ngồi chính phủ ban hành nghị định 184/2004/NĐ-CP
Ngày 30/11/1994 quy định về thủ tục kết hơn, nhận con ngồi giá thú, ni con
nuôi, nhận đỡ đầu công dân Việt Nam và người nước ngồi. Sau đó, ngày
25/5/1995, liên bộ Tư pháp – Ngoại giao – Nội vụ ban hành thông tư số 503 quy
định chi tiết về thủ tục kết hôn, nhận con ngồi giá thú, ni con ni, nhận đỡ
đầu giữa cơng dân Việt Nam và người nước ngồi. Như vậy, khung pháp luật về
ni con ni có yếu tố nước ngoài đã được ban hành tạo cơ sở pháp lý thống

nhất bảo đảm việc giải quyết vấn đề cho trẻ em Việt Nam làm con ni người
nước ngồi.


15

Cũng tại thời kỳ này hoạt động cho nhận con ni có yếu tố nước ngồi do
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đảm nhiệm, nguồn trẻ em được cho làm
con ni người nước ngồi chỉ từ các cơ sở ni dưỡng do ngành quản lý. Từ đó
đã xuất hiện các hiện tượng độc quyền của một số cơ sở ni dưỡng đối với việc
cho người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
Việc thực hiện theo quyết định số 145/HĐBT tuy có những kết quả nhất
định nhưng cũng đã gây ra khơng ít hậu quả phức tạp, tạo dư luận khơng tốt
trong và ngồi nước. Điển hình là một số cán bộ bị tha hóa, biến chất đã bị đưa
ra xét xử do vi phạm pháp luật trong vấn đề giải quyết cho người nước ngồi
nhận trẻ em Việt Nam làm con ni.
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 ra được ban hành đã có những quy
định cụ thể chi tiết hơn về vấn đề cho nhận con nuôi quốc tế, quy định đầy đủ
điều kiện đối với người con nuôi, người nhận con ni và những người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan; Trình tự thủ tục cũng đã được luật hóa, tạo được
khung pháp lý cho mọi người tuân theo.
Chính phủ cũng đã ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn thi hành luật
Hơn nhân và gia đình năm 2000 như Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày
10/07/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình
về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định 69/2006/NĐCP ngày 21/07/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 68/2002/NĐCP; Thông tư của Bộ Tư pháp số 07/2002/TT-BTP ngày 16/12/2002 về việc
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; và Thông tư
của Bộ Tư pháp số 08/2006/TT-BTP ngày 08/12/2006 hướng dẫn thực hiện một
số quy định về ni con ni có yếu tố nước ngồi.
2.2. Điều kiện nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài
2.2.1. Điều kiện đối với người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm

con nuôi
Khoản 1 Điều 105 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, điều kiện đối với
người nhận nuôi con nuôi phải tuân theo quy định của Luật Hơn nhân và gia
đình Việt Nam và pháp luật của quốc gia mà người đó là cơng dân về điều kiện


16

nhận ni con ni. Như vậy thì trước hết người nhận nuôi con nuôi phải thỏa
mãn đầy đủ các điều kiện do Luật hơn nhân và gia đình quy định, cụ thể như
sau:
Thứ nhất, người nhận nuôi con nuôi phải có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ (Khoản 1 Điều 69 Luật HN&GĐ), điều này thể hiện sự tự nguyện trong vấn
đề nhận nuôi con nuôi và thể hiện khả năng chăm sóc giáo dục của cha mẹ ni
với con nuôi.
Thứ hai, người nhận nuôi con nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên
(Khoản 2 Điều 69 Luật HN&GĐ), đây là khoảng cách tuổi tối thiểu giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi. Việc quy định về khoảng cách tuổi giữa cha mẹ nuôi và con
nuôi như vậy là phù hợp với độ tuổi kết hôn cũng như độ tuổi sinh con về mặt
sinh học.
Thứ ba, người nhận ni con ni phải có tư cách đạo đức tốt (Khoản 3
Điều 69 Luật HN&GĐ), điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nuôi con
nuôi. Tư cách đạo đức của cha mẹ ni có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, đặc biệt đối với trẻ nhỏ khi đó các em
chưa có khả năng nhận thức độc lập. Để xác định tư cách đạo đức của người
nhận nuôi con chúng ta cần xem xét quan điểm của họ về việc giáo dục trẻ, tình
trạng hơn nhân, lý lịch tư pháp…Đối với người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt
Nam làm con ni chúng ta có thể tìm hiểu tư cách đạo đức của họ thông qua
Bản điều tra về tâm lý, gia đình, xã hội của người xin nhận ni con ni. Để
đảm bảo tối đa cho trẻ có một mơi trường tốt để phát triển nhân cách của mình

