Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Phân tích tác phẩm Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.63 KB, 37 trang )

VỢ NHẶT
Đề 1: “Cái đói… tự đắc với chính mình”
Có ai đó đã ví: “Sáng tạo nghệ thuật giống như việc thả diều.
Con diều dù có bay bổng bao nhiêu vẫn phải gắn bó với mặt đất
bằng một sợi dây vững chắc”. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy
nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc
sống. Qủa đúng như vậy, cuộc sống giống như một nghiên mực
mà người nghệ sĩ phải chấm bút vào nếu không văn chương
cũng chỉ là “ánh trăng lừa dối” mà thôi. Điều ấy gợi cho ta liên
tưởng đến nhà văn Kim Lân- cây bút độc đáo của làng quê Việt
Nam và mối lương duyên với đồng ruộng nông thơn. Chính con
người và vùng đất nơi đây đã thổi hồn vào tác phẩm của ông,
đặc biệt là ở “Vợ nhặt”. Tác phẩm không chỉ là bức tranh hiện
thực thê thảm của nạn đói mà cịn diễn tả thật sinh động vẻ
đẹp và sức sống kì diệu của người dân nơi đây.
Kim Lân được mệnh danh là nhà văn “một lòng đi về với đất,
với người, với thuần hậu nguyên thủy”, với những trang viết
đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê. “Vợ nhặt” là truyện
ngắn xuất sắc của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
Tiền thân của truyện ngắn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được
viết ngay sau Cách mạng tháng 8 nhưng còn dang dở và thất lạc
bản thảo. Ngay khi hịa bình lập lại (1954) ông dựa vào một
phần cốt truyện để viết nên truyện ngắn này. “Vợ nhặt” không
chỉ là bức tranh thê thảm của nạn đói năm 1945 mà điều tác giả
muốn gửi gắm là tình người trong những năm tháng đói khổ và


lay lắt, tối tăm ấy. Truyện ngắn được chia làm bốn phần, đoạn
trích thuộc phần một của truyện.
“Vợ nhặt” lấy bối cảnh từ nạn đói năm 1945 đã đi vào lịch sử
như một vành khăn tăng cướp đi mạng sống của hơn hai triệu


đồng bào ta. Bằng ngòi bút sắc sảo, săn đuổi hiện thực đến tận
đáy, Kim Lân đã mở ra trước mắt bạn đọc không gian tăm tối và
có phần nghiệt ngã: “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”.
Với từ “tràn” cái đói đã được cụ thể hóa với sức tàn phá dữ dội.
Bức tranh tồn cảnh về nạn đói hiện lên “người đói bồng bế dắt
díu nhau xanh xám như những bóng ma” và sau đó là “chết như
ngả rạ”, “khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây
của xác người”. Có thể nói, cái đói, cái khát, cái chết đã len lỏi
vào từng đường thơn ngõ xóm, gõ cửa từng gia đình. Cái chết
đã bao phủ cả bầu trời và mặt đất. Dưới ngịi bút của Kim Lân,
khơng gian nghệ thuật của tác phẩm ngột ngạt, bức bối đến tắc
thở. Người chết như ngả rạ, còn những người sống thì sống
một cuộc sống lay lắt, vật vờ, thoi thóp, một cuộc sống khơng
đáng sống. Có đến hai lần nhà văn so sánh người như ma nhằm
diễn tả đó là lúc cõi âm tràn vào cõi dương. Cuộc sống được
nhìn như một bãi tha ma khổng lồ, ranh giới giữa sự sống và cái
chết mong manh như sợi tóc. Cái đói tàn phá lên từng gương
mặt người: trẻ con khơng nhúc nhích- cái đói đã giết chết bản
tính trẻ thơ của chúng, người dân xóm ngụ cư “khn mặt hốc
hác u tối”. Không cần một lời kết tội hùng biện nhưng đọc
những dòng văn của Kim Lân ta thấy như là một bản cáo trạng
đanh thép tố cáo vạch trần bản chất phi nhân tính của bè lũ
cướp nước. Bao nhiêu con người đã phải ra đi tỏng cái đói, cái


khát. Chỉ với vài dòng văn ngắn ngủi, Kim Lân đã để lại trong
long người đọc bao nỗi ngậm ngùi, xót thương với số phận của
người dân lao động Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Một buổi chiều “tối sầm lại vì đói khát” con người đang chìm
dần trong bóng tối “khơng nhà nào có ánh đèn, kẻ chết, tiếng

quạ cứ gào lên từng hồi thê thết”. Cái đói đã biến con người
thành cái xác không hồn vật vờ, quằn quại... Cái đói đang tràn
lan như một dịch bệnh tàn nhẫn và phô trương sức mạnh hủy
diệt thật là khủng khiếp. Giữa thế giới ngổn ngang người sống
kẻ chết ấy, Kim Lân dám đặt vào đó một đám cưới quả là táo
bạo. Người ta lấy nhau khi ăn nên làm ra, đám cưới là hiện thân
của sự sống, hạnh phúc ấy vậy mà Tràng và người vợ nhặt
quyết định đưa nhau về trong vịng bủa vây của cái chết, cái
đói. Nó đeo bám quyết liệt, đậm đặc trong khơng khí của tác
phẩm, nó vẩn lên thành màu, thành mùi, thành tiếng. Cả một xã
hội là một đám ma khổng lồ, Tràng đưa vợ về trong một buổi
chiều chạng vạng, đau thương đó. Đám cưới của Tràng xuất
hiện trên khơng gian bi thảm ấy. Tràng nhặt được vợ. Có thể
nói, trên cái nền tối sầm lại vì đói khát, vẻ đẹp ánh sáng của
niềm tin, của tình thương lại lung linh làm tỏa sáng, làm ấm
thêm, đẹp thêm bức tranh tình người.
Tác giả đã tạo cho thiên truyện một phông nền đặc biệt nhàu
nát, ảm đạm, tối tăm, có phần nghiệt ngã. Mảng tối của bức
tranh hiện thực đau buồn chính là phép địn bẩy cho mảng sáng
của tình người. Tràng đưa vợ về nhà trước con mắt tò mò của
những người xóm ngụ cư. Tâm trạng Tràng có những biến đổi


