Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
ĐỘC CHẤT HỌC THÚ Y
Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản về độc chất học
Câu 1. Các yếu tố thuộc về chất độc,độc tố,độc lực
a. Khái niệm chất độc
Chất độc là những chất vô cơ hay hữu cơ có nguồn gốc thiên nhiên hay do tổng
hợp, khi nhiễm vào cơ thể và đạt đến nồng độ nhất định có thể gây hiệu quả dộc hại
cho cơ thể sống.
chất độc là độc tố (toxin) được dùng để chỉ các chất độc được sản sinh (có nguồn
gốc) từ các quá trình sinh học của cơ thể và được gọi là độc tố sinh học (biotoxin)
Trong quá trình nghiên cứu về chất độc cần lưu ý một số điểm sau:
-Chất độc là một khái niệm mang tính định lượng. Mọi chất đều độc ở một liều nào
đó và cũng vô hại với liều rất thấp. Giới hạn giữa 2 liều đó là phạm vi các tác dụng
sinh học. Sắt, đồng, magne, kẽm là những nguyên tố vi lượng cần thiết trong thành
phần thức ăn chăn nuôi, nhưng nếu quá liều thì có thể gây ngộ độc.
-Về mặt sinh học, một chất có thể độc với loài này nhưng lại không độc với loài
khác. Carbon tetraclorid gây độc mạnh cho gan trên nhiều loài, nhưng ít hại hơn
đối với gà. Một số loài thỏ có thể ăn lá cà độcdược có chứa belladon.
-Một chất có thể không độc khi dùng một mình, nhưng lại rất độc khi dùng phối hợp
với chất khác. Piperonyl butoxid rất ít độc với loài có vú và côn trùng khi dùng một
mình, nhưng có thể làm tăng độc tính rất mạnh của các chất dùng cùng do nó có
tác dụng ức chế các enzym chuyển hoá chất lạ của cơ thể.
-Độc tính của một chất độc có thể thay đổi khi xâm nhập vào cơ thể qua các đường
khác nhau như: qua đường uống, đường hô hấp, qua da, qua đường tiêm
b. Khái niệm độc tính và độc lực
-Khái niệm độc tính:được dùng để miêu tả tính chất gây độc của chất độc đối với cơ
thể sống.
-Khái niệm độc lực:là lượng chất độc trong những điều kiện nhất định gây ảnh
hưởng độc hại hoặc những biến đổi sinh học có hại cho cơ thể
c. Các nguồn chấtđộc
Con người và động vật có thể bị ngộ độc bởi rất nhiều chất độc đến từ nhiều nguồn
trong cuộc sống.
* Các chất gây ô nhiễm không khí, nước và thực phẩm
-Bản chất các chất gây ô nhiễm không khí, nước, thực phẩm và nguồn gây ô nhiễm
thường liên quan đến vùng địa dư.
-Nguồn chính gây ô nhiễm không khí là do các phương tiện giao thông, các quá
trình công nghiệp, các loại nhà máy điện. Các chất gây ô nhiễm không khí thường
gặp là: CO, các oxit nitơ, các oxit lưu huỳnh, các hydro carbon.
-Nước thường bị ô nhiễm bởi các hoá chất, các chất hữu cơ từ cống rãnh, từ nước
thải của các nhà máy, từ ruộng đồng có dùng hoá chất bảo vệ thực vật
-Các chất gây ô nhiễm lương thực thực phẩm, thức ăn chăn nuôi có thể tồn tại
trong thực phẩm ở dạng thô, dạng đã nấu chín hoặc đã qua chế biến. Có nhiều loại
độc: độc tố của vi khuẩn (như ngoại độc tố của Clostridium botulinum), độc tố
1
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
của nấm (aflatoxin của aspergilus), độc tố của động vật, alcaloid của cây, các tồn
dư của thuốc trừ sâu
* Các chất phụ gia trong thực phẩm, thức ăn chăn nuôi
Các chất phụ gia được cho vào thực phẩm, thức ăn chăn nuôi với nhiều lý do khác
nhau: để bảo quản (kháng khuẩn, kháng nấm hoặc chống oxy hoá); để thay đổi tính
chất vật lý, nhất là trong quá trình chế biến; để thay đổi hương vị, thay đổi màu
hoặc mùi. Nói chung, các chất này đều an toàn và không có độc tính trường diễn.
Tuy nhiên, hiện nay đã có tới hàng trăm, thậm trí hàng nghìn chất phụ gia được sử
dụng trên toàn thế giới, và rất nhiều chất trong số đó còn chưa có các biện pháp
thíchhợp để phát hiện và đánh giá. Ngoài ra còn chưa biết được các tác dụng
tương hỗ (tương tác) giữa những chất này hoặc giữa chúng với thực phẩm, thức
ăn chăn nuôi.
* Các hoá chất trong công nghiệp và các dung môi
- Các chất vô cơ: các kim loại chì, đồng, thuỷ ngân, kẽm, cadmi, khí carbon
monoxyd, fluoride.
-Các chất hữu cơ: Hydrocarbon mạch thẳng (hexan) hydrocarbon mạch vòng
(benzen, toluen, xylen), hydro carbon gắn halogen (dicloromethan,
tricloroethylen), cồn (methanol, ethylenglycol), các dẫn xuất nitro
(nitrobenzen).Các dung môi thường gặp ở môi trường công nghiệp, trong nghiên
cứu và trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài tác dụng tại chỗ trên da (tẩy mỡ, kích
ứng), nhiều chất gây dộc toàn thân (hệ thần kinh trung ương, tạo máu).
* Hóa chất bảo vệ thực vật
Hóa chất bảo vệ thực vật bao gồm thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ bệnh Các
chất này tuy có độc tính chọn lọc trên cỏ hoặc côn trùng nhưng khi sử dụng vẫn gây
ô nhiễm không khí, đất, nước và từ đó có thể gây độc cho người và súc vật.
* Thuốc thú y dùng điều trị gia súc gia cầm
Thuốc thú y, nhất là các thuốc có độc tính cao nếu dùng không đúng, quá liều,
không đúng chỉ định, sự tương tác giữa các thuốc khi dùng phối hợp… có thể gây
ngộ độc thuốc thú y ở vật nuôi.
d. Sự vận chuyển của chất độc trong môi trường
Các chất hoá học như hoá chất bảo vệ thực vật, các khí thải công nghiệp được giải
phóng ra môi trường hiếm khi được lưu lại tại chỗ hoặc giữ nguyên dạng. Nhiều
hoá chất sau đó bị phân giải bởi vi khuẩn và nấm rồi nhanh chóng bị khử độc,
thường bị cắt vụn thành hợp chất có thể nhập vào chu trình carbon, nitơ và oxy.
Các chất khác đặc biệt là hữu cơ chứa halogen, là những chất ít nhiều không bị
chuyển hoá bởi vi khuẩn và tồn tại trong đất như chất ô nhiễm, lại nhập vào các
cây lương thực -thực phẩm ví dụ DDT và chất chuyển hoá chính của nó DDE có
thể tồn tại nhiều năm sau khi đã ngừng phun DDT.
-Các chất độc dễ tan trong mỡ sẽ dễ bị cơ thể hấp thu khi phơi nhiễm trong không
khí, đất, nước và dần dần được tích luỹ cho đến khi đạt nồng độ gây độc.
Sự tích lũy hóa chất bảo vệ thực vật trong chuỗi sinh học thực phẩm được thể hiện
như sau:
* Hóa chất bảo vệ thực vậttích lũy trong đất:
2
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
Động vật không xương sống ở đất không xương sống ăn mồi
Động vật có xương sống ở đất chim/loài có vú ăn mồi
Dư phẩm trong đất
Cây mọc từ đất => Động vật ăn cỏ => người
* Hóa chất bảo vệ thực vật tích lũy trong nước:
Dư phẩm trong nước => sinh vật nổi => rận nước và lớp giáp xác => cá =>chim ăn
cá, người và động vật.
2. Cácđường xâm nhập của chất độc xâm nhập vào cơ thể
Cách chất độc xâm nhập vào cơ thể gọi là đường phơi nhiễm hay đường hấp thu
chất độc. Chất độc có thể xâm nhập vào cơ thể qua 3 đường cơ bản: qua da, qua
đường tiêu hoá và qua đường hô hấp. Đây là những đường hấp thu tự nhiên
khi cơ thể tiếp xúc với môi trường. Súc vật có thể bị ngộ độc thuốc thú y theo các
đường khác như tiêm, thụt trực tràng.
* Chất độc xâm nhập qua da
Da là một mô phức tạp, nhiều lớp, chiếm khoảng 10% trọng lượng cơ thể. Da hầu
như không thấm với phần lớn các ion và dung dịch nước, tuy nhiên lại thấm với
nhiều chất độc ở pha rắn, lỏng hoặc khí.
Tuỳ theo từng vùng, lớp biểu bì có độ dầy khác nhau. Chỗ dầy thì nhiều keratin hơn,
lớp này tạo nên hàng rào của biểu bì, nhưng đồng thời cũng là nơi dự trữ chất độc.
Một số dung môi hữu cơ gây tổn hại lớp lipid (aceton, methanol,ether) sẽ làm tăng
tính thấm của da.
Các chất không gây tổn hại lớp lipid (ether có chuỗi dài, dầu olive) làm giảm tính
thấm. Da cũng chứa các enzym chuyển hoá thuốc, chất độc. Hoạt tính chuyển hoá
của toàn bộ da bằng khoảng 2 -6% của gan.
Khi da bị trầy sước, tổn thương hay viêm thì tốc độ hấp thu chất độc tăng lên.
Chất độc có thể xâm nhập nhanh hơn qua lỗ chân lông
* Chất độc xâmnhập qua đường tiêu hoá
Là đường chủ yếu hấp thu các chất độc với một số đặc điểm sau:
-Có thể hấp thu một lượng lớn chất độc
-Bị chuyển hoá một phần khi qua gan lần thứ nhất.
-Có pH thay đổi từ acid (1 -3 ở dạ dày ), tăng dần tới kiềm (6 -8 ở ruột) nên hấp thu
các chất độc có pKa khác nhau.
-Có quá trình vận chuyển tích cực dễ hấp thu, nhất là khi chất độc có cấu trúc giống
với chất dinh dưỡng của cơ thể.
* Chất độc xâm nhập qua đường hô hấp
Sự hấp thu qua đường hô hấp có 2 đặc điểm quan trọng:
(1) Niêm mạc hấp thu có diện tích rất rộng (ở người là 80 -100 m2) bằng khoảng
50 lần diện tích da.
(2) Khoảng cách giữa diện hấp thu với tuần hoàn chỉ dầy 1 -2 mm, vì vậy khí độc có
thể vào tuần hoàn sau vài giây.
Về sự xâm nhập các chất độc qua đường hô hấp, cần lưu ý một số đặc điểm sau:
3
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
-Trong chu kỳ hô hấp, luôn có một thể tích khí tồn lưu lại trong phổi, vì vậy các khí
độc chậm thải trừ và sẽ dễ bị hấp thu trở lại.
