Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÔN TIỀN TỆ NGÂN HÀNG CÓ LỜI GIẢI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.96 KB, 32 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN TIỀN TỆ NGÂN HÀNG
CHƯƠNG I:
Câu 1: Tiền tệ là gì? Phân tích các chức năng của tiền tệ ?
Trả lời:
a. Khái niệm: Tiền là bất kỳ một phương tiện được thừa nhận chung để thanh toán với hàng hoá
dịch vụ và thanh toán công nợ. Nó là một phương tiện trao đổi.
b. Phân tích các chức năng của tiền tệ
* Chức năng phương tiện định giá
Thực hiện chức năng phương tiện định giá, tiền tệ được sử dụng làm đơn vị để đo lường giá trị
của các hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Qua việc thực hiện chức năng này, giá trị của các hàng hóa,
dịch vụ được biểu hiện ra bằng tiền, giống như việc người ta đo khối lượng bằng kg, đo độ dài bằng m
nhờ đó mà việc trao đổi hàng hóa được diễn ra thuận tiện hơn.
Nếu giá trị của hàng hóa không có một đơn vị đo chung là tiền tệ, mỗi hàng hóa sẽ được định giá
bằng tất cả các hàng hóa còn lại, như vậy số lượng giá các mặt hàng trong nền kinh tế sẽ nhiều đến mức
người ta không còn thời gian cho việc tiêu dùng các hàng hóa vì phần lớn thời gian phải dành cho việc
đọc giá các hàng hóa. Khi giá của các hàng hóa được biểu hiện thông qua tiền, việc trao đổi hàng hóa sẽ
trở nên thuận tiện, đơn giản, tiết kiệm chi phí đối với cả người bán và người mua.
So sánh số lượng giá trong một nền kinh tế hiện vật và số lượng giá trong một
nền kinh tế tiền tệ tương ứng với cùng số lượng mặt hàng trao đổi
Số lượng
mặt hàng trao đổi
Số lượng giá
trong nền kinh tế
hiện vật
Số lượng giá
trong nền kinh tế tiền
tệ
3 3 3
10 45 10
100 4.950 100
1000 499.500 1.000


10.000 49.995.000 10.000
(Theo công thức tổng quát tính cặp số khi có n phần tử = n(n-1)/2)
Ngày nay, các phương tiện được sử dụng là tiền không còn có giá trị như các hàng hóa khác
nhưng nó được mọi người chấp nhận trong lưu thông, do đó vẫn được sử dụng để đánh giá giá trị các
hàng hóa. Trong bất kể nền kinh tế tiền tệ nào, việc sử dụng tiền làm đơn vị đo lường giá trị đều mang
tính chất trừu tượng, vừa có tính pháp lý, vừa có tính quy ước.
* Chức năng phương tiện trao đổi
Thực hiện chức năng phương tiện trao đổi, tiền tệ được dùng làm môi giới trung gian trong trao
đổi hàng hoá. Đây là chức năng đầu tiên của tiền tệ, nó phản ánh tại sao tiền tệ lại xuất hiện và tồn tại
trong nền kinh tế hàng hóa.
1
Trong nền kinh tế trao đổi trực tiếp, người ta phải tiến hành đồng thời hai giao dịch bán và mua
với cùng một người khác. Điều đó là đơn giản trong trường hợp chỉ có rất ít người tham gia vào trao đổi
bởi vì người mua hoặc người bán phải tìm được những người trùng hợp với mình về nhu cầu trao đổi,
thời gian trao đổi, không gian trao đổi; nhưng trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa phát triển, các chi phí
để tìm kiếm như vậy quá cao. Vì vậy, người ta phải sử dụng tiền tệ làm môi giới trung gian trong quá
trình trao đổi để khắc phục các hạn chế của quá trình trao đổi trực tiếp. Tiền được coi như một thứ dầu
mỡ bôi trơn, làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích chuyên môn hóa và
phân công lao động xã hội.