rất tinh tế qua cái nhìn của nhà văn Kim Lân: “Mặt hắn có một
vẻ gì phơi phới khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và
hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Từ một gã dân ngụ cư xấu xí, ế
vợ, lần đầu tiên hắn cảm nhận được hạnh phúc. Tràng trong
tâm trạng lâng lâng, vui sướng, tủm tỉm cười, thích chí, ánh mắt
tràn đầy hi vọng. Nó đối lập hoàn toàn với khung cảnh thê
lương, ảm đạm của xóm ngụ cư. Đấy là gì nếu như khơng phải

là cái bộ dạng sung sướng, cái cảm giác đang ngất ngây trong
men say hạnh phúc, dù nó mới bắt đầu trong Tràng.
Trước con mắt tò mò của những đứa trẻ “Tràng vội vàng
nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu khơng bằng lịng”. Nếu như
trước đây hắn thường xun nói đùa với đám trẻ thì dường
như việc có vợ khiến Tràng trưởng thành hơn, hắn ý thức được
mình cần tách biệt với đám trẻ con và có trách nhiệm với vợ
mình. Kim Lân diễn tả rất thành cơng cách cư xử của Tràng với
lũ trẻ con trêu đùa, để gã trai này mắng yêu lũ trẻ “Bố ranh!”.
Gã trai tưởng chừng ngờ nghệch này cũng khéo léo biết mấy để
đưa vợ về nhà trước những cặp mắt tò mò và những lời trêu
đùa.
Trước con mắt tò mò và ái ngại của người dân xóm ngụ cư “Ơi
chao! Giời đất này cịn rước cái của nợ đời về. Biết có ni nổi
nhau sống qua được cái thì này khơng?”, Tràng vẫn không hề lo
sợ tương lai. Trong trái tim anh cu Tràng giờ đây chỉ có niềm
hạnh phúc mới vừa nhen nhóm. Dường như mọi lo âu, nghịch
cảnh khắc nghiệt của cuộc sống cũng không thể ngăn con người
hướng về những giá trị đích thực là có một mái ấm gia đình,


được u thương. Và khơng có gì ngăn nổi niềm tin, niềm hy
vọng của họ vào tương lai. Đó chính là giá trị nhân văn đầy cảm
động của truyện ngắn này.
Trước sự ngượng nghịu, chân nọ bưới díu cả vào chân kia của
Thị “hắn cũng biết thế, nhưng hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm,
cái mặt cứ vênh vênh lên tự đắc với mình”. Việc có vợ khiến
Tràng trở nên hãnh diện với mọi người trong xóm ngụ cư và
ngay cả với chính bản thân mình hắn cũng khơng thể giấu nổi
niềm vui, niềm hạnh phúc.

Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả nét tâm lí, tính cách của Thị.
Nhà văn như lọt vào trong nỗi thẳm sâu tâm tư tình cảm ấy của
người phụ nữ năm đói. Người đàn bà bề ngoài tưởng như đáng
khinh ấy khi lâm vào cảnh đưng cùng phải theo khơng Tràng
trong lịng cũng vừa thấy tủi phận, vừa e thẹn, ngập ngừng:
“Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e
thẹn”. Cái dáng vẻ ấy khơng giấu nổi những cặp mắt tị mị của
người dân xóm ngụ cư. Người ta thấy “Thị thèn thẹn hay đáo
để” khi nhìn thấy cặp mắt những người xung quanh đang đổ
dồn cả về phía mình “Thị ngượng nghịu chân nọ díu cả vào chân
kia”. Kim Lân như nhìn thấy cả nỗi tủi nhục của kiếp người, thấy
cả trong bước chân lieu xiêu, bước díu vào nhau kia là cái tủi
hờn, xấu hổ. Nhà văn đã miêu tả thật tinh tế và cảm động
những bước chân ngập ngừng, e thẹn trên đường về nhà chồng
của Thị. Hồn cảnh tàn nhân xơ đẩy Thị có lúc thành ra trơ tráo,
cong cớn nhưng cái bản chất thực của chị không phải là như


vậy. Ẩn sâu trong tâm hồn chị vẫn là người con gái giàu lòng tự
trọng. Cái hay của tác phẩm là không để cảnh ngộ xua con
người đi đến tận cùng của cái tầm thường, hèn hạ.
Cũng như Tràng, Thị mong muốn có hạnh phúc, có một mái
ấm gia đình dù ban đầu cái mong muốn ấy không hề xuất hiện.
Thị tư nguyện về làm vợ Tràng chẳng qua vì đói. Người đàn bà
ấy đến với Tràng trước hết chỉ đến với một chốn có thể tựa
nương trong thời buổi đói kém, khơng hề có biểu hiện của tình
u hay niềm khát khao hạnh phúc. Nhưng Kim Lân, bằng vốn
sống và sự tinh tế của mình, đã khám phá ra cáu bản chất đẹp
của người vợ nhặt đó là niềm khát khao hạnh phúc.

Những người dân trong xóm ngụ cư khi “Nhìn theo bóng
Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm
lạ lắm”. Họ “bàn tán” và khi họ “hiểu đôi phần” khuôn mặt họ
“bỗng rưng rạng rỡ hẳn lên”. Tình huống đã tạo nên sự thay đổi
mới mẻ theo hướng tích cực: bên bờ vực cái chết vì đói khát
vẫn biết cảm thơng cho nhau, tin tưởng vào điều tốt đẹp: “Có
cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm ấy
của họ”. Rõ ràng cuộc hôn nhân kỳ lạ của Tràng đã làm bừng
sáng niềm yêu thương trong xóm ngụ cư vốn như những nhà
mồ hoang lạnh với những sinh linh đang tuyệt vọng trong cơn
đói khát. Tình yêu, khao khát hạnh phúc như ngọn gió xua đuổi
tà khi u mê vây bủa con người. Viết đoạn văn này Kim Lân đã
khẳng định sự sống và ý chí vươn lên chống lại định mệnh của
con người luôn mãnh liệt.