Các hạt có đường kính > 5 mm thườnglắng đọng trong vùng mũi họng. Các hạt < 2
mm lắng đọng trong các nhánh khí phế quản, ở đó, các niêm mao niêm dịch sẽ đẩy
chúng ra với tốc độ 1 mm/phút và thời gian bán thải < 5 giờ. Các hạt bụi <10
-6
có
thể vào tận phế nang
.
Khoảng 80% thanh thải của phổi là qua đường này. Khi tới
thanh môn các bụi thải sẽ được nuốt vào đường tiêu hoá hoặc ho, khạc đẩy ra
ngoài. Ngoài ra, hiện tượng thực bào trên đường hô hấp cũng đóng vai trò rất tích
cực trong việc thanh thải các chất độc.
Các chất khí sẽ qua phế nang vào máu, chất nào có độ hoà tan cao sẽ được hấp thu
nhiều thời gian để đạt được độ thăng bằng khí: máu ở phế nang thường > 10 phút
đối với các khí ít tan. Các khí độc càng dễ tan thì thời gian đạt được cân bằng càng
dài, có khi tới 1 giờ.Chưa thấy có sự vận chuyển tích cực ở đường hô hấp, tuy
nhiên, thẩm bảo (pinocytosis) có thể có vai trò quan trọng.
Câu 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển hoá chất độc
-Bệnh gan: gan là cơ quan chuyển hóa quan trọng nhất của cơ thể. Các bệnh làm
giảm quá trình chuyển hóa sinh học ở gan là xơ gan, nhiễm độc gan và ứ mật
- Sự tái sinh các mô gan đã bị tổn thươnglàm tăng quá trình chuyển hóa sinh học.
-Tuổi súc vật: súc vật sơ sinh và súc vật già có thể thiếu enzym cần thiết cho quá
trình chuyển hóa sinh học.
-Thiếu chất dinh dưỡngdẫn đến thiếu các chất hóa học cần thiết cho quá trình tổng
hợp các enzym hay các chất liên hợp. ví dụ: thiếu chất khoáng như canxi, đồng, sắt,
magie, kẽm, các vitamin E, C, B và các protein.
-Tính biệt có thể ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa sinh học. ở con đực, hoạt lực
của MFO thường cao hơn, liên quan đến steroid nội sinh như testosterol.
-Đường phơi nhiễm với chất độccó thể có ảnh hưởng đến tác dụng gây độc. Chất
độc nhiễm qua đường miệng sẽ qua gan trước khi vào hệ cơ quan kháclàm tăng
khả năng chuyển hóa sinh học.
-Nhiệt độ cơ thể giảm làm giảm hoạt tính của các enzym microsom.
- Chất gây cảm ứng enzym chuyển hoá: có tác dụng làm tăng sinh các enzym
ở microsom gan, làm tăng hoạt tính các enzym này.
1.4. Sự đào thải chất độc
Chất độc thường được thải trừ khi đã qua chuyển hoá.
a. Đào thải chất độc qua thận
Đây là đường thải trừ quan trọng nhất của các chất tan trong nước, có
trọng lượng phân tử nhỏ hơn 300.
* Quá trình thải trừ
Lọc thụ động qua cầu thận: hoạt chất dạng tự do, không gắn vào protein huyết
tương được lọc ở đây.
Bài tiết tích cực qua ống thận: quá trình này xảy ra chủ yếu ở ống lượn gần, do
phải có
chất vận chuyển nên tại đây có sự canh tranh để thải trừ.
Tái hấp thu ở ống thận: là quá trinh khuếch tán thụ động qua ống thận, quá trình
này xảy ra ở ống lượn gần và ống lượn xa. Các chất tan trong lipid, không bị ion
4
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
hóa ở pH nước tiểu tuy đã thải trừ trong nước tiểu ban đầu lại được tái hấp thu
vào máu.
* ý nghĩa lâm sàng
Làm tăng thải trừ để điều trị nhiễm độc: kiềm hoá nước tiểu, làm tăng độ ion hoá
của phenobarbital, tăng thải trừ khi bị nhiễm độc phenobarbital.
b. Đào thải chất độc qua mật
Saukhi chuyển hoá ở gan, các chất chuyển hoá có trọng lượng phân tử lớn hơn 300
sẽ thải trừ qua mật để theo phân ra ngoài. Phần lớn sau khi bị chuyển hoá thêm ở
ruột sẽ được tái hấp thu vào máu để thải trừ qua thận.
Một số chất sau khi thải trừ qua mật xuống ruột lại được tái hấp thu về gan theo
đường tĩnh mạch gánh để lại vào vòng tuần hoàn, được gọi là chất có chu kỳ ruột
-gan. Những chất này tích luỹ trong cơ thể, làm kéo dài tác dụng (morphin,
tetracylin, digitalis trợ tim ).
c. Đào thải chất độc qua phổi
Các chất độc thể hơi, có tính chất bay hơi thải trừ qua phổi, bao gồm: (1) Các chất
bay hơi như rượu, tinh dầu (eucalyptol, menthol). (2)Các chất khí: halothan. Ether
etylic.
d. Đào thải chất độc qua sữa
Các chất tan mạnh trong lipid (các alcaloid, barbiturat, các chất chống viêm
phi steroid, tetracycilin ), có trọng lượng phân tử dưới 200 thường dễ dàng thải
trừ qua sữa.Vì sữa có pH hơi acid hơn huyết tương nên các chất là acid yếu có nồng
độ thấp hơn và các chất là base yếu có thể nồng độ trong sữahơi cao hơn huyết
tương.
3.3. ảnh hưởng độc hại của chất độc
Trong các ảnh hưởng độc hại của chất độc có thể nói đến:
- ảnh hưởng tại chỗ và ảnh hưởng toàn thân:
• Tác dụng tại chỗ là độc tính xảy ra ngay tại nơi tiếp xúc với chất độc: các chất ăn
mòn gây tổn thương đường tiêu hoá khi uống.
• Tác dụng toàn thân xẩy ra sau khi chất độc đã được hấp thu vào tuần hoàn sẽ gây
tổn thương cho hệ thần kinh trung ương. Phần lớn các chất độc hệ thống sẽ chỉ
gây độc cho một vài cơ quan đích và cơ quan đích chưa hẳn đã là nơi tích luỹ
nhiều chất độc nhất: DDT tích luỹ rất nhiều ở mô mỡ, nhưng không gây một tác
dụng độc nào ở đó cả. Theo thứ tự, tác dụng độc thường xẩy ra ở hệ thống thần
kinh trung ương, máu, hệ tạo máu, gan, thận, phổi.
- ảnh hưởng hiệp đồng xẩy ra khi hiệu quả kết hợp 2 hoặc nhiều chất độc lớn hơn
nhiều so với từng hiệu quả riêng lẻ. Tác dụng này xảy ra nếu một chấthóa học
ảnhhưởng đến độ hòa tan, khả năng liên kết, chuyển hóa hay quá trình thải trừ của
một chất khác.
- ảnh hưởng tăng tiềm lựcxẩy ra khi một chất làm tăng độc tính của một chất
khác, thậm chí chất tăng độc lực chỉ có độc lực rất thấp hoặc không độc.
- ảnh hưởng đối khángxẩy ra khi 2 chất kết hợp làm ảnh hưởng đến tác dụng của
nhau. ảnh hưởng đối kháng có thể: (1) Là một phản ứng sinh lý, như tác dụng của
5
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
epinephrin đối kháng với tác dụng làm giảm huyết áp của phenobarbital. (2) Là
một quá trình chuyển
hóa, ví dụ cồn ethyl cạnh tranh với ethylene glycol trong chất chống đông, cản trở
quá trình hoạt hóa các sản phẩm chuyển hóa độc. (3) Mang tính chất hóa
học, như chất càng cua (EDTA)tạo chelat bền với chì, làm giảm độc tính của chì.
Chất độc xâm nhập vào cơ thể qua các đường nhau, sau một thời gian ngắn đều
được phân bố vào toàn cơ thể. Tùy theo tính chất lý hóa và điều kiện xâm nhập vào
cơ thể, chất độc có thể tồn lưu ở một số bộ phận. Chất độc tác dụng ngay vào các tế
bào sống và làm rối loạn hoạt động của chúng.
a. ảnh hưởng đến hệ thần kinh
Phần lớn các chất độc đều ít nhiều tác dụng lên hệ thần kinh gâyrối loạn chức năng
vận động, cảm giác.Các loại thuốc mê như cloroform tác dụng lên não và tủy sống
làm mất phản xạ, cuối cùng tác dụng lên hành tủy gây ngừng thở. Nhiều trường
hợp gây hôn mê như thuốc ngủ, thuốc phiện, rượu etynic.
• Các chất thuộc nhóm amphetamin, long não, atropin và thế phẩm, clo hữu cơ gây
kích thích, vật vã. Strychnin và mã tiền gây co cứng (kích thích tủy sống quá mức).
• Các chất gây rối loạn cảm giác như Streptomycin, quinin, salicylat gây chóng mặt,
Santonin, quinacrin làm hoa mắt, Streptomycin, kanamycin, neomycin gây điếc.
Một số chất tác dụng lên hệ giao cảm, gây giãn đồng tử mắt như adrenalin,
ephedrin, atropin, nicotin. Ngược lại một số chất như eserin, acetylcolin,
prostigmin làm co đồng tử mắt.
b. ảnh hưởng đến bộ máy tiêu hóa
Các chất độc khi xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa thường gây nôn mửa, đó
là phản ứng đầu tiên của cơ thể (ngộ độc thủy ngân, thuốc phiện, photpho
hữu cơ…); nhưng cũng do tác dụng của chất độc trên hệ thần kinh làm co bóp
mạnh cơ hoành.Các chất độc như photpho hữu cơ, nấm và một số kim loại như chì,
thủy ngân, bitmut có thể gây tiết nước bọt nhiều; ngược lại atropin làm khô miệng;
axit, kiềm kích thích đường tiêu hóa như; thuốc chống đông máu, dẫn xuất salicylat
gây chẩy máu đường tiêu hóa.
c. ảnh hưởng đến gan
Gan là một cơ quan nằm ở ngã tư đường tiêu hóa. Từ tĩnh mạch cửa, gan nhận tất
cả các chất do chuyển hóa thức ăn cung cấp và các chất độc. Mặt khác, các chất
chứa trong máu qua hệ thống đại tuần hoàn đều các tác dụng đến gan. Hầu như
trường hợp ngộ độc nào cũng có tổn thương ở gan. Rượu làm xơ hóa gan, thoái
hóa mỡ trong ngộ độc photpho, asen; vàng da trong ngộ độc AsH3.
d. ảnh hưởng đến tim mạch
Các chất trợ tim dùng quá liều đều gây độc. Cafein, adrenalin, amphetamin làm
tăng nhịp tim. Digitalin, eserin, photpho hữu cơ làm giảm nhịp tim. Đặc biệt
trongngộ độc gan cóc và nhựa da cóc mạch không đều; trong ngộ độc quinidin,
imipramin có thể gây ngừng tim.