thì các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xác minh một
cách trung thực nhất tư cách đạo đức của người nhận nuôi con nuôi.
Thứ tư, người nhận ni con ni phải có điều kiện thực tế đảm bảo việc
trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục con nuôi (Khoản 4 Điều 69 Luật
HN&GĐ), chúng ta có thể hiểu những điều kiện đó là những điều kiện trực tiếp
liên quan trực tiếp đến quyền làm cha mẹ của người nhận nuôi con nuôi, như
điều kiện về sức khỏe, thời gian, kinh tế... Điều này được thể hiện trong bộ hồ


17

sơ khi người nước ngoài muốn nhận trẻ em Việt Nam làm con ni thì bộ hồ sơ
phải có giấy chứng nhận sức khỏe thể hiện tại tại thời điểm xin nhận ni con
ni người đó có đủ sức khoẻ, không mắc bệnh tâm thần hoặc không mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, khơng mắc bệnh
truyền nhiễm; Giấy tờ xác nhận về tình hình thu nhập của người xin nhận con
ni, chứng minh người đó bảo đảm việc ni con ni; Phiếu lý lịch tư pháp
của người xin nhận con nuôi; Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn đối với người
xin nhận con nuôi, trong trường hợp người xin nhận con nuôi là vợ chồng đang
trong thời kỳ hôn nhân.
Thứ năm, người nhận nuôi con nuôi không phải là người đang bị hạn chế
một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa
được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân
phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ,
chồng, con, cháu, người có cơng ni dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa
chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em;
các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm
những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Các điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi trên đây được áp dụng đối với
tất cả các trường hợp nhận nuôi con nuôi, không phân biệt người nhận nuôi con nuôi

là người độc thân hay là người đang có vợ hoặc chồng. Điều 70 Luật Hơn nhân và
gia đình năm 2000 quy định: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng cùng nhận nuôi con
nuôi thì vợ chồng đều phải có đủ các điều kiện quy định tại điều 69 của Luật này”.
Ngay cả trong trường hợp vợ hoặc chồng nhận con riêng của bên kia làm con ni
thì vẫn phải đảm bảo các điều kiện nhận nuôi theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên
nếu nhất thiết địi hỏi người nhận ni con riêng của chồng hoặc vợ mình làm con
ni mà bắt buộc phải hơn con từ hai mươi tuổi trở lên là quá cứng nhắc và hạn chế
việc thiết lập quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên, ảnh hưởng đến việc hình thành
một gia đình trọn vẹn.