Kim Lân mượn cái đói như một phép thử để làm nổi bật cái
tình, như một bối cảnh khảo sát sức sống của con người. Cuộc
sống đói nghèo chỉ có thể làm tep tóp phần thể xác chứ khơng
thể hủy diệt được tình u thương đồng loại, khơng thể dập tắt
ngọn lửa khát vọng sống trong mỗi cá nhân. Hiện thực đó chỉ là
phơng nền, là hồn cảnh để vẻ đẹp của tâm hồn con người, tình
yêu thương của những con người dành cho nhau tỏa sáng đẹp
đẽ.
Có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật phải là cái độc đáo, vì vậy nó
địi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là nét gì
đó rất riêng”. Đoạn trích trên nói riêng và “Vợ nhặt” nói chung
thành cơng bởi một phần không nhỏ về giá trị nghệ thuật.
Trước hết, đó là nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc
đáo, hấp dẫn, hình tượng nhân vật sâu sắc, dựng cảnh và tả

cảnh sinh động, chân thực. Ngồi ra, cịn có nghệ thuật kể
chuyện linh hoạt, câu văn giàu cảm xúc… tất cả đã khắc họa
thực cảnh thê thảm của nạn đói năm 1945.
“Cái đẹp cứu vớt con người”. Vâng, “Vợ nhặt” của nhà văn
Kim Lân đã thể hiện rõ sức mạnh kỳ diệu ấy. Trên phông nền u
ám của nạn đói, của cái chết, tiếng quạ kêu thê thết, Kim Lân
vẫn pha vào đó một chút sắc màu ấm áp của hạnh phúc lứa đơi,
lóe lên hi vọng về một ngày mai tươi sáng, về sự thay đổi vận
hội. Trong đó, đoạn trích trên là một trong những trích đoạn
hay nhất về hiện thực thê thảm của người nông dân cùng phẩm
chất quý báu của người nông dân nghèo dù trên bờ vực cái chết
vẫn khao khát được sống, sống với đúng nghĩa của từ này. Phải


chăng Kim Lân đang muốn nhắn nhủ tới thế hệ trẻ chúng ta
rằng: “hãy luôn khao khát ước mơ và sống một cuộc đời đúng
nghĩa”.

Đề 2: “Ít lâu nay…cùng đẩy xe bị về”
Có ai đó đã ví: “Sáng tạo nghệ thuật giống như việc thả diều.
Con diều dù có bay bổng bao nhiêu vẫn phải gắn bó với mặt đất
bằng một sợi dây vững chắc”. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy
nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc
sống. Qủa đúng như vậy, cuộc sống giống như một nghiên mực
mà người nghệ sĩ phải chấm bút vào nếu không văn chương
cũng chỉ là “ánh trăng lừa dối” mà thôi. Điều ấy gợi cho ta liên
tưởng đến nhà văn Kim Lân- cây bút độc đáo của làng quê Việt
Nam và mối lương duyên với đồng ruộng nơng thơn. Chính con
người và vùng đất nơi đây đã thổi hồn vào tác phẩm của ông,
đặc biệt là ở “Vợ nhặt”. Tác phẩm không chỉ là bức tranh hiện

thực thê thảm của nạn đói mà cịn diễn tả thật sinh động vẻ
đẹp và sức sống kì diệu của người dân nơi đây.
Kim Lân được mệnh danh là nhà văn “một lòng đi về với đất,
với người, với thuần hậu nguyên thủy”, với những trang viết
đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê. “Vợ nhặt” là truyện
ngắn xuất sắc của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
Tiền thân của truyện ngắn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được
viết ngay sau Cách mạng tháng 8 nhưng còn dang dở và thất lạc
bản thảo. Ngay khi hịa bình lập lại (1954) ơng dựa vào một
phần cốt truyện để viết nên truyện ngắn này. “Vợ nhặt” không


chỉ là bức tranh thê thảm của nạn đói năm 1945 mà điều tác giả
muốn gửi gắm là tình người trong những năm tháng đói khổ và
lay lắt, tối tăm ấy. Truyện ngắn được chia làm bốn phần, đoạn
trích thuộc phần hai của truyện.
Đoạn trích thuộc phần giữa của truyện, là dòng hồi tưởng của
nhân vật Tràng trong một lần “xe thóc liên đồn lên tỉnh” thì
tình cờ gặp Thị. Nhờ một câu bơng đùa mà Tràng có vợ. Đoạn
văn vừa hài hước, vừa chua xót, diễn tả tâm trạng nhân vật Thị,
tâm trạng của Tràng qua hai lần gặp gỡ.
Tràng là người lao động thiệt thòi, nghèo khổ đến mức cái tên
cũng gợi sự lam lũ, vất vả. Đó là con người được tạo hóa đẽo
gọt quá sơ sài về ngoại hình và tính cách. Hắn có vẻ ngờ nghịch,
vừa đi vừa lảm nhảm những điều hắn nghĩ… Tràng là dân ngụ
cư với thân phận bèo bọt, sống tạm, nghề nghiệp vất vưởng, gia
cảnh nghèo khó, mẹ góa con cơi nên đã nhiều tuổi mà vẫn chưa
có gia đình. Trong lần gặp gỡ đầu tiên, Tràng vốn làm nghề kéo
xe bị th và ít lâu nay cơng việc của anh là “xe thóc liên đồn
lên tỉnh” vận chuyển thóc cho phát xít Nhật. Hơm ấy, khi “đang

gị lưng kéo xe bị thóc vào dốc tỉnh, hắn hị một câu cho đỡ
nhọc”, khơng chủ tâm chịng ghẹo cơ nào, nhưng mấy cơ gái lại
cứ đẩy Thị ra với hắn, vì thế mà có sự tiếp xúc đầu tiên. Tràng
đã hị “Muốn ăn cơm trắng mới giò này! Lại đây mà đẩy xe bị
với anh, nì!”. Trước hết đây là câu hò của người lao động, lời ca
tiếng hát bật lên tự nhiên trong bối cảnh lao động nặng nhọc,
làm vơi bớt nhọc nhằn, cổ vũ, khích lệ con người. Nhịp của câu
hò trước hết là nhịp của lao động, chữ “nì”, “này” được thêm


vào cuối mỗi câu, ngắt ra để tạo nhịp, dồn sức để kéo chiếc xe
bị đầy thóc lên dốc. Câu hò ấy phải chăng còn được bật ra một
cách tự nhiên như lời đùa vui giữa các chàng trai chưa vợ và
những cơ gái chưa chồng. Có thể thấy hồn cảnh đói khổ nhất
cũng khơng thể làm mất đi tình cảm tự nhiên của con người.
Nhờ đó mà tạo nên hợp âm tiếng cười như nắc nẻ của những
cô gái làm cho không gian vui lên, bớt cảm giác nặng nề của
cuộc sống mưu sinh u ám. Câu hò dường như cũng ẩn chứa
khát vọng âm thầm của con người, của Tràng: trong ngày đói
người ta nói đến “cơm trắng mấy giò” như một niềm hạnh phúc
tinh thàn. Câu hò đã trở thành nhịp cầu nối, mở đầu cuộc gặp
gỡ của hai con người cùng cảnh ngộ trong nạn đói năm 45.
Người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói năm 45. Thị là người
vô gia cư, đến cái tên cũng chẳng có. Thị hiện lên vừa bằng
ngoại hình, vừa bằng tính cách của một con người năm đói.
Trước sự trêu chọc của mấy cơ bạn “kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn
cơm trắng mấy giị thì ra đẩy xe cho anh ấy!” Thị không hề xấu
hổ hay e thẹn như biểu hiện thường thấy ở những cô gái khác,
mà rất dạn dĩ phối hợp với các bạn để trêu đùa. Ngơn ngữ táo
bạo “có khối cơm trắng mấy giị đấy”, “đã thật thì đẩy chứ sợ