Một số chất ảnh hưởng đến sự co giãn mạch. Acetylcolin làm giãn mạch,
cựa lõa mạch làm co mạch máu.
e. ảnh hưởng đến máu
6
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
Các thành phần huyết tương, hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu trong máu đều có thể
bị thay đổi dưới tác dụng của chất độc:
(1) Huyết tương: Các thuốc mê (cloroform, ete) là giảm pH, hạ thấp dự trữ kiềm và
tăng kali của huyết tương. Nọc rắn Viperide làm tăng khả năng đông máu, ngược
lại loại Colubride làm mất khả năng đó.
(2) Hồng cầu: Số lượng hồng cầu trong một cmtăng lên trong trường hợp ngộ độc
gây phù phổi (clo, photgen, cloropicrin) do huyết tương thoát ra nhiều nên máu bị
đặc lại. Hồng cầu bị phá hủy khi bị ngộ độc chì, nhiễm tia X, benzen hoặc các dẫn
xuất của amin thơm. Khi oxit các bon liên kết với hemoglobin tạo ra
cacboxyhemoglobin làm mất khả năng vận chuyển oxy nên cơ thể bị ngạt. Các dẫn
xuất nitro thơm, anilin, nitrit oxy hóa sắt II, chuyển hemoglobin thành
methemoglobin làm ngừng khả năng vận chuyển oxy.
(3) Bạch cầu:Số lượng bạch cầu giảm trong ngộ độc benzen, gây thiếu máu. Ngược
lại trong ngộ độc kim loại nặng bạch cầu tăng.
(4) Tiểu cầu: Số lượng tiểu cầu có thể hạ xuống còn vài chục nghìn trong ngộ độc
benzen. Mặt khác dưới tác dụng của chất độc một số thành phần mới xuất hiện: Ví
dụ trong ngộ độc chì xuất hiện chất copropocphirin; trong ngộ độc axit mạnh
xuất hiện hematopocphirin. Có thể dựa vào những chất này để chẩn đoán ngộ độc.
f. ảnh hưởng đến bộ máy hô hấp
Các chất độc xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp có thể gây: (1) Tại chỗ như ho,
kèm theo chảy nước mũi, nước bọt. Ví dụ: các hơi độc, hơi ngạt. (2) Tác dụng toàn
thân như khí CO gây tím tái.
Chất độc ức chế hô hấp gây ngạt thở tiến tới ngừng thở như thuốc phiện, cyanic,
thuốc ngủ. Một số chất có thể gây phù phổi như: hydrosulphit, photpho hữu cơ.
g. ảnh hưởng đến thận
Chất độc có thể tác động lên các chức phận của thận. Thủy ngân, chì, cadimi làm
tăng ure và albumin trong nước tiểu. Axit oxalic, thuốc chống đông máu, cantharit
gây đái ra máu. Các dung môi hữu cơ có clo gây viêm thận. Nhiều chất gây
vô niệu như thủy ngân, sulphamid, mật cá trắm.
Nước tiểu là một loại mẫu thử quan trọng trong kiểm nghiệm độc chất.
Câu 4. các yếu tố ảnh hưởng đến tác dụng của chất độc
Để có tác dụng gây độc, các chất độc hoặc các sản phẩm chuyển hóa của chúng
phải đạt được nồng độ đủ cao trong khoảng thời gian nhất định trong cơ thể (tùy
loại chất độc).Các yếu tố khi tương tác với nhau có thể làm thay đổi đáp ứng của cơ
thể đối với chất độc, ảnh hưởng đến đáp ứng liều lượng và chẩn đoán ngộ độc. Mặc
dù từng yếu tố không gây ảnh hưởng lớn, nhưng nếu nhiều yếu tố cùng tác động thì
ảnh hưởng của chúng sẽ trở nên có ý nghĩa.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tác dụng của chất độc bao gồm:
-Các yếu tố thuộc về chất độc: thường có ảnh hưởng đến quá trình tương tác của
chất độc với thụ thể hoặc màng tế bào.
-Các yếu tố trong động vật chủ: thường làm thay đổi mức độ gây độc,giải độc hoặc
sự thích ứng của cơ thể với chất độc.
-Các yếu tố trong môi trường có ảnh hưởng đến chất độc hoặc động vật chủ.
4.1. Các yếu tố thuộc về chất độc
7
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
a. Bản chất vật lý và hoá học của chất độc
Bản chất vật lý và cấu tạo hoá học của chất độc có ảnh hưởng đến tác dụng
gây độc của chất đó. Ví dụ: Phospho vàng là rất độc còn phospho đỏ lại có tỷ lệ nhất
định nào đó trong cơ thể.
Độc tính của các hợp chất hữu cơ là do các cấu trúc đặc hiệu. Thay đổi các nhóm
chức làm thay đổi tính độc. Ví dụ: thay nhóm metyl ở C9của dimidium bromid bằng
1 nhóm ethyl thành ethyldium bromid sẽ gây độc gan.
* Độ tinh khiếtcủa một chất có thể làm thay đổi độc tính của chất đó.
* Sự biến đổi các phân tử hoạt động cơ bảnlàm thay đổi các tính chất hóa học và
đáp ứng của thụ thể. Ví dụ như sự trao đổi các anion tạo thành các muối khác nhau
(sulfat đồng thành oxít đồng)và tạo chelat với các kim loại nhằm tăng cường hấp
phụ các chất độc kim loại nặng.
* Sự không ổn định của chất độc do điều kiện sử dụngcó thể ảnh hưởng đến độc
tính.
* Độ hòa tan, tính phân cực và sự ion hóa
Chất độc là chất lỏng hoặc hòa tan trong dung môi tác dụng nhanh và mạnh hơn
những chất ở thể rắn. Những chất không hòa tan trong nước, cồn, dầu, mỡ thì
không hấp thu vào cơ thể.
-Các chấtđộc tan mạnh trong lipid dễ hấp thu qua lớp lipoprotein màng tế bào hơn
là các chất không có đặc tính này.
-Các chất không phân cực có trọng lượng phân tử thấp dễ hấp thu qua màng tế bào
hơn các phân tử phức hợp có trọng lượng phân tử cao.
-Các chất chứa các nhóm ion hóa ở điều kiện pH sinh lý tan nhiều trong nước hơn
và khó hấp thu qua màng tế bào. Gồm các amin, carboxyl, phosphat và sulfat.
-Sự liên kết của chất độc với protein (ví dụ albumin)làm giảm độc tính của chất độc
thông qua việc hạn chế sự hấp thu qua màng tế bào. Liên kết chất độc-protein còn
làm chậm quá trình đào thải do khả năng lọc qua tiểu cầu thận của chất độc bị
giảm.
b. ảnh hưởng của tá dược
Dung môi hòa tan chất độc là môi trường để pha loãng và vận chuyển một chất hóa
học hay thuốc, gồm nước, propylene glycol, dung môi hữu cơ, các loại gôm hoặc keo
tổng hợp hoặc tự nhiên. Chất độc hòa tan trong nước tác dụng mạnh hơn trong
dầu mỡ, trong cồn mạnh hơn cả trong các loại dung môi nói trên.
-Tá dược lỏng không phân cực và tan trong mỡ có thể vận chuyển các chất độc hóa
học qua hầu hết các màng tế bào sinh học.
-Các thành phần hoạt chất trong dạng huyền phù (thể vẩn)hoặc nhũ tương có độc
tính hơn là nếu chúng hòa tan trong tá dược lỏng.
-Tá dược (đôi khi là các thành phần khí trơ)có thể gây độc, ví dụ súc vật bị ngộ độc
bởi chất vận tải hydrocarbon trong thuốc trừ sâu. Việc sử dụng những chất vận tải
chưa được kiểm nghiệm (chẳng hạn như kerosence)sẽ gây ngộ độc.
-Sự hình thành các bột hút ẩm, huyền phù và nhũ tương ảnh hưởng đếntốc độ đọng
(duy trì)các chất độc trên lông và da súc vật và tốc độ hấp thu các chất này qua
đường tiêu hóa.
8
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
Ví dụ: thuốc bảo vệ thực vật gây ngộ độc do có thể đọng lại trên lông và da động vật
gây tích lũy một lượng thuốc vượt quá giới hạn cho phép.
-Thuốc bột hay nhũ tương không được trộn đều trong quá trình bào chế làm thay
đổi nồng độ hoạt chất trong hỗn hợp thuốc. Một phần trong hỗn hợp thuốc có nồng
độ hoạt chất cao, phần còn lại nồng độ hoạt chất lại thấp.
c. Tương tác hóa học trực tiếp
Các hóa chất khi dùng phối hợp trực tiếp có thể tạo dạng kết tủa không tan, làm
giảm hoặc độc tính hoặc tác dụng. Những tương tác làm thay đổi thành phần hóa
học có thể làm thay đổi độc tính sẵn có của chất độc đó
-Sự thay đổi các anion trong muối đồng (vídụ như sulfat đồng thành oxyd đồng)có
thể thay đổi độc tính của đồng
- Sự thủy phân các nhóm este của các hợp chất hữu cơ, ví dụ như thuốc trừ
sâu organophosphat có thể làm giảm độc tính.
d. Liều lượng chất độc
Tác dụng của chất độc lên cơ thể phụ thuộc vào liều lượng của chúng. Liều lượng
này
có thể là: (1) Liều điều trị: lượng chất độc dùng điều trị bệnh;
(2) Liều gây độc: gây những trạng thái bệnh lý;
(3) Liều chết: gây chết động vật.
Câu 5. Các yếu tố thuộc về cơ thể
1. Loài động vật
Chất độc có thể độc với này mà không độc với loài vật khác Ví dụ morphin ít độc
đối với gia súc hơn với con người. Gia cầm kháng với nhiều chất độc hơn là gia súc.
Ví dụ thuốc trừ sâu DDT có thể gây độc qua tiếp xúc với da, đặc biệt lớp kitin của
côn trùng. Đối với gia súc ít độc hơn vì ít hấp thu qua da. Hấp thu chất độc qua
đường niêm mạc tiêu hoá ở chó rất nhanh, chỉ cần 1 lượng nhỏ đã gây triệu chứng
ngộ độc
Ví dụ: Morphin gây yên tĩnh thần kinh ở người và chó nhưng lại gây kích thích đối
với mèo và các loại gia súc khác.
Súc vật có hệ thần kinh càng phát triển thì càng mẫn cảm hơn với một số chất độc.
-Gia súc có sừng rất mẫn cảm với tetracyclin, chloroform và kim loại nặng đặc biệt
là thủy ngân.
-Ngựa mẫn cảm với độc tố nấm đặc biệt là stachybotrys alternans và
dendrodochium toxicum và stibium kalium tartaricum.
-Gia cầm mẫn cảm hơn với muối ăn, cyanhydric.
-Mèo mẫn cảm với a. carbonic.
- Gia cầm thường ít mẫn cảm hơn với độc tố nấm
2. Cá thể
Cá thể trong cùng loài có thể phản ứng khác nhau với chất độc. Tác dụng gây độc
được xác định theo đáp ứng của cơ thể đối với chất độc.