18

Pháp luật nước ta chỉ cho phép trẻ em có thể làm con nuôi của một người hoặc
cả hai là vợ chồng, vợ chồng phải là những người khác giới có quan hệ hơn nhân
(Khoản 1 Điều 36 Nghị định 68). Quan hệ hôn nhân ở đây được hiểu là quan hệ hôn
nhân hợp pháp, tức là quan hệ vợ chồng được xác lập trên cơ sở thỏa mãn đầy đủ các
điều kiện kết hơn và có đăng ký kết hôn.
Khác với Việt Nam, trường hợp hai vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi bên
cạnh một số điều kiện về độ tuổi, đạo đức…pháp luật một số nước còn quy định về
thời gian đã kết hôn với nhau nhằm đảm bảo tính ổn định của gia đình mà đứa trẻ
được nhận về nuôi, tránh sự xáo trộn xấu như bố mẹ nuôi ly hôn, cãi vã, xung đột.
Pháp luật một số nước công nhận việc xác lập quan hệ vợ chồng hợp pháp
giữa hai người cùng giới tính như ở Thụy Điển… Theo quy định của nước ta thì
người nước ngồi muốn nhận trẻ em Việt Nam làm con ni thì đồng thời phải
tuân theo hai hệ thống pháp luật: pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước mà
người đó là cơng dân, như vậy cặp vợ chồng đồng giới không đủ điều kiện để
nhận trẻ em Việt Nam làm con ni.
Người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam làm con ni phải có đủ các điều
kiện của người nhận con nuôi theo quy định tại Điều 69 Luật Hơn nhân và gia

đình năm 2000 và pháp luật của nước mà người đó là cơng dân (Khoản 1 Điều
105 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000). Theo đó, pháp luật áp dụng để xác
định điều kiện của người nhận nuôi là luật quốc tịch. Tuy nhiên, theo quy định
tại khoản 1 Điều 37 Nghị định số 68/CP thì người nước ngoài phải đáp ứng
được các điều kiện của người nhận nuôi theo quy định của pháp luật của nước
nơi người nhận nuôi thường trú, tức là áp dụng hệ thuộc luật nơi thường trú.
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy pháp luật quy định không thống nhất về luật
áp dụng để xác định điều kiện của người nhận ni. Bên cạnh đó điều kiện của
người nhận ni con được xác định qua các các hiệp định tương trợ tư pháp và
hiệp định hợp tác nuôi con nuôi giữa nước ta với các nước khác. Trong các hiệp
định song phương này, việc lựa chọn pháp luật được áp dụng để xác định điều
kiện của người nhận nuôi con nuôi cũng dựa vào hai hệ thuộc luật trên.


19

Ngồi các điều kiện trên thì tại khoản 8 Điều 1 Nghị định số 69/NĐ-CP, người
nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải là người đang thường trú tại
nước mà cũng như Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế nhiều bên về
hợp tác ni con ni. Người nước ngồi thường trú tại nước mà cũng như Việt
Nam chưa là thành viên của điều ước quốc tế hai bên, hoặc điều ước quốc tế nhiều
bên vể hợp tác nuôi con nuôi. Trong những trường hợp này để muốn nhận trẻ em
Việt Nam làm con ni thì chỉ được xem xét giải quyết nếu người đó thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
- Có thời gian công tác, học tập làm việc ở Việt Nam từ 6 tháng trở lên; có vợ
chồng, cha mẹ là công dân Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam;
- Có quan hệ họ hàng thân thích với trẻ em được xin nhận làm con ni hoặc
đang có con ni là anh chị em ruột của trẻ em được xin nhận làm con ni.
Đối với người nước ngồi tuy khơng thuộc một trong các trường hợp trên,
nhưng xin nhận trẻ em khuyết tật, mất năng lực hành vi dân sự, nạn nhân nhiễm chất