gì” lại được nói bằng giọng điệu “cong cớn” nhưng vẫn có nét
duyên riêng ở cách xưng hô thân mật “nhà tôi ơi”, “đằng ấy
nhỉ” khiến khoảng cách xa lạ như được xóa nhịa. Hành động
“vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” đúng là
thiếu đi sự duyên dáng nữ tính, nhưng có thể thấy đằng sau đó
là sự giúp đỡ chân tình khi Tràng đang phải gị sức để kéo xe
bò. Đặc biệt là những biểu cảm “Thị liếc mắt, cười tít” trong


cảm nhận của Tràng mới đáng yêu làm sao bởi “Từ khi cha sinh
mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười cới hắn tình tứ
như thế”. Có thể thấy cuộc gặp đầu tiên đã làm nổi bật lên
những vẻ đẹp trong tâm hồn Tràng và Thị.
Lần gặp gỡ thứ hai, đùa đã thành thật, Tràng sẵn sàng đánh
đổi tất cả để có gia đình hạnh phúc. Khi Tràng đang ngồi nghỉ
trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có một người đàn bà “sầm sập
chạy đến”, “sung sỉa nói: Điêu người thế mà điêu”. Tràng khơng
nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình bởi Thị quá
khác. Thấy người đàn bà đói rách thảm hại, Tràng động lòng
thương, hắn sẵn sàng cho Thị ăn dù chả dư dật gì. Có ai ngờ
trong con người thơ kệch ấy lại có một tấm lịng thương người
cao cả. Tràng mời người đàn bà kia đi ăn, không chỉ cho ăn mà
còn cho ăn rất nhiều: bốn bát bánh đúc. Đó chính là lịng
thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng khơng có ý
định lợi dụng hay chịng ghẹo. Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm
phào “nói đùa chứ có về với tớ thì ra khn hàng lên xe rồi cùng
về”. Phía sau câu nói tưởng là đùa vui bật ra từ người đàn ông
nghèo khổ ấy là khát vọng cháy bỏng có thật về một mái nhà
hạnh phúc, về tổ ấm gia đình. Nói đùa thế thơi, ai ngờ Thị về
thật. Lúc đầu, Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết “mới

đầu anh cũng chậc, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng
chả biết có ni nổi khơng lại cịn đèo bịng”. Đó là một nỗi sợ
hãi có thật, nhất lại là thời đói kém như thế này, một nỗi lo rất
thực tế. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc
đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh tặc lưỡi “chậc, kệ!”. Chỉ
một từ “kệ” thôi, Tràng như bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ


hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình. Cái
“tặc lưỡi” khơng phải là sự phó mặc liều lĩnh, dễ dãi mà đó là
tình thương u của anh với người cùng khổ. Việc hai người
đến với nhau bề ngồi có vẻ ngẫu nhiên, nhưng bên trong lại là
tất yếu. Người đàn bà cần Tràng để có một chỗ dựa qua thì đói
kém, cịn Tràng cũng cần người phụ nữ nghèo ấy để có vợ và
biết đến hạnh phúc. Anh chấp nhận đương đầu với khó khăn
hiện tại và cả sắp tới. Phải chăng đằng sau cái quyết định có vẻ
tầm phào với một việc thuộc thể loại trọng đại bậc nhất trong
đời, Tràng đã dám đánh cược cuộc đời mình cùng cái đói, cái
chết? Hạnh phúc giản dị, đơn sơ nhưng trong hoàn cảnh của
Tràng anh đâu dễ dãi có được? Vì thế khi có nó Tràng rất trân
trọng, nâng niu. Điều này được chứng thực qua hàng loạt các
hành động và phản ứng tâm lí kể từ khi có vợ. Đầu tiên là việc
“anh đưa Thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho Thị cái thúng con
đựng vài thứ lặt vặt và ra chợ hàng cơm đánh một bữa no nê
rồi cùng đẩy xe bò về”. Chi tiết này cho thấy Tràng là một người
đàn ơng phóng khống, biết quan tâm đến người khác- người
bạn đời. Sính lễ chẳng có gì to tát nhưng hành động của Tràng
cho thấy anh rất nghiêm túc, biết nghĩ với một trái tim nhân
hậu. Phải chăng niềm khao khát về một mái ấm thực sự luôn
âm ỉ, chảy từ lâu trong Tràng, nhưng vì cuộc sống khắc nghiệt

đã bóp nghẹt nó lại nên bây giờ khi có cơ hội bày tỏ thì nó được
thể hiện một cách vơ cùng tự nhiên, tinh tế đến thế. Hạnh phúc
giống như làn gió mát cuốn đi tất cả những ê chề, lo lắng, tối
tăm làm Tràng quên đi những ngặt nghèo của cuộc sống mưu
sinh.