-Dị ứng:là kết quả của miễn dịch trung gian và quá trình cảm ứng trước đó đối với
một chất hóa học. Những phản ứng này được coi là phản ứng quá mẫn. Nhiều chất
hóa học có thể gây dị ứng. Phản ứng dị ứng thường đặc trưng cho loài và không
9
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
liên quan đến liều lượng. ở những động vật nhạy cảm, liều lượng thấp có thể gây dị
ứng nghiêm trọng với một chất độc. Thường quan sát thấy phản ứng dị ứng ở các
cơ quan hệ tiêu hóa , hệ tim mạch, phổi, mắt, và da.
-Phản ứng đặc ứng:nguyên nhân có thể do một quá trình chuyển hóa hoặc giải độc
bất thường trong cơ thể và thường có tính di truyền. Phản ứng xảy ra tương tự
như ở cơ thể bình thường nhưng với liều lượng rất thấp.
Trường hợp ít gặp hơn là đáp ứng của những động vật có những phản ứng bất
thường đối với một hóa chất độc nhất định.
3. Tính biệt
Phản ứng với các chất độc cũng khác nhau theo giới tính (cái và đực) ví dụ như
thuốc trừ sâu Parathion hay Potasan độc với chuột cái hơn là đực. Có thể chúng có
mối liên quan với hoocmon sinh dục đực.
Tuy nhiên, ở các con cái bị cắt buồng trứng và con đực bị thiến không quan sát thấy
sự khác nhau này.
* Sự khác nhau về hormon.
Hàm lượng testosteron cao và không thay đổi ở con đực giúp quá trình chuyển hóa
chất độc mạnh hơn so với con cái.Các độc tố có tác dụng giống hormon(ví
dụ,mycotoxin zearalenone)có ảnh hưởng lớn đến tính biệt của súc vật.
Thời kỳ con vật có chửa và cho con bú tạo ra sự thay đổi rõ rệt về hormon
và chuyển hóa: kích thước các cơ quan như gan, tuyến thượng thận, buồng trứng,
tử cung và hàm lượng protein tăng rõ rệt. Một số trong lượng protein tăng
cường (protein microsomal)thúc đẩy quá trình chuyển hóa của chất độc. Sự phát
triển của nhau thai làm tăng chuyển hóa một số xenobiotics.
Bò đang cho sữa nếu nhiễm độc một số độc tố thân mỡ (DDT, polychlorirelted
biphenyls (PCBs)thường bị nhẹ hơn súc vật khác vì một phần chất độc được thải
qua sữa. Quá trình tiết sữa còn làm tăng kích thước và trọng lượng của ruột non,
cho phéppha loãng các độc tố được hấp phụ qua đường miệng.
4. Tuổi
Cường độ tác động của chất độc phụ thuộc nhiều vào lứa tuổi. Súc vật non, súc vật
già đều mẫn cảm với chất độc hơn là súc vật trưởng thành do cơ thể súc vật non
chưa hoàn thiện, chức năng giải độc kém, còn súc vật già thì các cơ quan giải độc
lại bị suy yếu, sức đề kháng giảm.
Chó còn bú mẹ mẫn cảm với santonin gấp 100 lần so với chó trưởng thành. Tuy
nhiên
chó con lai chịu được liều atropin cao hơn chó lớn. Sự đa dạng trong phản ứng cơ
thể của súc vật non đối với các chất độc được giải thích bằng sự phát triển chưa
đầy đủ (chưa hoàn thiện)của các cơ quan, tổ chức về hình thái cũng như về chức
năng (chủ yếu là hệ thần kinh)và sự thay đổi nhanh chóng về trọng lượng cơ thể.,
Súc vật sơ sinh mẫn cảm đặc biệt với chloroform, morphin nhất là bê, nghé, ngựa
con.
* Tuổi súc vật ảnh hưởng đến khả năng hấp phụ chất độc qua màng tế bào Niêm
mạc đường tiêu hóa và hàng rào máu -não ở con vật non kém phát triển hơn, vận
chuyển chủ động hiệu quả kém hơn con đã trưởng thành. ở súc vật non, lượng
enzym chuyển hóa chất độc ít hơn và chất lượng kém hơn súc vật trưởng thành.
10
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
Những thay đổi trong cấu tạo cơ thể ảnh hưởng đến sự phân bố và tàng trữ chất
độc.
Cơ thể súc vật sơ sinh chứa nhiều nước hơn và ít mỡ hơn, trong khi những động vật
già mất đi các protein cấu trúc nhưng lại tăng tích lũy mỡ và collagen.
5. . Khối lượng cơ thể
Đại gia súc có thể chịu được độc cao hơn so với tiểu gia súc vì ở đại gia súc chất độc
được pha loãng hơn trong máu dẫn đến tác dụng của chất độc yếu đi. Nếu liều gây
độc hoặc liều chết của ngựa và trâu, bò là 1 thì lợn sẽ là 1/5 -1/20, chó, dê, cừu là
1/10 -1/20, mèo . Gia súc béo bị ngộ độc các chất độc tích lũy trong mỡ ở liều cao
hơn gia súc gầy.
6. ảnh hưởng của quá trình phân bố và đào thải đến tác dụng của chất độc.
* Sự phân bố và tàng trữ chất độc làm tăng hoặc giảm nồng độ của chúng ở các thụ
thể
Các chất tan nhiều trong mỡ có thể tích lũy trong một số cơ quan nhất định
(ví dụ thuốc trừ sâu DDT tích lũy trong mô thần kinh).
7. . Yếu tố bệnh lý
Bệnh gan có thể là nguyên nhân làm giảm các quá trình tổng hợp các cao phân tử
liên kết có chức năng bảo vệ, dẫn đến tăng tác dụng của chất độc.
Glutathione, ligandin và metallothionein là những ví dụ về cao phân tử liên kết do
gan tổng hợp.Khả năng bị ngộ độc cao khi có bệnh gan,thận… nơi mà chất độc bị
tiêu độc và đào thải.
Bệnh thận làm thay đổi quá trình tái hấp thu của thận, ảnh hưởng đến đào thải
chất độc.
Kích thích nhu động ruột non sẽ làm giảm thời gian vận chuyển và hấp thu chất độc
theo đường uống. Trong trường hợp viêm hoặc loét dạ dày làm tăng hấp thu chất
độc.
- Súc vật sau khi làm việc nặng nhọc, mệt mỏi dễ bị ngộ độc hơn
8. . Hiện tượng cơ thể nhờn với chất độc
Là hiện tượng một số cá thể dần dần tự thích nghi và có sức chống chịu với liều
lượng có thể gây độc hoặc gây chết các cá thể khác. Súc vật hay nhờn với các chất
độc như: asen, atropin, morphin, ricin. Ví dụ: Chó bị quen với morphin chỉ sau 3 lần
sử dụng. Hiện tượng quen, nhờn có thể gặp ở hầu hết các chất độc. Sức đề kháng
của cơ thể với một chất độc bị suy giảm khi mắc bệnh truyền nhiễm, kí sinh trùng,
ngộ độc các chất khác Trong cùng một cơ thể đã quen với chất độc như morphin
hoặc cocain nhiều trường hợp hệ thần kinh có thể chịu được với liều gây độc cao
hơn nhưng các cơ quan khác như ruột, gan, thận lại mẫn cảm hơn với những chất
này.
Câu 6. Các yếu tố môi trường
a. Đường xâm nhiễm chất độc
Chất độc có thể xâm nhiễm vào cơ thể qua miệng, da và đường hô hấp. Trong điều
trị có thể qua đường tiêm (bắp, dưới da, tĩnh mạch). Đường xâm nhiễm ảnh hưởng
đến quá trình chuyển hóa chất độc. Chất độc qua miệng và xoang bụng trước tiên
là đến gan, trong khi đó chất độcxâm nhập qua đường hô hấp lại tiếp cận trước
tiên với phổi.
11
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
-Chất độc xâm nhiễm qua đường tiêu hóa: Phụ thuộc vào các yếu tố như độ rỗng
của
dạ dày, khả năng nôn sinh lý. Những súc vật như lợn, chó, mèo khi ăn phải chất
độc có tính chất kích thích niêmmạc đường tiêu hóa (sulphat đồng…)thì chất độc dễ
bị loại thải do nôn. Vì vậy ít thấy những súc vật này bị ngộ độc những chất đó.
-Chất độc nhiễm qua da: súc vật thường bị trúng độc độc tố nọc rắn, côn trùng đốt,
các thuốc trị ngoại ký sinh trùng khi bôi, phun lên da
-Chất độc bay hơi nhiễm qua đường hô hấp.
* Vị trí, loại mô hấp thu chất độccó thể ảnh hưởng đến độc tính của chất độc
-Khả năng hấp thu qua các vùng da khác nhau của cơ thể là khác nhau. Ví dụ, vùng
da mỏng nhiều mạch máu như vùng bẹn dễ hấp thu chất độc hơn những vùng da
dầy hoặc vùng da bị sừng hóa.
-Tiêm vào vùng có nhiều mạo mạch sẽ thúc đẩy quá trình hấp thu chất độc.
-Sự tích lũy trong mô liên kết và kho dự trữ mỡ làm chậm quá trình hấp thu chất
độc.
* Sự Phân nhỏ liều lượng hàng ngàylàm giảm độc tính đối với các chất gây ngộ độc
cấp tính, được chuyển hóa và bài tiết nhanh. Nếu tác nhân gây độc là một chất độc
tích lũy, có tác dụng mãn tính, độc tính ít bị ảnh hưởng bởi sự phân nhỏ liều lượng
hơn.
b. Khối lượng và nồng độ củachất độc
* Khối lượng và nồng độ của chất độc ảnh hưởng đến mức độ và tỷ lệ phơi nhiễm
chất
độc. Một chất có thể gây độc với liều lượng thấp nếu được pha loãng trong thức ăn
cho súc vật ăn cả ngày theo chế độ tự do.
* Quy tắc về khối lượng và nồng độcho phép đánh giá độc lực của chất độc qua phơi
nhiễm tự nhiên.
Ví dụ, liều lượng nitrat gây độc đưa qua ống thông vào đường tiêu hóa là 200
mg/kg thể trọng đối với trâu bò, nhưng lại là 1000-2000 mg/kg thể trọng nếu được
phân bổ tự nhiên trong cỏ.
c. Nhiệt độ môi trường
- Nhiệt độ môi trường thấp sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển hóa chất độc trong cơ
thể. Trong trường hợp này có thể do hoạt động chuyển hóa của cơ thể tăng để giữ
ấm cho cơ thể động vật.
- Nhiệt độ có thể ảnh hưởng đến lượng và kiểu tiêu thụ thức ăn của súc vật, do đó
sự
phơi nhiễm với độc tố trong thức ăn cũng thay đổi.
- Nhiệt độ môi trường cao làm tăng lượng nước tiêu thụ, tăng phơi nhiễm chất độc
qua
nước. Súc vật khát nước có thể uống nhanh và hấp thu một lượng chất độc qua
nước.