độc, nhiễm HIV/AIDS, mác các bệnh hiểm nghèo đang sống ở cơ sở ni dưỡng
hoặc gia đình làm con ni thì cũng được xem xét giải quyết.
Có thể nhận thấy pháp luật đã quy định các điều kiện đối với người muốn nhận
ni tương đối tồn diện. Tuy nhiên vẫn cịn một số khía cạnh chưa quy định cụ thể
nên việc xác định tư cách của người nhận ni con ni cịn gặp khó khăn.
2.2.2. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi
Việc nuôi con nuôi hướng tới đối tượng trước tiên là trẻ em nên pháp luật
thường quy định độ tuổi tối đa của người được nhận làm con nuôi. Theo Khoản 1
Điều 68 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Người được nhận làm con
nuôi phải là người từ mười lăm tuổi trở xuống”. Đây là những đối tượng chưa trưởng
thành đầy đủ về thể chất và tinh thần, đang trong quá trình định hình và phát triển
nhân cách, rất cần sự quan tâm ni dưỡng, chăm sóc giáo dục của người lớn. Khi
tuổi còn nhỏ sự giáo dục, dạy dỗ của người lớn có ảnh hưởng tới việc hình thành
nhân cách của trẻ trong tương lai. Quy định về độ tuổi của người được nhận làm con
nuôi như vậy là tương đối phù hợp với quy định về độ tuổi của một số ngành luật
khác như luật lao động, khi các em đến độ tuổi lao động và có khả năng lao động


20

kiếm sống thì việc nhận con ni khơng thực sự còn nhiều ý nghĩa nữa, hơn nữa vào
độ tuổi này các em cũng có khả năng nhận thức sự việc một cách tương đối chính
xác… Như vậy, quy định về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi là khá phù
hợp về mặt thực tế xã hội, hơn nữa, việc quy định độ tuổi của trẻ được nhận làm con
nuôi phải là từ mười lăm tuổi trở xuống cũng là phù hợp với việc các em được người
nước ngoài nhận làm con ni vì nếu một khi đã q tuổi quy định như trên nay
chuyển sang một môi trường mới, tiếp xúc với ngôn ngữ mới khác hẳn với cuộc
sống ở Việt Nam khi đó các em sẽ rất khó thích nghi để hồ nhập.
Ngồi Luật HN&GĐ, điều kiện để trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi
người nước ngồi cịn được quy định cụ thể chi tiết trong nghị định số 68/CP và nghị

định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định
số 68/CP. Theo quy định tại khoản 9 Điều 1 Nghị định 69/NĐ-CP thì: “trẻ em được
nhận làm con ni phải là trẻ em từ mười lăm tuổi trở xuống. Trẻ em từ trên mười
lăm đến dưới mười sáu tuổi có thể được nhận làm con ni nếu là trẻ em tàn tật, trẻ
mất năng lực hành vi dân sự”. Trẻ em được nhận làm con nuôi của người nước ngồi
là: trẻ em đang sống tại các cơ sở ni dưỡng được thành lập hợp pháp hoặc trẻ em
đang sống tại gia đình hoặc trẻ em đang chữa bệnh ở nước ngồi. Đó là những trẻ em
bị bỏ rơi; mồ côi; khuyết tật, tàn tật; mất năng lực hành vi dân sự; trẻ em là nạn nhân
của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo khác.
Ngồi những trẻ em đó, những trẻ em sống trong gia đình mà có quan hệ họ hàng,
thân thích với người xin nhận con ni hoặc có anh chị em ruột đang làm con nuôi
của người xin nhận con nuôi cũng được xem xét giải quyết (khoản 9 điều 1 nghị định
số 69/NĐ-CP). qua đó đã mở ra hướng cho phép người nước ngoài được nhận trẻ em
mắc các bệnh hiểm nghèo đang chữa bệnh tại nước sở tại được nhận làm con ni.
Bên cạnh đó, trường hợp nhận trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên phải cần có sự đồng ý
của chính bản thân đứa trẻ . Đây là quy định được kế thừa Điều 36 của Luật Hơn
nhân và gia đình năm 1986. Quy định này thể hiện sự tôn trọng nguyện vọng của
người được nhận làm con ni, bởi về độ tuổi này có thể đứa trẻ chưa nhận thức
được toàn bộ vấn đề nhưng cũng đã nhận thức được về môi trường sống và hệ quả
của việc được nhận làm con nuôi, đứa trẻ có quyền khơng đồng ý làm con ni nếu



×