Cái đói đã hành hạ, đẩy Thị đến bờ vực thẳm. Thị xuất hiện
với ngoại hình kém hấp dẫn, nếu như khơng muốn nói là xấu.
Cái đói đã để lại dấu tích ghê gớm của nó trên khn mặt “lưỡi
cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” và “cái quần tả tơi như tổ
đỉa”, làm cho Thị trở nên trơ trẽn vì miếng ăn. Vì cái đói mà Thị
trở nên “chao chat”, “chỏng lỏn”, “cong cớn”, “sưng sỉa” khi
giao tiếp, nói chuyện. Cái đói biến Thị trở thành kẻ liều lĩnh,
cùng đường, đánh rơi cả lòng tự trọng. Hai con mắt của Thị
sáng lên trước miếng ăn, Thị quên đi cái e thẹn, nết na, kín đáo
vốn có của người phụ nữ. Thị nói với Tràng một cách thẳng
thắn: “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”, rồi cong cớn trước mặt Tràng
“ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì”. Thế rồi Thị sà xuống “cắm đầu
ăn một chập hết bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trị gì”. Ăn
xong, Thị cầm đôi đũa quệt ngang miệng: “Hà, ngon”. Bánh
đúc- thứ thức ăn được coi là bình dân và rẻ tiền trong đời sống
người Việt Nam trong những ngày tháng đói kém đủ phép màu
để làm hai con mắt trũng hốy của người phụ nữ đói sáng lên.
Có thể nói, tất cả biểu hiện trên của Thị suy cho cùng là vì đói.
Cái đói đã quay quắt họ, té ra nó cũng có thể se dun cho một
mối tình. Phía sau tình cảnh trơi dạt, vấn vương, người vợ nhặt
lại có một lịng ham sống mãnh liệt, Thị bất chấp tất cả để được
ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống: Khi Tràng
nói đùa “có về với tớ thì ra khn hàng lên xe rồi cùng về” thì

người đàn bà kia lại im lặng sau câu nói ấy. Nói đúng hơn là Thị
đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Thị nào có biết
Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? Q qn, gốc tích ra sao? Chỉ
một câu hị bâng quơ và mấy bát bánh đúc là Thị có thể theo


Tràng ngay. Phải chăng Thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn? Thị dễ
dàng, hời hợt thế ư? Thực ra, hành động theo Tràng của Thị
xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lịng khao khát được
sống. Vì q đói, khơng có nơi nương tựa Thị đã phải bước qua
tất cả để theo về làm vợ Tràng. Cận kề bên cái chết, người đàn
bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, Thị vẫn vượt lên trên
cái ảm đạm để xây dựng mái ấm gia đình. Niềm lạc quan, yêu
sống của Thị chính là một phẩm chất đáng quý. Nói như Kim
Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến
những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết mọt
truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề
bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái
chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương
lai”.
Viết về năm đói nhưng Kim Lân lại hướng về con người để làm
rõ phẩm chất tốt đẹp của họ. Trước hết là Tràng. Tràng là người
dân ngụ cư nghèo khổ, có phẩm chất hiền lành, tốt bụng, sẵn
sàng cưu mang người cùng cảnh ngộ nạn đói khủng khiếp. Viết
về nhân vật Tràng, Kim Lân đặt nhân vật vào một tình huống
vừa kì quặc, vừa ối oăm, vừa bi hài nhưng nhà văn đã cảm
thông, chia sẻ cùng nhân vật để cất lên bài ca nhân bản mạnh
mẽ, làm tha thiết lòng người về hạnh phúc đời thường. Con
người dù nghèo khổ đến đâu họ vẫn có quyền ước mơ một gia
đình hạnh phúc. Khơng chỉ Tràng mà Thị cũng là một người đàn

bà năm đói. Người đàn bà ấy vì đói q, khơng có nơi nương
tựa đã phải bước qua tất cả để theo Tràng, về làm vợ. Trong lời
giới thiệu ban đầu ta tưởng Thị là một người chao chat, chỏng


lỏn, khơng cịn biết xấu hổ là gì. Nhưng kì thực, Thị là một số
phận đáng thương. Phía sau hình ảnh “cùng đường và liều
lĩnh”, bạn đọc thực sự xúc động trước vẻ đẹp chiều sâu tâm
hồn của Thị, đó là một người phụ nữ giàu nữ tính, giàu long tự
trọng và có khát vọng sống mãnh liệt. Qua hai lần gặp gỡ của
Tràng, Kim Lân thể hiện niềm cảm thông sâu sắc trước thân
phận bi đát của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm
45. Nhà văn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là khát vọng
sống, đề cao tình thương, tình nghĩa con người trong tận cùng
đau khổ vì đối diện với cái đói, cái chết đang rình rập. Tác giả
gửi gắm niềm tin vào người nơng dân. Chính khát vọng hạnh
phúc gia đình sẽ làm nên sức mạnh để con người hướng về
tương lai.
Có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật phải là cái độc đáo, vì vậy nó
địi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là nét gì
đó rất riêng”. Đoạn trích trên nói riêng và “Vợ nhặt” nói chung
thành công bởi một phần không nhỏ về giá trị nghệ thuật.
Trước hết, đó là nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc
đáo, hấp dẫn, hình tượng nhân vật sâu sắc, dựng cảnh và tả
cảnh sinh động, chân thực. Ngoài ra, cịn có nghệ thuật kể
chuyện linh hoạt, câu văn giàu cảm xúc… tất cả đã khắc họa
thực cảnh thê thảm của nạn đói năm 1945.
“Cái đẹp cứu vớt con người”. Vâng, “Vợ nhặt” của nhà văn
Kim Lân đã thể hiện rõ sức mạnh kỳ diệu ấy. Trên phông nền u
ám của nạn đói, của cái chết, tiếng quạ kêu thê thết, Kim Lân

vẫn pha vào đó một chút sắc màu ấm áp của hạnh phúc lứa đôi,


lóe lên hi vọng về một ngày mai tươi sáng, về sự thay đổi vận
hội. Trong đó, đoạn trích trên là một trong những trích đoạn
hay nhất về hiện thực thê thảm của người nông dân cùng phẩm
chất quý báu của người nông dân nghèo dù trên bờ vực cái chết
vẫn khao khát được sống, sống với đúng nghĩa của từ này. Phải
chăng Kim Lân đang muốn nhắn nhủ tới thế hệ trẻ chúng ta
rằng: “hãy luôn khao khát ước mơ và sống một cuộc đời đúng
nghĩa”.