- Nhiệt độ môi trường cao làm tăng sự mẫn cảm của cơ thể đối với chất độc, thay
đổi
quá trình chuyển hóa hoặc điều tiết nhiệt. Các chất oxy hóa làm tăng nhiệt độ cơ
thể và tác dụng gây độc của chúng tăng khi trời nóng. Nhiễm độc thuốc trừ sâu qua
12
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
da có thể nặng hơn khithời tiết nóng. Lúc này, máu chuyển nhiều đến da để làm
mát da, nhưng máu tập trung nhiều lại tạo điều kiện hấp thu nhanh thuốc trừ sâu.
d. áp suất không khí
Những thay đổi đáp ứng của cơ thể với các chất độc thường liên quan đến những
thay
đổi về áp suất oxy trong môi trường. Khí oxy cao áp được sử dụng để xử lý nhiễm
độc carbon monoxide, barbiturat, cyanide.
e. Chế độ ăn uống và dinh dưỡng
- Các chất độc có thể bị khử độc tính bởi thành phần thức ăn tự nhiên hoặc các tác
nhân trị liệu được đưa vào cơ thể. Ví dụ: Acid phytic (inositol hexaphosphate) ở
thực vật có thể tạo chelat với các kim loại và khoáng chất, từ đó làm giảm sự hấp
thu của chúng.
-Canxi và kẽm trong thức ăn thực tế ảnh hưởng đến quá trình hấp thu chì, cạnh
tranh
lẫn nhau hệ vận chuyển cation hóa trị 2.
-Tanin và protein tạo phức với các chất độc và giảm sự hấp thu của chúng.
* Sự ngon miệngcó thể làm tăng lượng chất độc được đưa vào cơ thể. Ví dụ, chất
diệt
loài gặm nhấm có vị thơm bao parafin được dùng để làm tăng sự ngon miệng, vì
vậy tăng lượng tiêu thụ với loài gặm nhấm.
* Thiếu hoặc quá thừa dinh dưỡng ảnh hưởng đến tác dụng của chất độc.
-Súc vật bỏ ăn sẽ bị thiếu năng lượng, glucose trong máu giảm dẫn đến giảm hoạt
tính các enzym chuyển hóa chất độc.
-Thức ăn thiếu protein làmsuy yếu tổng hợp enzym, hoạt tính của men MFO, nồng
độ glutathione trong gan giảm.
-Thiếu vitamin, đặc biệt là vitamin E và C chống oxy hóa dẫn đến làm tăng quá
trình tổn thương tế bào do hình thành gốc tự do.
f. Nguyên nhân gây ngộ độc
Nguyên nhân gia súc bị ngộ độc thường là do ăn phải hoặc uống, thở hoặc
qua da những chất độc có trong tự nhiên hay do con người gây ra.
+ Nguồn khoáng chất gây độc: Chủ yếu là nước có chứa flor, nitrat có thể gây chết
người và gia súc. Molypden, selen có nguồn gốc từ đất có thể gây độc cho bò.
+ Độc tố thực vật: Có nhiều loại chất độc tố thực vật
+ Chất độc công nghiệp: Chì (Pb) và arsen (As) là sản phẩm ô nhiễm của công
nghiệp.
Khí flor, bụi, khói có chứa flor cũng là sản phẩm của các nhà máy công nghiệp
-Nhiễm độc đồng, molypden, ảnh hưởng tia phóng xạ qua các nhà máy điện nguyên
tử, nước thải từ các nhà máy có chứa phenol.
+ Hóa chất bảo vệ thực vật: gây nên ngộ độc cho nhiều loài gia súc. Đặc biệt ngộ
độc
thuốc trừ sâu với gia cầm trong đó quan trọng nhất là phospho và phospho kẽm.
+ Thuốc thú y: Dùng quá liều.
+ Thức ăn và nước uống: Cỏ đá (cỏ 3 lá) có chứa dicumarol, solanin ở mầm khoai
tây,
13
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
sản phẩm lên men từ thức ăn thiu, ôi, các loại củ, hạt, nấm độc, v.v nitrat, petrol,
ether, kim loại nặng trong nước là nguyên nhân gây ngộ độc cho gia súc, gia cầm.
Chương II
Chẩn đoán và điều trị ngộ độc
1. Chẩn đoán ngộ độc
1.1. Khái niệm
Chẩn đoán ngộ độc là việc đánh giá, phát hiện các dấu hiệu, triệu chứng của
sự rối loạn chức năng của các cơ quan, tổ chức của cơ thể để tìm ra nguyên nhân
gây ngộ độc, nhằm điều chỉnh nhữngtác dụng của chất độc, xử lý và điều trị ngộ
độc, nhiễm độc.
Chẩn đoán ngộ độc bao gồm các loại sau:
a. Chẩn đoán lâm sàng: được thực hiện trước tiên để xác định các hệ cơ quan nào
bị ảnh hưởng bởi chất độc (ví dụ: sốc, động kinh nghiêm trọng, ngừng hô hấp…),
theo dõi và khống chế các triệu chứng để cứu sống bệnh súc.
b. Chẩn đoán tổn thương bệnh lý (lesion diagnosis) được thực hiện để mô tả những
biến đổi bệnh lý ở mô, tổ chức
c. Chẩn đoán bệnh căn: Đây là chẩn đoán quan trọng nhất, nhằm xác định nguyên
nhân gây độc hoặc nguồn gây độc, là cơ sở để tiến hành các biện pháp trị liệu và
phòng chống cụ thể.
Trong quá trình chẩn đoán nguyên nhân gây ngộ độc cho súc vật cần lưuý:
-Khi chưa chẩn đoán được nguyên nhân gây độc không nên sử dụng các loại thuốc
đối kháng để giải độc.
- Bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, tránh những chất độc tồn đọng trong chuỗi
thức ăn thông qua việc khẳng định được chất cụ thể gây độc.
-Xác định trách nhiệm và tránh được thiệt hại do ngộ độc, nhiễm độc gây ra.
1.2. Chẩn đoán ngộ độc
Ngộ độc là loại bệnh xảy ra hàng loạt với một lượng lớn súc vật. Vì vậy việc chẩn
đoán sớm và chính xác là bước rất quan trọng để phòng và điều trị ngộ độc có hiệu
quả. Chẩnđoán ngộ độc bao gồm các bước sau:
a. Thu thập thông tin về nguyên nhân và điều kiện gây ngộ độc.
Vai trò của cán bộ thú y là tìm được nhiều thông tin có thể sử dụng trong thực tế
chẩn
đoán. Qua hỏi trực tiếp những người chăn nuôi, chủ gia súc. Thu các thông tin về
loài, số lượng súc vật bị ngộ độc, loại thức ăn cho gia súc ăn trước đó vài tuần và
thời điểm xảy ra ngộ độc.
Ngộ độc thường xảy ra do khâu cho ăn, chăm sóc và sử dụng súc vật. Một
trong những nguyên nhân gây ngộ độc thường xuyên nhất đối với gia súc chăn thả
là cây cỏ độc.
Đối với súc vật nuôi nhốt, ngoài các thực vật độc ra, súc vật còn bị ngộ độc bởi thức
ăn bị hỏng, ôi thiu, thức ăn nhiễm nấm mốc, vi khuẩn và độc tố của chúng.
14
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
• Gia súc, gia cầm còn bị ngộ độc bởi các hóa chất BVTV,như các hợp chất clor hữu
cơ, phosphor hữu cơ, một số hợp chất vô cơ như carbamid, muối ăn, sulfat đồng,
calcivà natri asenat, natri fluorid, phosphot kẽm các chất hóa học là phân hữu
cơ cũng có thể gây ngộ độc. Ngoài ra súc vật còn bị ngộ độc bởi nọc độc khi bịđộng
vật độc cắn(rắn, nhện, ong ).
• Cần xác định xem có xảy ra sự phơi nhiễm với loại chất độc (độc tố)đã được biết
đến hoặc bị nghi ngờ không?
• Hỏi chủ gia súc những thay đổi về địa điểm, nguồn thức ăn, việc sử dụng chất hoá
học (ví dụ: phun thuốc diệtcôn trùng, bón phân cho đồng cỏ, sử dụng thuốc thú y
điều trị cho súc vật) và những ứng dụng khác có thể gây ngộ độc, nhiễm. Nếu cần
thiết phải kiểm tra nơi nuôi nhốt súc vật.
Sự có mặt của một loại chất độc trong môi trường hay thậm chí súc vật đã ăn phải
chất
độc đó chưa đủ để khẳng định được nguyên nhân gây ngộ độc. Đây mới chỉ là
những gợi ý cho phương hướng điều tra tiếp theo, đó là:
-Khẳng định được sự phơi nhiễm với chất độc là đủ để gây ngộ độc.
-Ghi lại các triệu chứng lâm sàng, những biến đổi về trao đổi chất, biến đổi ở các
mô
điển hình trong quá trình súc vật phơi nhiễm với với chất độc bị nghi ngờ.
-Xác định mức độ gây độc của chất độc đối với cơ quan hay mô đích.
* Tiểu sử tình trạng sức khoẻ của bệnh súc
• Tình hình bệnh tật trong 6 tháng trước khi súc vật bị ngộ độc.
• Tình hình phơi nhiễm với chất độccủa các súc vật khác trong vòng 30 ngày trước
khi xảy ra ngộ độc.
• Lịch tiêm phòng
• Các biện pháp trị liệu, phun, tẩy thuốc trong 6 tháng về trước
• Lần khám bệnh cuối cùng của bác sỹ thú y.
• Quy mô đàn (đối với súc vật nuôi theo đàn).
• Súc vật mua về hay được nuôi tại gia đình.
• Tình trạng ốm, chết của đàn (đối với súc vật nuôi theo đàn).
• Cá thể đầu tiên bị ngộ độc (bị ốm)được phát hiện: cần tìm hiểu con vật này đã sống
khoẻ mạnh trong thời gian bao lâu? Hiện tượng ngộ độc đã xuất hiện trong đàn
khi nào?
* Dữ liệu về môi trường
Thu thập các dữ liệu về:
-Nơi ở của súc vật (ví dụ: đồng cỏ, rừng, lô đất, feedlot, gần sông hoặc ao; Chuồng
nuôi, Khu nhà kín có hệ thống thông gió; ở trên sàn gỗ giát trên hố phân, gần
đường tàu hoả, gần khu công nghiệp, gần bãi rác).
-Những thay đổi gần nhất về sự phơi nhiễm với môi trường (ví dụ: sự di chuyển,
phun chất diệt côn trùng, chất diệt loài gặm nhấm, xây dựng mới, cải tạo các khu
nhà cũ, di chuyển phân…).
* Dữ liệu về khẩu phần ăn, nước uống của súc vật
-Chế độ ăn: Những thay đổi về khẩu phần ăn gần đây (số lần cụ thể có liên quan đến
các triệu chứng đã quan sát được). Sự thay đổi phương thức cho ăn (ví dụ: từ
15
Nguyễn Văn Tuyên - Lớp K43B -Thú Y – Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
SĐT : 0915905154
phương thức cho ăn hạn chế sang phương thức cho ăn tự do). Sự có mặt của các
thức ăn ôi thừa và bị hỏng.
-Nguồn nước uống, thay đổi trong việc cung cấp nước uống.
b. Kiểm tra các triệu chứng lâm sàng.
Bệnh do ngộ độc thường được phân biệt với các bệnh khác do sự đa dạng về các
triệu
chứng lâm sàng. Nguyên nhân ở đây là do nguồn gốc, tính chất lý hóa, động học
của chất độc, sự mẫn cảm của súc vật.