Để thực hiên chức năng phương tiện trao đổi, tiền phải có những tiêu chuẩn nhất định:
- Được chấp nhận rộng rãi: nó phải được con người chấp nhận rộng rãi trong lưu thông, bởi vì chỉ
khi mọi người cùng chấp nhận nó thì người có hàng hóa mới đồng ý đổi hàng của mình lấy tiền.
- Dễ nhận biết: con người phải nhận biết nó dễ dàng.
- Có thể chia nhỏ được: để tạo thuận lợi cho việc đổi chác giữa các hàng hóa có giá trị khác nhau.
- Dễ vận chuyển: tiền tệ phải đủ gọn nhẹ để dễ dàng trong việc trao đổi ở những khoảng cách xa.
- Không bị hư hỏng theo thời gian.
- Được tạo ra hàng lọat một cách dễ dàng để số lượng của nó đủ dùng trong trao đổi.
- Có tính đồng nhất: Các đồng tiền có cùng mệnh giá phải có sức mua ngang nhau.
* Chức năng phương tiện dự trữ giá trị
Thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi chứa sức mua hàng hóa trong một

thời gian nhất định. Nhờ chức năng này của tiền tệ mà người ta có thể tách thời gian từ lúc có thu nhập
đến lúc tiêu dùng nó. Chức năng này là quan trọng vì mọi người đều không muốn chi tiêu hết thu nhập
của mình ngay khi nhận được mà còn phải dự trữ để sử dụng trong tương lai.
Việc dự trữ giá trị có thể thực hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau ngoài tiền: cổ phiếu, trái
phiếu, đất đai, nhà cửa Tuy nhiên, tiền là tài sản có tính lỏng cao nhất, bởi nó là phương tiện trao đổi
nên nó có thể chuyển hoá một cách dễ dàng thành bất kỳ một hàng hoá nào theo sở thích của người sở
hữu nó.
Việc thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị của tiền tốt hay không tốt phụ thuộc vào sự
ổn định của mức giá chung, vì giá trị của tiền được xác định theo khối lượng hàng hóa mà nó có thể đổi
được. Khi mức giá chung tăng lên, giá trị của tiền sẽ giảm đi và ngược lại. Sự mất giá nhanh chóng của
tiền sẽ làm cho người ta ít muốn giữ nó, điều này thường xảy ra khi nền kinh tế có mức lạm phát cao. Vì
vậy, để tiền thực hiện tốt chức năng này, đòi hỏi sức mua của tiền phải ổn định.
Câu 2: Tiền tệ là gì? Phân tích các vai trò của tiền tệ?
Trả lời:

a. Khái niệm: Tiền là bất kỳ một phương tiện được thừa nhận chung để thanh toán với hàng hoá
dịch vụ và thanh toán công nợ. Nó là một phương tiện trao đổi.
b. Phất tích các vai trò của tiền tệ:
* Tiền tệ là phương tiện để mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hoá
2
- Tiền tệ làm cho giá trị của hàng hóa biểu hiện một cách đơn giản: giá cả hàng hoá là biểu hiện
bằng tiền của giá trị hàng hoá; nhờ đó người sản xuất có thể đánh giá được hao phí lao động của mình kết
tinh trong hàng hoá.
- Tiền tệ làm cho giá trị hàng hoá được thực hiện một cách thuận lợi. Thông qua chức năng
phương tiện lưu thông, người sản xuất hàng hoá có thể chuyển đổi hàng hoá của mình thành tiền, rồi từ
đó đạt tới một giá trị sử dụng mới tốt hơn một cách dễ dàng.
- Tiền tệ đã làm cho việc trao đổi hàng hoá không bị phụ thuộc vào không gian và thời gian, nghĩa
là mọi người có thể chủ động mua và bán ở mọi nơi và mọi thời điểm thích hợp.
- Tiền tệ làm cho việc hạch toán kinh doanh trở nên thuận tiện và đầy đủ.
Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế

Trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá, tiền tệ không chỉ là phương tiện thực hiện các quan hệ xã
hội mà còn là phương tiện quan trọng để thực hiện và mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế. Thông qua
vai trò này, tiền tệ làm cho xu thế hoà nhập giữa các quốc gia trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội, tài chính,
ngân hàng, khoa học công nghệ, có cơ hội thuận lợi để phát triển.