Đề 3: Tâm trạng bà cụ Tứ trong đoạn trích “Bà lão cúi đầu…rịng
rịng”
Có ai đó đã ví: “Sáng tạo nghệ thuật giống như việc thả diều.
Con diều dù có bay bổng bao nhiêu vẫn phải gắn bó với mặt đất
bằng một sợi dây vững chắc”. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy
nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc
sống. Qủa đúng như vậy, cuộc sống giống như một nghiên mực
mà người nghệ sĩ phải chấm bút vào nếu không văn chương
cũng chỉ là “ánh trăng lừa dối” mà thôi. Điều ấy gợi cho ta liên
tưởng đến nhà văn Kim Lân- cây bút độc đáo của làng quê Việt
Nam và mối lương duyên với đồng ruộng nông thơn. Chính con
người và vùng đất nơi đây đã thổi hồn vào tác phẩm của ông,
đặc biệt là ở “Vợ nhặt”. Tác phẩm không chỉ là bức tranh hiện
thực thê thảm của nạn đói mà cịn diễn tả thật sinh động vẻ
đẹp và sức sống kì diệu của người dân nơi đây.
Kim Lân được mệnh danh là nhà văn “một lòng đi về với đất,
với người, với thuần hậu nguyên thủy”, với những trang viết



đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê. “Vợ nhặt” là truyện
ngắn xuất sắc của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
Tiền thân của truyện ngắn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được
viết ngay sau Cách mạng tháng 8 nhưng còn dang dở và thất lạc
bản thảo. Ngay khi hịa bình lập lại (1954) ơng dựa vào một
phần cốt truyện để viết nên truyện ngắn này. “Vợ nhặt” không
chỉ là bức tranh thê thảm của nạn đói năm 1945 mà điều tác giả
muốn gửi gắm là tình người trong những năm tháng đói khổ và
lay lắt, tối tăm ấy. Truyện ngắn được chia làm bốn phần, đoạn
trích thuộc phần một của truyện.
Việc nhặt được vợ khiến Tràng vừa ngạc nhiên, vừa hạnh
phúc, Tràng không giấu nổi niềm hạnh phúc trên khuôn mặt.
Khi trở về, bà cụ Tứ đã đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên
khác nhưng chỉ sau một câu nói của Tràng “nhà tơi nó về… cái
số” thì tâm trạng bà cụ đã hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự. Đoạn
trích “bà lão cúi đầu..ròng ròng” nằm phần giữa cốt truyện đã
khắc họa xúc động về tấm long bao dung, nhân hậu của người
mẹ nghèo và tình cảnh, thân phận của con người trong những
ngày đói khát cơ cực ấy.
Trước tiên, bà cụ Tứ hiện lên là người “hiểu ra biết bao nhiêu
cơ sự”. Là người phụ nữ từng trải, nên chỉ sau một câu nói của
con trai “bà cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi”. Hai câu văn ngắn
như diễn tả thật rành mạch những cảm xúc trong bà, nhà văn
dường như quan sát từ trạng thái bên ngoài để diễn tả suy nghĩ
bên trong nhưng người đọc thì nhận thấy điều ngược lại. “Bà
lão hiểu rồi”, bà lão hiểu nghịch cảnh, sự trớ trêu trong cảnh


túng đói con mình có được vợ và là “nhặt nhau” vu vơ giữa

đường. Vì hiểu nên bà cúi đầu, trong những mớ tâm trạng ngổn
ngang, buồn tủi và bà cỉ hồn tồn “nín lặng”. Trong câu chuyện
của buổi tối hôm ấy, người mẹ không hề hỏi con về chuyện nên
duyên như thế nào, bà nín lặng bởi bà hiểu cơ sự, một tình
huống nhạy cảm mà nếu khơng tinh tế thì sẽ khiến các con lúng
túng, bị tổn thương. Cách ứng xử của người mẹ thể hiện sự
thấu trải đời, sâu sắc và bao dung.
Khi hiểu ra cơ sự, người mẹ cảm thấy thương con và tủi phận
biết bao. Người mẹ nhạy cảm nhận ra cảnh bi hài của câu
chuyện để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt: “Trong kẽ
mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Lòng bà
ngổn ngang trăm mối, chồng chất bao nỗi niềm suy tư. “Kẽ mắt
kèm nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ
hạnh của người phụ nữ nông thôn lớn tuổi, là biểu hiện của tình
mẫu tử thiêng liêng, tình thương con thắt lịng. Từ “rỉ” miêu tả
giọt nước mắt ít ỏi, khó khăn, dường như bà cụ Tứ đang phải
kìm nén cảm xúc của chính mình, bao nhiêu tủi phận, cay đắng,
xót xa như nghẹn lại. Biết bao nhiêu cơ cực của cuộc đời đã
chất chứa, dồn tụ và ứ nghẹn trong dòng nước mắt ít ỏi, hiếm
hoi ấy. Viết về hình ảnh “giọt nước mắt”, Nguyễn Khuyến trong
bài “Khóc Dương Khuê” cũng có câu:
“Tuổi già như hạt lệ sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”
Hay Nam Cao khi miêu tả nước mắt của Lão Hạc “Những vết
nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra”. Những năm


tháng trải đời với biết bao cay đắng khiến cho họ dù đau đớn
nhưng cũng đã cạn khô nước mắt. Giọt nước mắt ấy thể hiện
sự hờn tủi cho thân phận nghèo khổ, xót thương cho đứa con

của bà cụ Tứ. Bà cụ tủi thân vì cho rằng mình chưa làm tròn bổn
phận người mẹ. Với người phụ nữ Việt Nam thì nào đâu chỉ có
việc mang nặng đẻ đau, ni con trưởng thành mà cịn phải lo
cho con n bề gia thất, cha mẹ nào chưa lo được tấm chồng,
cơ vợ thì chết khơng nhắm mắt được. Với quan niệm truyền
thống ấy, bà cụ Tứ cũng hiện lên đầy tâm sự. Bà thấy tủi thân
mình vì người ta giàu có, có của ăn của để lo được cho con cịn
bà thì có “dăm ba mâm cơm” cũng khơng lo được cho con.
Đằng sau dấm chấm lửng mà Kim Lân cố tình để lại ấy là nỗi
lịng, là nước mắt của người mẹ già tội nghiệp. Rồi bà xót
thương cho “số kiếp đứa con mình” vì bà hiểu rằng con trai bà
khơng được bình thường, khơng được may mắn như con nhà
người ta. Hơn nữa, Tràng lại lấy vợ trong hoàn cảnh đáng
thương nên bà càng thương con hơn. Điều này đã chứng tỏ bà
cụ Tứ là một người mẹ nghèo thương con nhưng trong đó chất
chứa một nỗi tủi hờn, đau đớn.
Từ nỗi lo cho con trai, tấm lòng nhân hậu của người mẹ lại
càng hiểu và thương con dâu nhiều hơn. Trong xã hội phong
kiến xưa, khoảng cách con dâu và mẹ chồng thường là rất lớn,
nhất là khi một người phụ nữ theo không về nhà chồng một
cách dễ dàng như vậy. Nhưng bà cụ Tứ thì khác, bà tỏ ra sâu sắc
với người vợ nhặt của Tràng. Bà coi chuyện Tràng nhặt được vợ
là niềm hạnh phúc, may mắn cho gia đình bà: “Người ta có gặp
bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình. Mà