Để chẩn đoán ngộ độc cần quan sát các triệu chứng lâm sàng sau:
Bảng: Triệu chứng lâm sàng thường gặp ở gia súc bị ngộ độc
Mất điều hoà
Tiết nước bọt
Mù/thị giác
Trầmcảm
Vui vẻ
Động kinh
Khản tiếng
Nôn mửa
ỉa chảy
Phân có máu đen
Ăn nhiều
Khát nhiều
Đa niệu
Khó thở
Vàng da
Chảy máu
Hemoglobin-niệu
Huyết niệu
Kiệt sức
Sốt
Yếu
16
Ngộ độc cấp thường xảy ra với các triệu chứng liên quan đến các hệ cơ quan: tiêu
hóa,
thần kinh, hô hấp, tuần hoàn, tiết niệu
Những dấu hiệu thường xuyên nhất của ngộ độc đường tiêu hóa là: Tiết nước bọt,
nôn,
chướng hơi, ỉa chảy, có thể táo bón với sự biến đổi của phân (chứa chất nhầy,
máu ),đau bụng và đôi khi nổi mề đay.
Các dấu hiệu của ngộ độc thần kinhthường là: tăng quá trình hưng phấn thần kinh
biểu hiện: bồn chồn không yên, trạng thái thao cuồng (có xu hướng di chuyển về
phía trước, chân trước co và đạp mạnh), co giật, thở mạnh, co giật kiểu động
kinh và kiểu giật rung thường quan sát thấy ở ngộ độc chì, atropin, veratrin,
anconitin và picrotoxin.
Sau trạng thái co giật (hoặc ngay lập tức)có biểu hiện ức chế, thể hiện tê liệt và liệt.
Các dấu hiệu về hô hấp thường là thở gấp, thở khó, ngạt thở, ho, chảy nước mũi,
tím
tái, bồn chồn
Các triệu chứng về tim mạch: mạch nhanh, yếu.
Các triệu chứng về tiết niệu: có hiện tượng đái nhiều, đái dắt, xuất hiện albumin
niệu,
huyết niệu, tế bào biểu mô thận trong nước tiểu hoặc bí đái trong một số trường
hợp.
Khi bị rối loạn trao đổi khí, súc vật rất khó thở, mạch nhanh, kết mạc mắt đỏ, co
giật, thân nnhiệt hạ, hôn mê, chết (ngộ độc các sản phẩm thực vật chứa cyano, ngộ
độc
nitrat, nitrat ).
Rối loạn đông máu khi bị rắn độc cắn (do độc tố cardiotoxin trong nọc rắn).
Viêm dộp da do chất nhạy cảm quang học chứa trong một số loại cỏ làm thức ăn
chăn
nuôi (Fagopyrum vulgare, Fagopyrum esculentum).
Những triệu chứng lâm sàng thường là những thông tin có giá trị được sử dụng
để
chẩn đoán ngộ độc. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vàocác triệu chứng lâm sàng cũng chưa
đủ để kết luận về chất gây ngộ độc vì hàng ngàn các chất hoá học khác nhau có thể
gây ra những triệu chứng tương tự ở một số cơ quan nhất định của cơ thể (nói
cách khác là cơ quan và mô có thể có phản ứng tương tự với nhiều chất hoá học
khác nhau).
Nhiều bệnh do nhiễm khuẩn, rối loạn nội tiết, rối loạn trao đổi chất gây ra các triệu
chứng giống ngộ độc (ví dụ như nôn, động kinh…).
Sự tiến triển của các triệu chứng lâm sàng cũng có giá trị chẩn đoán trong ngộ độc.
Bác sĩ thú y khi khám bệnh có thể chỉ thấy được một trong các giai đoạn tiến triển
của căn bệnh. Vì vậy cần hỏi chủ gia súc về những triệu chứng khác nếu có.
Thời gian xuất hiện và thời gian duy trì các triệu chứng lâm sàng có thể giúp nhận
dạng một vài chất độc và loại bỏ những chất độc khác.
Tỷ lệ súc vật bị ngộ độc và tỷ lệ chết cũng có thể giúp xác định loại chất độc, sự tồn
tại và hàm lượng của chất độc.
Ngoài ra còn có các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến khả năng mẫn cảm của súc
vật
với chất bị nghi là gây độc, đó là: (1) Loài gia súc; (2) Tính biệt; (3) Sự tương tác
giữa chất độc với các chất dinh dưỡng, các loại thuốc điều trị hay chất hoá học
khác; (4) Stress hay tổn thương bệnh lý ở cơ quan, tổ chức trước khi bị ngộ độc.
* Tiến triển bệnh
Phụ thuộc vào:
-Ngộ độc tối cấp: ít xảy ra. Xảy ra trong vòng 1 -2 giờ hoặc thời gian ngắn hơn
(acid
silinic, kali cyanit, nitrit)
-Ngộ độc cấp: xảy ra đột ngột, tiến triển nhanh sau khi ăn thức ăn có độc hoặc
nhiễm
độc. Gia súc thường bị chết.
-Ngộ độc bán cấp: tiếntriển trong vài ngày, sau khi điều trị có thể khỏi, có trường
hợp chết.
-Ngộ độc mãn: tiến triển chậm, triệu chứng lâm sàng không rõ, thường xảy ra khi
súc vật bị nhiễm chất độc thường xuyên, kéo dài. Triệu chứng thường là ở đường
tiêu hóa hơn là thần kinh.
* Tiên lượng (prognose)
Tiên lượng của bệnh do ngộ độc được xác định dựa trên mức độ nặng nhẹ của
bệnh,
bản chất và liều lượng chất độc cũng như khả năng trung hòa, đào thải chất độc
khỏi cơ thể.
-Trong các triệu chứng về thần kinh, triệu chứng kích thích thầnkinh được coi là có
tiên lượng tốt hơn là trạng thái trầm uất. Xấu nhất là triệu chứng bại liệt, thường
dẫn đến chết.
Co giật không phải lúc nào cũng có tiên lượng xấu.
-Bản chất của chất độc có ý nghĩa trong việc đánh giá tiên lượng. Loài vật ăn cỏ khi
bị ngộ độc độc tố thực vật thường có tiên lượng tốt hơn ngộ độc các chất độc có
nguồn gốc khoáng hoặc tổng hợp, do khó xác định được lượng các chất này
đã hấp thu vào máu và chúng thường được chậm thải trừ ra khỏi cơ thể (ví dụ,
asen, chì, thủy ngân )
-Các triệu chứng niêm mạc dạ dày, ruột xuất huyết nhất là ở súc vật non, suy giảm
hoạt động tim mạch, trụy tim mạch.
-Súc vật bị ngộ độc nhưng nôn được có tiên lượng tốt hơn là không nôn.
c. Kiểm tra các tổn thương bệnh lý
Việc xác định chính xáccác cơ quan, mô và các qúa trình trao đổi chất chịu ảnh
hưởng nhiều nhất bởi chất độc là một yếu tố quan trọng trong chẩn đoán ngộ độc.
Đặc tính của các hệ cơ quan có thể sử dụng để đưa ra những chẩn đoán phân biệt
phù hợp với những dấu hiệu lâm sàng. Các chất độc khác nhau có thể gây những
biến đổi đặc trưng ở các cơ quan, tổ chức.
Nếu bệnh súc bị chết, cần mổ khám kỹ và thu thập các mẫu thích hợp. Việc mổ
khám
tổng thể xác bệnh súc cần được thực hiện bởi chuyên gia độc chất học và chuyên
gia bệnh lý.
Những tổn thương bệnh lý do ngộ độc thườnglà: viêm dạ dày ruột, gan nhiễm mỡ,
hoại tử giữa tiểu thùy gan, sưng vỏ thận, hemoglobin niệu, tim phì đại, tích nước
xoang ngực, phù kẽ phổi, mắt sưng tấy. Nhiều chất độc gây các tổn thương bệnh lý
đại thể và vi thể đặc trưng.
Chất chứa dạ dày, ruột cần được kiểm tra về màu sắc, sự có mặt của cây cỏ, các vật
lạ,
viên thuốc, nang thuốc
Các mẫu tổ chức cần được bảo quản trong dung dịch đệm formalin 10% để kiểm
tra bệnh tích vi thể.
- Dựa vào tác động của chất độc đến các cơ quan của cơ thể và những biến đổi bệnh
lý ở các cơ quan này, chia chất độc thành 6 nhóm:
-Chất độc đường ruột: gồm: hợp chất phosphor, asen, thủy ngân, bari, bismus và
một số saponin, alcaloid (morphin, protoveratrin ) glycoalcaloid (solanin ). Các
chất độc này biến đổi chủ yếu ở ruột già, gan và các cơ quan tiêu hóa khác.
-Chất độc thận: tổn thương chủ yếu ở nhu mô thận. Gồm phosphor, asen, sắt, đồng,
chì, thủy ngân và một số thực vật gây độc.
- Chất độc máu: Máu màu socola: methemoglobin- nitrat, nitrit. Gây hủy huyết
(hemolyse): saponin.Tăng độ nhớt của máu: toxanbumin.
- Chất độc gây dãn mạch, hạ huyết áp: làm tổn thương thành mạch: các
muối
bari, asen
-Chất độc xương: gây osteonopoza (thủy ngân), tăng phát triển mô xương (ngộ độc
cấp các hợp chất phosphor, fluor).
-Chất độc da: gây tổn thương da như phosphor, clor, iod, các chất photosensibiliti.
Cần lưu ý là sự phân chia trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Chất độc trong các
nhóm trên không phải lúc nào cũng gây ra những biến đổi như đã miêu tả. Đôi khi
các chất độc gây ra những biến đổi bệnh lý rất đa dạng và với mức độ khác nhau ở
các súc vật bị ngộ độc.
Biến đổi bệnh lý thường rõ nét trong các trường hợp ngộ độc mạn tính.
-Ngộ độc alcaloid thường đi liền với các biến đổi bệnh lý như: khó thở, các cơ quan
ứ
máu, xuất huyết. Khi mổ khám xác định động vật bị ngộ độc, có thể thấy mùi đặc
trưng.
Câu 8. Nguyên nhân gây ngộ độc
• Thức ăn có những độc chất, những loại nấm mốc, hay những cây cỏ độc.
• Hóa chất lẫn trong thức ăn
• Hơi độc nhiễm qua đường hô hấp
• Ăn lâu ngày thức ăn kích thích như men rượu, bã bia.
• Gia súc không phân biệt được thức ăn độc do nhịn đói lâu ngày
• Dùng nhầm thuốc hay quá liều quy định
• Hậu quả xấu của quá trình trao đổi chất
• Bị rắn cắn, hoặc côn trùng đốt
• Nhiễm độc tố vi trùng
• Do sự phá hoại của kẻ xấu
Câu 9. Điều trị ngộ độc
Điều trị ngộ độc ở vật nuôi có thể thực hiện theo 3 nguyên tắc: (1) Điều trị nguyên
nhân (2) Điều trị theo cơ chế sinh bệnh học. (3) Điều trị triệu chứng
Khi súc vật bị ngộ độc cấp phải xử trí và triển khai cấp cứu chống độc càng sớm
càng
tốt. Tránh cho súc vật tiếp tục tiếp xúc với nguồn gây độc băngcách di chuyển
súcvật khỏi nơi ô nhiễm. Ngừng ngay cho thức ăn hoặc nước uống nghi có độc. Chủ
gia súc và những người có thể bị ngộ độc khi chăm sóc bệnh súc (ví dụ khi súc vật bị
ngộ độc do khí độc trong chuồng nuôi hoặc da, lông súc vật bám các thuốc trừ sâu,
thuốc diệtngoại ký sinh trùng…).