* Tiền tệ là phương tiện phục vụ mục đích người sở hữu chúng
- Cá nhân dùng tiền để mua hàng hóa và dịch vụ để phục vụ mục đích tiêu dùng.
- Doanh nghiệp dùng tiền để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh như mua các yếu tố đầu vào
để phục vụ sản xuất, thực hiện nghĩa vụ với NSNN,
- Nhà nước dùng tiền cho những hoạt động chi thường xuyên, trả lương cho công chức, đầu tư cho
cơ sở hạ tầng,
Câu 3: Trình bày chế độ lưu thông tiền kim loại? Cho biết tại sao chế độ lưu thông tiền vàng
lại được coi là chế độ ổn định nhất trong lịch sử? Tại sao các quốc gia trên thế giới lại lưu thong tiền
dấu hiệu mà không sử dụng tiền vàng?
Trả lời:

a. Các nhân tố của chế độ lưu thông tiền kim loại.
+ Bản vị tiền tệ: là thứ kim loại được sử dụng để đúc tiền: sắt, đồng, kẽm, bạc và vàng.
+ Tiêu chuẩn giá cả (đơn vị tiền tệ): Trong chế độ lưu thông tiền kim loại, đơn vị tiền tệ được xác
định bởi một trọng lượng kim loại tiền tệ hoặc một hàm lượng kim loại quý làm cơ sở cho một đơn vị tiền
tệ theo tên gọi của nó.
+ Quy định về việc đúc và lưu thông tiền:
Trong chế độ lưu thông tiền kim loại, có thể tồn tại nhiều loại tiền theo luật định, mỗi loại có cơ
chế phát hành và lưu thông riêng:
- Tiền đúc đủ giá: được đúc bằng vàng và bạc theo tiêu chuẩn giá cả do Nhà nước quy định. Nó
được đúc tự do tại các cơ sở đúc tiền của Nhà nước và lưu thông không hạn chế.
- Tiền đúc kém giá: được đúc bằng các kim loại kém giá như đồng, nhôm, kẽm Loại tiền này
nhà nước quản lý chặt chẽ việc đúc và lưu thông nhằm mục đích:
• Hạn chế việc phát hành tiền quá mức vào lưu thông.
3
• Ngăn chặn tình trạng "tiền xấu đuổi tiền tốt ra khỏi lưu thông".

• Tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Giấy bạc ngân hàng: Là một loại tiền dấu hiệu, nhưng trong chế độ lưu thông tiền kim loại nó
được quy định hàm lượng kim loại quý và có khả năng chuyển đổi ra kim loại quý theo tiêu chuẩn giá cả
Nhà nước quy định. Loại tiền này do ngân hàng phát hành và đưa ra lưu thông theo sự cho phép của nhà nước.
b. Các chế độ lưu thông tiền kim loại:
+ Chế độ bản vị bạc
Chế độ bản vị bạc là chế độ đơn kim bản vị, trong đó bạc được sử dụng làm cơ sở để xác định giá
trị đồng tiền. Tiêu chuẩn của đồng tiền đủ giá được ban hành trên cơ sở một trọng lượng bạc nhất định.
Tiền đúc bằng kim loại bạc đã tồn tại trong nhiều thế kỷ dưới chế độ phong kiến và thời kỳ đầu
của chủ nghĩa tư bản. Đây là thời kỳ có chế độ lưu thông tiền tệ ổn định nhất.
+ Chế độ song bản vị
Khi con người khám phá ra nhiều mỏ vàng thì vai trò độc tôn của bạc đã bị vàng chi phối. Nhiều
quốc gia đã đúc tiền vàng để lưu thông và như vậy trong lưu thông tồn tại hai loại tiền pháp định là tiền
đúc bằng vàng và tiền đúc bằng bạc.
Chế độ song bản vị là chế độ chuyển tiếp từ bản vị bạc sang bản vị vàng. Trong lưu thông, hai kim
loại này có “quyền lực ngang nhau”.