con mình mới có được vợ”. Vậy là chính tình yêu thương con
người, yêu thương đồng loại và bằng một trái tim nhân ái bà
mẹ nghèo đã vượt qua những định kiến nặng nề trong xã hội cũ
để đạt đến sự cảm thông lớn lao- bà vui mừng chấp nhận cuộc

hơn nhân của Tràng và đón nhận nàng dâu mới. Cũng chính vì lẽ
đó mà nàng dâu mới đã nhận được ở bà sự âu yếm, nhẹ nhàng,
thương cảm. Bà nói với dâu con: “Ừ, thơi thì các con đã phải
duyên, phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Ở đây khơng
phải “bằng lịng” mà là “mừng lịng”. Sự chấp nhận của bà cụ
Tứ khơng có thái độ miễn cưỡng, gượng ép. Cụ mừng lịng bởi
vì con trai đã có vợ- điều mà cụ chưa bao giờ dám nghĩ. Sau đó,
bà căn dặn, an ủi các con: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo
ban nhau làm ăn”. Bà động viên các con bằng triết lí lạc quan
của người lao động: “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó
ba đời? Có ra rồi thì con cái chúng mày về sau”.
Giữa cảnh đói chết, ranh giới giữa sự sống và cái chết rất đỗi
mong manh bà cụ vẫn hướng các con về một ngày mai tươi
sáng. So với cảnh ngộ của bao nhiêu người, cảnh ngộ của bà cụ
Tứ khó khăn, bi thảm hơn nhiều. Vậy mà bà cụ vẫn nguyên vẹn
một niềm tin vào tương lai phía trước. Bà nói nhiều về chuyện
tương lai, chuyện sau này, rồi mong mỏi, hi vọng cơ may “May
ra ông trời cho khá”. Phải chăng, đó chính là cái triết lí sống lạc
quan, yêu đời đã tồn tại hàng nghìn năm qua trong đời sống
dân gian người Việt, nay đã đọng lại và biểu hiện ở một trong
những con người cụ thể là bà cụ Tứ? Chẳng biết rồi đây, cái
triết lí sống ấy của bà cụ Tứ có tiếp tục được duy trì trong hồn
cảnh này hay khơng nhưng có một điều chắc chắn là đối với vợ


chồng Tràng, nó thực sự là một liều thuốc tinh thần vơ giá, nó
động viên, khích lệ, tiếp thêm sức mạnh cho Tràng và Thị trong
cuộc chiến khốc liệt với cái đói và cái chết đang rình rập trong
nhà, ngồi cửa.
Nén lịng để tạo tâm lí thoải mái cũng như sự khởi đầu tốt

đẹp nhất cho hai đứa con nhưng bà lão khơng thể qn đi
những ám ảnh về đói rét, chết chóc. Có thể nói, đây là một nét
tâm lí rất phức tạp và sâu kín của bà cụ Tứ. Khi trở về với cõi
riêng của mình, lịng người mẹ nghèo lại quặn thắt với những
nỗi đau đớn, xót xa. Điều đó được thể hiện rất rõ qua chi tiết:
“Bà lão đăm đăm nhìn ra ngồi. Bóng tối trùm lấy hai con mắt.
Ngồi xa dịng sơng sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối…
Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ
đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình”. Kim Lân đã thấu
suốt vào cái nhìn của bà cụ Tứ để nhận thấy trong đó sắc màu
chủ đạo là màu đen đặc của bóng tối. Cái bóng tối ở đây khơng
chỉ là bóng tối của đêm mà cịn là bóng tối của đói nghèo, cực
khổ đã bao trùm lên tồn bộ cuộc đời bà, là bóng tối của sự
chết chóc, ám ảnh qua nỗi nhớ về người thân đã khuất là chồng
và đứa con gái út. Bóng tối này đã đè nặng lên ánh nhìn, đè
nặng lên tấm lịng của người mẹ nghèo để trong lịng bà tràn
lên một nỗi xót xa cho số phận mình nhưng lớn hơn là sự lo
lắng đến xót xa cho tương lai của các con. Bà nghĩ “Vợ chồng
chúng nó lấy nhau cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước
kia khơng?”. Nhà văn đẫ thật tinh tế khi đặt vào câu văn hai từ
“cuộc đời” chứ khơng phải cuộc sống bởi vì chữ “đời” đẫm
phong vi mưu sinh, bon chen, trải nghiệm nhiều hơn. Sau


những phút trọn vẹn với cảm xúc riêng, khi trở về thực tại bà
khơng cịn nén nổi cảm xúc như trước đó mà những lời nói ra
đã nghẹn ngào trong trước mắt: “Năm nay thì đói to đấy.
Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Những lời nghẹn
ngào, xót xa của bà cụ Tứ đã tạo nên sự xúc động cao độ của
câu chuyện về vẻ đẹp của tình mẫu tử, lớn hơn là tình người.

Tuy nhiên, chính trong lúc đau khổ, bi quan như thế, lòng
người mẹ nghèo càng thương con hơn bao giờ hết. Thương anh
con trai bao nhiêu, bà thương nàng dâu mới bấy nhiêu: “Bà lão
nhìn người đàn bà, lịng đầy thương xót”. Bằng tình thương con
vơ bờ bến, bà khơng nghĩ cho mình, bà cố nuốt nghẹn những
cảm xúc đắng cay, giấu đi những niềm xót xa tủi khổ, bà chỉ
nghĩ đến cuộc đời của các con. Lúc trước, bà thương Thị trong
tư cách của những người phụ nữ gặp phải cái thời khốn khó
trong cuộc đời, ấy là tình thương, sự đồng cảm giữa người với
người. Cịn bây giờ, tình thương của bà là tình thương của
người mẹ chồng dành cho nàng dâu của mình. Đã xem Thị “là
con dâu trong nhà rồi”, bà cụ Tứ dành tình cảm thương yêu, lo
lắng cho Thị như cho Tràng. “Bà cụ nghẹn lời khơng nói được
nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Chi tiết miêu tả bà cụ
Tứ khóc lần hai vẫn xuất hiện trong cuộc gặp gỡ với người con
dâu. Nhà văn dùng từ “rịng rịng” nhấn mạnh cách khóc này
giống như sự giải tỏa, gột rửa những nỗi đau, tủi hận. Tiếng
khóc lúc này để sẻ chia lịng mình, để tìm được sự thông cảm từ
các con. Không nhiều lời giãi bày nhưng người đọc đủ để thấy
tấm lòng bao dung, vị tha nhân hậu của một người mẹ nghèo
khó.