Các phương pháp điều trị nhằm mục đích:
-Loại trừ chất độc ra khỏi cơ thể.
-Phá hủy hoặc trung hòa chất độc.
-Điều trị các rối loạn triệu chứng (giải quyết các hậu quả của ngộ độc).
Cần lưu ý là khi đã xuất hiện các dấu hiệu củangộ độc gây ảnh hưởng đến các chức
năng sống của bệnh súc thì việc điều trị triệu chứng, nâng cao sức đề kháng của cơ
thể là quan trọng nhất và bao giờ cũng được áp dụng trước tiên (trước khi tiến
hành các biện pháp loại trừ hoặc thải trừ chất độc ra khỏicơ thể).
2.1. Loại chất độc ra khỏi cơ thể
Việc loại chất độc khỏi cơ thể bằng nhiều biện pháp càng nhanh càng tốt nhằm
giảm
tối đa sự hấp thu chất độc vàp máu, đồng thời tăng thải chất độc ra ngoài. Đối với
súc vật bị ngộ độc qua đường tiêu hóa, biện pháp này có hiệu quả nhất trong vòng
2 giờ đầu bị ngộ độc, sau 4 giờ sẽ ít tác dụng.
a. Loại chất độc bám trên da, mắt
Làm sạch da, lông súc vật bằng nước ấm, xà phòng nếu chất độc bám vào da, lông.
Súc vật lông dài thì cắt bớt. Nếu chất độc bám vào mắt cầnphun rửa mắt liên tục
bằng nước sạch hoặc nước muối sinh lý 0,9% từ 10 đến 15 phút. Chất độc là acid
hay base cần duy trì pH= 6,5 -7,5 sau khi rửa mắt.
b. Loại chất độc qua đường tiêu hóa
* Gây nôn
Xử lý ngay vài phút sau khi súc vật ăn hoặc uống phải chất độc.
Chống chỉ định trong các trường hợp sau:
-Loài gậm nhấm, thỏ, ngựa và súc vật nhai lại hoặc không thể nôn sinh lý hoặc gây
nôn không an toàn và không hiệu quả.
-Bệnh súc bị hôn mê, bị động kinh, co giật có thể bị ngạt thở trong khi gây nôn.
- Bệnh súc bị ngộ độc xăng, dầu hoặc các chất độc bay hơi dễ bị viêm phổinếu gây
nôn.
Biện pháp gây nôn được thực hiện chủ yếu ở chó và lợn, có thể dùng các chất gây
nôn sau:
-Siro ipeca: 1 -2 ml/kg cho chó, mèo -3 ml/kg. Nếu sau 15 -20 phút thuốc không có
tác dụng thì dùng liều lặp lại. Nếu sử dụng cùng với than hoạt tính sẽ bị vô hoạt.
-Apomorphin: Tiêm cho chó liều 0,04 mg/kg i.v, i.m; 0,08 mg/kg s.c. Có thể bị nôn
quá mức hoặc triệu chứng ức chế thần kinh. Không dùng cho mèo.
-Nước oxy già 3% chouống liều 2 -5 ml/kg thể trọng. Dùng không quá 40
-50ml/con.
-Xylazin: 1,1 mg/kg i.m có hiệu quả với mèo. Bệnh súc có thể bị ức chế hô hấp.
-Đối với lợn tiêm veratrin (hormotonon, lentin)0,02 -0,03 g/kg thể trọng.
-Lấy lòng trắng trứng hoà trong nước lạnh 2-3 quả/1lit, cho vật uống.
* Rửa dạ dày
Nếu không gây nôn được thì phải rửa dạ dày. Đây là biện háp hiệu quả nhất đối với
chất độc dạng lỏng và dạng bột dễ tan. Rửa dạ dày hiệu quả nhất trong 60 phút
đầu, nếu chất độc nhiều và là miéng to có thể trong 2 -3 giờ đầu sau khi bị ngộ độc
vẫ tốt. Khi rửa lấy 250 -300 ml dịch rửa đầu tiên để phân tích xác định chất độc.
Dung dịch để rửa dạ dày có thể là:
-Dung dịch Kali permanganat 1 -2 %; là chất oxy hóa phản ứng dễ với các chất hữu
cơ.
-Dung dịch Natri hydrocarbonat 5 ‰ (nếu ngộ độc bằng acid thì không dùng vì
giải
phóng khí CO2gây chướng bụng, thủng dạ dày).
- Dung dịch Magnesium oxyd hoặc Magnesium hydroxyd để trung hòa acid
dùng nồng độ 2,5 % (tính cho MgO).
-Huyết thanh mặn đẳng trương: dùng cho mọi trường hợp,
-Rửa dạ dày (ngựa)bằng nước có than hoạt tính 3%, tanin 1% (trong trường hợp
ngộ độc alcaloid).
Những bệnh súc bị ngộ độc acid hoặc base mạnh, strychnin, uống phải chất dầu
hoặc hôn mê sâu thì khôngrửa dạ dày.
* Hấp phụ chất độc trong dạ dày, ruột
Than hoạthấp phụ các chất độc, giảm thiểu tác dụng độc hại. Hấp thụ hầu hết các
chất
độc, thuốc, thực ăn có trong dạ dày, ruột non. Có hiệu quả nhất với các phân tử lớn,
không phân cực. Một số chất hấp thụ kém với than hoạt, đó là: sắt, lithium, kali,
cyanide, acid muối và rượu.
Chống chỉ định: Không dùng cho bệnh súc hôn mê, co giật trừ khi có điều kiện đã
được đặt ống nội khí quản và cho thuốc chống co giật. Liều lượng than hoạt tính: 2
-5 g/kg thể trọng hòa trong nước theo tỷ lệ 2g/5ml nước.
Theo tài liệu của Nikov: ĐGS: 400 -700 g, TGS: 30 -80g/con.
+ Các chất nhuận tràng:
Các chất này kích thích nhu động ruột, thải những chất chưa bị hấp phụ hết bởi
than hoạt, giảm hấp thu chất độc trong ruột và ngăn bị táo bón do than hoạt.
-Magie sulfat và natri sulfat: liều lượng 250 mg/kg pha dung dịch 6 -10%. Tác dụng
sẽ nhanh hơn nếu cho cùng một lượng nước lớn -dung dịch.
-Sorbitol 70%: Liều lượng 3 ml/kg per. ose.
-Lợn, chó, mèo dùng chất tẩy dầu như dầu thầu dầu, tuy nhiên các chất tẩy dầu
chống
chỉ định khi ngộ độc các chất phosphor, santonin, DDT, phosphor hữu cơ hoặc
những chất độc tan trong dầu.
+ Thụt trực tràng:
Nên kết hợp thụt trực tràng với rửa dạ dày, thường dùng dung dịch NaCl
9‰ 1 - 2 lít/giờ.
* Mở dạ dày hoặc mở dạcỏ bằng phẫu thuật
Trong trường hợp không can thiệp được bằng các biện pháp khác như gây nôn,
rửa dạ
dày, hấp phụ bằng than hoạt có thể mở dạ dày hoặc dạ cỏ bằng phẫu thuật. Ví dụ:
súc vật nuốt phải thỏi kim loại đặc biệt là kim loại nặng hoặc nhựa đường, hắc ín,
dầu công nghiệp
c. Thải chất độc qua đường khác
* Qua đường hô hấp
Một số chất độc ở thể khí hoặc dễ bay hơi có thể loại nhanh chóng ra khỏi cơ thể
bằng
đường hô hấp. Để con bệnh nằm ở nơi thoáng, mát (trừ trường hợp ngộ độc những
chất gây phù phổi: phosgen, clo, SO2 ). Có điều kiện dùng máy trợ hô hấp nồng độ
oxy 50%.
* Qua đường thận
+ Để thải nhanh chất độc ra khỏi cơ thể dùng các chất lợi tiểu,chất gây toát mồ hôi
như liqmor kali acetic, diuretin , dùng pilocarpin ở trạng thái tim phổi bình
thường.
-Truyền nhiều dịch, có thể cho dung dịch đường ưu trương, thuốc lợi niệu (nếu
không
bị bệnh thận). Chú ý là khi đái nhiều có thể mất chất điệngiải Na+, K+, Cl
- Một số chất độc có tính acid yếu thường đào thải nhanh trong môi trường
kiềm (barbiturat)hoặc giảm tác dụng ở môi trường kiềm (phosphor hữu cơ);
thường đưa dung dịch kiềm vào cơ thể bệnh súc nhưng cần theo dõi pH của máu
không để vượt quá 7,6 vì nếu kiềm quá sẽ ức chế hô hấp. Một số chất độc giảm tác
dụng trong môi trường acid nhưng trong lâm sàng giảm pH của máu dễ gây biến
chứng nên ít áp dụng để điều trị.
- Trong nhân y dùng phương pháp lọc máu bằng thận nhân tạo. Phương
pháp này nhanh hơn nhưng rất tốn kém.
* Pha loãng máu
Nếu chất độc đã hấp thu vào trong máu, cần tiến hành các biện pháp làm loãng,
trung
hòa và đào thải nhanh chất độc.Chất độc có thể được pha loãng bằng cách:
thải bớt máu (chích máu) ĐGS: 1l máu/100kg thể trọng. Sau đó truyền dung
dịch nước muối sinh lý hoặc glucose hoặc cho súc vật uống một lượng nước lớn qua
ống thông thực quản. Thải bớt máu có chất độc là biện pháp hiệu quả nhất ở giai
đoạn sớm của ngộ độc đặc biệt khi có các triệu chứng thần kinh, tim mạch và tích
nước phổi. Chống chỉ định khi trụy tim mạch (niêm mạc nhợt nhạt, mạch nhỏ,
nhanh, huyết áp thấp). Ví dụ nhiễm độc barbiturat, các chất phá vỡ hồng
cầu, như hydro arsenid hoặc chất độc làm biến đổi hemoglobin (tạo hemoglobin).
Trong mọi trường hợp dùng nước đường ưu trương, có ảnh hưởng tốt đến trao đổi
chất, đến cơ tim, kích thích glycogenase và chức năng giải độc của gan, khả năng
kháng độc của cơ thể càng cao nếu dự trữ glycogen càng cao.
+ Sử dụng vitamin trong một số trường hợp ngộ độc:
B comflex trong tổn thương thần kinh do ngộ độc.Vitamin K trong tổn thương gan.
Vitamin P trong ngộ độc có tổn thương thành mạch và tăng tính thấm thành mạch
(asen, bensol).Trong hầu hết các trường hợp ngộ độc có nguồn gốc khoáng và các
chất tổng hợp, cần thiết bổ sung vitamin đặc biệt vitamin C và B, tiêm tĩnh mạch
kết hợp với glucose.