Trên thực tế, chế độ song bản vị lại được chia làm hai loại:
- Chế độ bản vị song song: trong chế độ này, bạc và vàng lưu thông theo giá trị thực tế của chúng
trên thị trường. Do đó, trong lưu thông đã có hai thước đo giá trị và dẫn đến có hai hệ thống giá cả. Thực tế
này đã mâu thuẫn với chính chức năng thước đo giá trị của tiền. Bởi lẽ trong lưu thông, giá trị của bạc thấp
hơn giá trị của vàng cho nên vàng lại trở thành thước đo giá trị của bạc, đến lượt mình bạc mới trở thành
thước đo giá trị của các hàng hoá khác. Tình trạng này làm cho lưu thông tiền tệ gặp nhiều khó khăn vì tỷ lệ
trao đổi giữa vàng và bạc không thống nhất.
- Chế độ bản vị kép: trong chế độ này, Nhà nước can thiệp vào thị trường bằng cách quy định tỷ
giá giữa tiền vàng và tiền bạc thống nhất trong phạm vi cả nước. Mục đích của việc canthiệp này là để
khắc phục tình trạng giá cả không ổn định trong lưu thông. Ví dụ ở Mỹ quy định tỷ giá pháp định
vàng/bạc = 1/15 vào năm 1972. Tuy nhiên, do giá trị của vàng không thay đổi, giá trị của bạc ngày càng
giảm nên trong thực tế, tỷ giá này luôn thay đổi từ 1/17 đến 1/19 và 1/21 làm cho mọi người luôn muốn
giữ vàng, còn thương nhân thì dùng bạc đổi lấy vàng của Nhà nước theo tỷ giá pháp định rồi quay lại
dùng vàng đổi lấy bạc ngooài thị trường. Chế độ bản vị kép tồn tại trong một thời gian dài ở các nước

châu Âu nhưng vì bạc ngày càng mất giá nên trong lưu thông không còn tồn tại chế độ này và chuyển
sang chế độ bản vị vàng.
+ Chế độ bản vị vàng
Chế độ bản vị vàng là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó vàng được sử dụng làm cơ sở để xác định
giá trị đồng tiền. Giá trị của một đơn vị tiền tệ được xác định theo một trọng lượng vàng nhất định theo
quy định của Nhà nước. Chế độ bản vị vàng có những đặc điểm sau:
4
- Nhà nước cho phép mọi người tự do mang vàng thoi của mình đến sở đúc tiền của Nhà nước để
đúc thành những đồng tiền theo tiêu chuẩn giá cả pháp định.
- Tiền vàng được thanh toán không hạn chế.
- Vàng được tự do luân chuyển giữa các quốc gia, việc xuất nhập vàng thoi không bị cản trở.
* Chế độ lưu thông tiền vàng là chế độ lưu thông tiền tệ ổn định nhất trong lịch sử phát triển
của sản xuất và trao đổi hàng hoá vì lưu thông tiền vàng không gây ra lạm phát.
* Các quốc gia trên thế giới lại lưu thông tiền dấu hiệu mà không sử dụng tiền vàng vì nó có
nhược điểm là lãng phí của cải xã hội vì vàng bị hao mòn nhiều trong lưu thông và thị trường sẽ
không đủ vàng để đúc tiền khi mà lưu thông ngày càng mở rộng.
Câu 4: Trình bày chế độ lưu thông tiền dấu hiệu? Tại sao lưu thông tiền dấu hiệu dễ dẫn tới
lạm phát? Phân biệt sự khác nhau của tiền mặt và tiền chuyển khoản?