Kim Lân không đi sâu vào những sự gọt giũa của ngôn từ,
cũng không đi sâu xây dựng những nhân vật giàu kịch tính mà
nhà văn đã xây dựng thành cơng hình tượng nhân vật bà cụ Tứ
với nhiều cung bậc cảm xúc: mừng tủi, vui buồn, cay đắng, âu
lo, chan chứa hi vọng… Bà cụ Tứ chính là hình tượng tiêu biểu
cho người nông dân, những con người nghèo khổ nhưng sống
trong tình người, có khát vọng và niềm tin. Với nhân vật cụ Tứ,

nhà văn muốn gửi thông điệp tới mn đời: dù cho cuộc sống
có bi thảm đến đâu thì những con người nghèo khổ vẫn khao
khát vượt lên hoàn cảnh để sống, để làm người và nên người.
Có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật phải là cái độc đáo, vì vậy nó
địi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là nét gì
đó rất riêng”. Đoạn trích trên nói riêng và “Vợ nhặt” nói chung
thành cơng bởi một phần khơng nhỏ về giá trị nghệ thuật.
Trước hết, đó là nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc
đáo, hấp dẫn, hình tượng nhân vật sâu sắc, dựng cảnh và tả
cảnh sinh động, chân thực. Ngồi ra, cịn có nghệ thuật kể
chuyện linh hoạt, câu văn giàu cảm xúc… tất cả đã khắc họa
thực cảnh thê thảm của nạn đói năm 1945.
“Cái đẹp cứu vớt con người”. Vâng, “Vợ nhặt” của nhà văn
Kim Lân đã thể hiện rõ sức mạnh kỳ diệu ấy. Trên phông nền u
ám của nạn đói, của cái chết, tiếng quạ kêu thê thết, Kim Lân
vẫn pha vào đó một chút sắc màu ấm áp của hạnh phúc lứa đơi,
lóe lên hi vọng về một ngày mai tươi sáng, về sự thay đổi vận
hội. Trong đó, đoạn trích trên là một trong những trích đoạn
hay nhất về hiện thực thê thảm của người nông dân cùng phẩm


chất quý báu của người nông dân nghèo dù trên bờ vực cái chết
vẫn khao khát được sống, sống với đúng nghĩa của từ này. Phải
chăng Kim Lân đang muốn nhắn nhủ tới thế hệ trẻ chúng ta
rằng: “hãy luôn khao khát ước mơ và sống một cuộc đời đúng
nghĩa”.

Đề 4: “Sáng hôm sau… căn nhà” (Tâm trạng Tràng vào buổi sáng
hơm sau)
Có ai đó đã ví: “Sáng tạo nghệ thuật giống như việc thả diều.

Con diều dù có bay bổng bao nhiêu vẫn phải gắn bó với mặt đất
bằng một sợi dây vững chắc”. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy
nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc
sống. Qủa đúng như vậy, cuộc sống giống như một nghiên mực
mà người nghệ sĩ phải chấm bút vào nếu không văn chương
cũng chỉ là “ánh trăng lừa dối” mà thôi. Điều ấy gợi cho ta liên
tưởng đến nhà văn Kim Lân- cây bút độc đáo của làng quê Việt
Nam và mối lương duyên với đồng ruộng nơng thơn. Chính con
người và vùng đất nơi đây đã thổi hồn vào tác phẩm của ông,
đặc biệt là ở “Vợ nhặt”. Tác phẩm không chỉ là bức tranh hiện
thực thê thảm của nạn đói mà cịn diễn tả thật sinh động vẻ
đẹp và sức sống kì diệu của người dân nơi đây.
Kim Lân được mệnh danh là nhà văn “một lòng đi về với đất,
với người, với thuần hậu nguyên thủy”, với những trang viết
đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê. “Vợ nhặt” là truyện
ngắn xuất sắc của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
Tiền thân của truyện ngắn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được


viết ngay sau Cách mạng tháng 8 nhưng còn dang dở và thất lạc
bản thảo. Ngay khi hịa bình lập lại (1954) ông dựa vào một
phần cốt truyện để viết nên truyện ngắn này. “Vợ nhặt” không
chỉ là bức tranh thê thảm của nạn đói năm 1945 mà điều tác giả
muốn gửi gắm là tình người trong những năm tháng đói khổ và
lay lắt, tối tăm ấy. Truyện ngắn được chia làm bốn phần, đoạn
trích thuộc phần một của truyện.
Nhân vật Tràng trong truyện ngắn được miêu tả là một gã trai
nghèo khổ, nghèo đến tột cùng cái nghèo đấy được thể hiện
qua “chiếc áo nâu tang”, ngơi nhà thì “vắng teo đứng rúm ró
bên mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại” và Tràng chỉ

là một gã kéo xe bò thuê, đến cái tên của hắn cũng thể hiện
một sự thơ kệch nghèo khổ. Ngịi bút của Kim Lân đã khắc họa
nhân hình của Tràng một cách sống động: “hai mắt nhỏ tí, gà gà
đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra”, bộ mặt thô
kệch, thân hình to lớn, cái đầu thì trọc lốc… Dưới ngịi bút của
Kim Lân hắn chỉ như một bức chân dung vẽ vội, một hình hài
được tạo hóa đẽo gọt q mức sơ sài, cẩu thả. Khơng chỉ xấu xí
mà cái nghèo khổ cịn khiến cho hắn bị dở tính, có tật “vừa đi
vừa nói”, hắn hay “lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”,
thỉnh thoảng còn “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”. Tưởng
chừng như Tràng khơng thể có vợ nhưng trong một lần anh kéo
xe thóc lên tỉnh, một người phụ nữ đã theo anh về nhà và họ đã
trở thành vợ chồng- anh “nhặt” được vợ một cách dễ dàng chỉ
với vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Từ khi có vợ, Tràng đã
thay đổi về tâm tính. Ta thấy rõ điều đó qua đoạn trích buổi
sáng hôm sau khi Tràng tỉnh dậy.


×