2.2. Phá hủy hoặc trung hòa chất độc bằng các chất kháng độc
a. Nguyên lý trong điều trị đối kháng
* Định nghĩa chất kháng độc:Chất kháng độc (chất đối kháng-antidot)là những
chất có tác dụng đặc biệt, đối lập với tác dụng của một chất độc.
* Nguyên lý trong điều trịđối kháng
Chất đối kháng thường được sử dụng khi súc vật bị phơi nhiễm với chất độc và có
biểu hiện ngộ độc trên lâm sàng.
+ Lựa chọn chất đối kháng và liều lượng dựa trên:
-Liều lượng được xác định dựa trên liều đã sử dụng cho động vật thí nghiệm hoặc
kinh nghiệm của nhân y.
-Thời gian tác dụng của chất đối kháng sẽ khác nhau phụ thuộc vào thời gian tác
dụng
của chất độc.
-Một số chất đối kháng có thể gây độc nếu dùng quá liều hoặc thời gian điều trị quá
kéo dài.
-Hiệu quả điều trị sẽ ngược lại nếu dùng chất đối kháng trong trường hợp không
phát hiện đúng chất gây độc. Vì vậy chẩn đoán chính xác nguyên nhân gây độc là
bước rất quan trọng để dùng chất đối kháng trong giải độc.
+ Hiệu quả điều trị đối kháng bị hạn chế do:
-Chưa thực hiện sự khử độc (decontamination) ở súc vật bị ngộ độc.
-Liên quan đến loài giống, lứa tuổi súc vật.
b. Các chất kháng độc (chất đối kháng-antidot) -Cơ chế giải độc
* Các chất đối kháng hóa học
Các chất đối kháng hóa học thường tương tác với chất độc hoặc trung hòa chất
độc.
+ Chất đối kháng liên kết với chất độctạo thành phức hợp không qua được màng tế
bào hoặc làm cho chất độc không gắn được với thụ thể đặc hiệu nữa. Ví dụ:
-Acid dimercaprol và acid dimercaptosuccinic là các hợp chất sulfhydryl liên kết với
kim loại nặng như asen, chì làm chúng không được gắn với thụ thể của chúng.
-Chất càng cua EDTA, deferoxamin, D -penicillamin tạo chelat với kim loại nặng,
tạo thành phức hợp dễ tan trong nước, dễ thải trừ qua nước tiểu.
-Antivenin chống nọc rắn và kháng thể chống digitoxin là các tác nhân miễn dịch
gắn đặc hiệu với nọc độc hoặc độc tố.
+ Chất đối kháng thông qua chuyển hóa:
Một số chất đối kháng tham gia chuyển hóa chất độc thành các sản phẩm ít độc
hơn.
Ví dụ:
-Nitrit kết hợp với hemoglobin và cyanid tạo thành cyanmethemoglobin ít độc hơn
cyanid, giải phóng cytocrom oxydase trở lại hoạt động cứu con vật khỏi bị ngạt nội
hô hấp.
Dùng khi giải độc các glucozid chứa xit cyanhydric.
-Thiosulfate có nhóm sulfate liên kết với cyanid tạo thành thiocyanate để dễ thải
qua nước tiểu.
* Các chất đối kháng dược lý
Các chất đối kháng này có tác dụng trung hòa hoặc đối lập với tác dụng của chất
độc thông qua các cơ chế:
+ Ngăn chặn quá trình chuyển hóa chất độc thành các sản phẩm độc hơn
Ví dụ: Ethanol và 4 -methylpyrazole (4 -MP) cạnh tranh với alcohol dehydrogenase
ngăn cản sự tạo thành chất trung gian độc hại từ ethylen glycol.
+Làm tăng đào thải chất độc.
Các chất đối kháng trong nhóm này làm thay đổi bản chất lý hóa của chất độc, dẫn
đến làm tăng lọc chất độc qua tiểu cầu thận và giảm tái hấp thu ở ống thận.
Ví dụ: mobibden và sulfate kết hợp với đồng tạo phức hợp dễ tan trong nước và dễ
đào thải qua nước tiểu.
+ Chất đối kháng cạnh tranh thụ thể với chất độc.
Cơ chế tác dụng trong trường hợp này là đối kháng cạnh tranh.
Ví dụ: Naloxon phong bế tác dụng của các opioid thông qua cạnh tranh thụ thể với
các
chất độc này.
+ Chất đối kháng phong bế thụ thể của chất độc.
Ví dụ: Atropin phong bế tác dụng của acetylcholin tại synap thần kinh và ở đầu nối
thần kinh -cơ.
+ Chất đối kháng hồi phục chức năng bình thường của cơ thể bị ngộ độc:
Ví dụ: Trong trường hợp bị ngộ độc nitrit, chất đối kháng là xanh methylen kết hợp
với NADPH (Reduce Nicotinamid Adenin Dinucleotid)để khử ion Fe3+của
methaemoglobin thành ion Fe2+của haemoglobin, tham gia vận chuyển oxy.
c. Các chất kháng độc thường dùng trong thú y
Acetylcystein:điều trị ngộ độc acetaminophen. Liều cho uống: 140 mg/kg, 70 mg/kg
6
giờ cho một lần, không quá 7 lần. Tương kỵ với amphotericin B, tetracyclin,
erythromycin, ampicillin, nước oxy già.
Amonium molybdat: điều trịngộ độc đồng ở cừu. Liều cho uống 200 mg/ngày, cho 3
tuần. Nếu ngộ độc cấp tiêm tĩnh mạch 1,7 -3,4 mg/ngày, tiêm 3 lần cách nhật.
Antivenin: điều trịngộ độc độc tố nọc rắn, tiêm tĩnh mạch 1 ống, tiêm 1 lần.
Atropin sulfat: điều trị ngộ độc các chất ức chế men cholinesterase
(anticholinesterase).
Liều lượng 2 mg/kg: tiêm tĩnh mạch 1/4 liều, tiêm dưới da 3/4 liều. Tương kỵ với
thuốc tiêm natri bicarbonat.Calci dinatri EDTA (Calci dinatri Ethylen Diamin
Tetraacetic Acid):là chất gắp kim loại nặng, dùng điều trị ngộ độc chì, kẽm. Liều
lượng 110 mg/kg/ngày, chia 3 -4 liều/ngày, liều đầu tiêm tĩnh mạch, 3 liều sau
tiêm dưới da, không dùng quá 5 ngày. Trong nhân y có dạng ống 500 mg, pha 1 -2
ống trongdung dịch glucose 30 -50%, tiêm tĩnh mạch nhiều lần.
Nước lòng trắng trứng: (hòa tan 6 lòng trắng trứng vào thành 1 lít, có thể thêm
chất thơm cho dễ uống)tạo với kim loại nặng albuminat không tan.Pralidoxim
chlorid(2 -PAM):điều trị ngộ độc thuốc trừ sâu phospho hữu cơ, tiêm tĩnh mạch
hoặc dưới da liều 10 -15 mg/kg 2 -3 lần/ngày đến khi khỏi.
Tanin:làm kết tủa alcaloid, glycosid trong các cây độc thành những chất khó tan,
khó hấp thu, dễ đào thải theo phân. Liều cho uống: 5 -15 g (ngựa), 10 -25 g (trâu
bò), 2 -5g (bê, nghé, ngựa non, dê, cừu), 1 -2 g với lợn, chó 0,1 -0,5 g.
Vitamin C (acid ascorbic): điều trịngộ độc đồng ở chó. Liều cho uống hàng ngày
500 -1000 mg/con. Chống methemoglobinemia ở mèo, liều cho uống 30 mg/kg, 4
lần/ngày.
Vitamin K: điều trị ngộ độc các chất chống đông máu coumarin và indanedion. Liều
cho uống hoặc tiêm dưới da 2 -5 mg/ngày chia 2 lần, sau đó cho uống 2 -3
mg/kg/ngày chia 3 lần tiêm 1 tuần.
Xanh methylen 1 %: Điều trị ngộ độc nitrat, nitrit hoặc chlorat cho nhiều loài gia
súc, gia cầm. Liều tiêm tĩnh mạch 4 -15 mg/kg; có thể tiêm nhắc lại sau 6 -8 giờ.Gây
methemoglobinemia hoặc thể Heinz ở mèo. Tương kỵ với chất kiềm, các chất oxy
hóa khử.
2.3. Hối sức cấp cứu và điều trị triệu chứng
Trong điều trị ngộ độc cấp, một mặt vì chưa biết ngay chất độc nào (đang chờ kết
quả phân tích), mặt khác chất chống độc không nhiều, con bệnh có thể bị chết vì rối
loạn các chức phận. Vì vậy hồi sức cấp cứu và điều trị triệu chứng có vai trò rất
quan trọng. Sau đây là những hội chứng chính do ngộ độc cần được can thiệp cấp
cứu và điều trị kịp thời:
a. Điều trị suy hô hấp
Đặt ống nội khí quản, hỗ trợ hô hấp, cho thở oxy hoặc carbogen khi bệnh súc bị khó
thở, ngạt thở. Trường hợp ngộ độc Clo, Brom, phosgen, SO2 không làm hô hấp
nhân tạo. Nếu bị ngạt do tê liệt men phải dùng xanhmethylen hoặc glutation, chúng
sẽ phản ứng với nước và cung cấp oxy cho cơ thể:
Sau khi làm hô hấp nhân tạo có thể dùng thuốc kích thích hô hấp:
-Ephedrin: tiêm bắp 1-2 ml dung dịch 3%.
-Amphetamin: tiêm tĩnh mạch 0,01-0,02 g.
-Theophylin hòa tan: tiêm tĩnh mạch hoặc dưới da 0,25 g ừ 3 lần/24h.
-Lobelin dung dịch 1 % tiêm tĩnh mạch tối đa 0,1 g/ngày.
-Doxapram 1 -10 mg/kg tiêm tĩnh mạch. Quá liều gây động kinh hoặc bệnh súc rơi
vào trạng thái hôn mê.
b. Điều trị rối loạn nhịp tim
Atropin sulfat, tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp 0,01 -02 mg/kg khi ngộ độc hợp chất
phospho hữu cơ, digitalis. Glycopyrrolattiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp 0,005 -0,01
mg/kg khi ngộ độc carbamat, phenothiazin,
c. Chống shock
Nguyên nhân shock là do nôn mửa, ỉachảy, xuất huyết dẫn đến giảm thể tích máu,
giảm cung lượng tim đột ngột do rối loạn nhịp tim: truyền tĩnh mạch dung dịch
ringer lactat hoặc chất thay thế huyết tương.
d. Điều trị triệu chứng thần kinh
Thường là hôn mê hoặc động kinh, co giật. Để giảm cogiật tiêm tĩnh mạch
diazepam 0,5 mg/kg , tiêm nhắc lại sau 10 -20 phút. Có thể dùng phenobarbital 6
mg/kg i.v. Điều trị hôn mê, ức chế thần kinh bằng doxapram, camphora, cafein.
e/ Chống rối loạn nước, điện giải và toan kiềm