Trả lời:
a. Khái niệm: Tiền dấu hiệu (dấu hiệu giá trị) là những phương tiện thay thế cho tiền vàng trong
lưu thông để thực hiện các quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Đó là loại tiền mà giá trị bản thân của nó
không phù hợp với sức mua của nó, tức là không phù hợp với giá trị lượng hàng hoá mà nó có thể mua
được. Nói cách khác, tiền dấu hiệu không có giá trị nội tại mà chỉ có giá trị danh nghĩa theo luật định.
b. Các nhân tố của chế độ lưu thông tiền dấu hiệu:
+ Bản vị tiền tệ: Trong chế độ lưu thông tiền dấu hiệu, các kim loại không còn được chọn làm cơ
sở xác định giá trị đồng tiền nữa. Giá trị của đồng tiền không còn được xác định căn cứ vào giá trị nội tại
của chính đồng tiền mà được xác định theo giá trị danh nghĩa (sức mua của đồng tiền), căn cứ vào khối
lượng hàng hoá, dịch vụ mà một đơn vị tiền tệ có thể mua được. Sức mua của đồng tiền được bảo đảm
bằng khối lượng hàng hoá, dịch vụ mà nền kinh tế có thể cung cấp ra thị trường, do đó có thể nói bản vị
tiền tệ trong các chế độ tiền tệ hiện nay là bản vị hàng hoá.

+ Tiêu chuẩn giá cả (đơn vị tiền tệ): Trong chế độ tiền dấu hiệu, việc quy định đơn vị tiền tệ chỉ
đơn thuần là việc xác định tên gọi của đồng tiền và quy định những loại mệnh giá tiền được phát hành và
lưu thông.
+ Quy định về việc lưu thông tiền dấu hiệu: Việc phát hành tiền được tập trung thống nhất dưới sự
quản lý của NHTƯ. Tiền được phát hành theo luật định bao gồm giấy bạc ngân hàng không có khả năng
chuyển đổi ra kim loại quý và có thể là tiền đúc lẻ. NHTƯ cũng thống nhất quản lý lưu thông tiền tệ và
điều tiết quá trình cung ứng tiền nhằm mục đích ổn định tiền tệ.
c. Các loại tiền dấu hiệu:
- Tiền đúc lẻ:
Hiện nay, ở nhiều nước, tiền đúc bằng kim loại kém giá vẫn được sử dụng trong các giao dịch nhỏ
và được coi như tiền lẻ.
- Giấy bạc ngân hàng:
Đây là loại tiền dấu hiệu do Ngân hàng Trung ương độc quyền phát hành vào lưu thông. Trong
các chế độ tiền tệ trước đây, giấy bạc ngân hàng được phát hành dựa trên cơ sở đảm bảo vàng theo tiêu
5
chuẩn giá cả quy định. Hiện nay, nó được NHTƯ phát hành không còn căn cứ đảm bảo vàng mà tuỳ
thuộc vào việc thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ và sự phát triển của nền sản xuất. Xét về bản
chất, đó là một loại dấu hiệu giá trị mang tính hợp nhất giữa tiền giấy và tiền tín dụng.
- Tiền giấy do Nhà nước phát hành thông qua ngân hàng trung ương để dùng làm phương tiện trao
đổi. Loại tiền giấy này được lưu thông cưỡng bức theo quy định của pháp luật, nó được phát hành để bù
đắp thiếu hụt ngân sách hàng năm của chính phủ.
- Tiền tín dụng được ngân hàng trung ương phát hành vào lưu thông bằng nghiệp vụ tái chiết khấu
và tái cầm cố các thương phiếu và các giấy tờ có giá.
Ngày nay, người ta không còn phân biệt tiền tín dụng và tiền giấy như trước đây nữa. Khi nhìn bề
ngoài thì tất cả tiền giấy đều là tiền ngân hàng phát hành để cho vay có đảm bảo nhưng một phần là tiền
tín dụng còn phần khác chỉ mang tính chất “giấy”. Tính chất “giấy” của tiền do ngân hàng phát hành
nhiều hay ít phụ thuộc vào sự ổn định của nền kinh tế.
- Tiền ghi sổ (bút tệ):
Tiền ghi sổ (bút tệ) xuất hiện đầu tiên tại nước Anh vào giữa thế kỷ XIX. Bút tệ là thứ tiền vô hình
được sử dụng bằng cách ghi chép trong sổ sách kế toán ngân hàng. Ngày nay, việc sử dụng tiền ghi sổ

ngày càng mở rộng, đã thay thế phần lớn cho việc sử dụng giấy bạc ngân hàng. Nó tồn tại dưới hình thức
số dư tài khoản tiền gửi thanh toán tại các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác và được chi trả khi ngân
hàng thực hiện việc ghi nợ, ghi có trên các tài khoản dựa trên các chứng từ thanh toán do chủ tài khoản
phát hành và gửi tới cho ngân hàng. Mọi nghiệp vụ thanh toán tiền giữa người này với người khác được
thực hiện bằng cách ghi giảm trong tài khoản của người phải trả một số tiền để chuyển sang tài khoản của
người nhận tiền tại ngân hàng.
Nhờ hoạt động thành hệ thống mà các ngân hàng thương mại đã tạo ra bút tệ. Việc tạo ra tiền bút
tệ là sáng kiến quan trọng trong lịch sử hoạt động của ngân hàng. Vì vậy, tiền ghi sổ là do các ngân hàng
thương mại tạo ra.
Đồng tiền ghi sổ là một công cụ thanh toán cực kỳ linh động vì nó phù hợp với các nhu cầu giao
dịch. Nó chính là công cụ phát triển tổng lượng tiền tệ. Trên thực tế, các nước có nền tài chính phát triển
như Anh, Pháp, Mỹ tăng lượng tiền gửi tại ngân hàng cao hơn rất nhiều so với tổng lượng tiền giấy trong
lưu thông. Tại các nước này, tổng mức tiền ghi sổ (toàn bộ tiền gửi) lớn hơn gấp 4 lần số tiền giấy ngân
hàng trong lưu thông.
- Các loại dấu hiệu giá trị khác:
- Thương phiếu là phương tiện tín dụng phát sinh trên cơ sở tín dụng thương mại. Nếu thương
phiếu do người mua chịu hàng hoá phát hành để cam kết trả nợ thì gọi là lệnh phiếu, còn nếu do người
bán hàng hoá lập ra để đòi nợ thì gọi là hối phiếu.
- Các phương tiện thanh toán và lưu thông hiện đại: thẻ thanh toán, thẻ rút tiền tự động, Các
phương tiện này đều có một tính chất chung nhất là sử dụng tiền trên các tài khoản tiền gửi tại ngân hàng.
Bên cạnh đó sự phát triển của máy tính điện tử và công nghệ thông tin đã mở đường cho nhiều nước phát
triển hệ thống chuyển khoản điện tử - một hệ thống thanh toán mà không cần sử dụng các chứng từ viết tay.
6
- Các phương tiện thanh toán khác.
* Lưu thông tiền dấu hiệu dễ dẫn tới lạm phát
Lạm phát là hiện tượng quan hệ không bình thường, không cân đối giữa khối lượng hàng hoá lưu
thông và khối lượng tiền phát hành; nó được thể hiện bằng một sự gia tăng đáng kể mức giá chung do số
lượng tiền phát hành quá mức cần thiết so với yêu cầu của lưu thông hàng hoá.
- Nó có thể là kết quả của việc giảm sút khối lượng hàng hoá trong lưu thông, trong khi khối
lượng tiền đã phát hành không thay đổi hoặc tăng lên, làm cho tổng số cầu vượt xa tổng số cung xét về

mặt giá trị (tức cũng là xét về mặt hiện vật); nó biểu hiện giá cả tăng một cách phổ biến, đồng tiền mất giá
một cách tương ứng, đi liền với việc giảm thấp tiền lương thực tế, thu nhập thực tế của người lao động.
* Phân biệt sự khác nhau của tiền mặt và tiền chuyển khoản.
Tiền mặt Tiền chuyển khoản
Khái niệm TM là loại tiền tồn tại dưới
dạng vật chất,có hình dạng,
kích thước và mệnh giá cụ
thể.
Tiền chuyển khoản là những
con số được ghi chép trên tài
khoản ở sổ sách của các ngân
hàng.
- Về hình thái tồn tại TM là loại tiền tồn tại dưới
dạng vật chất
TCK thì tồn tại dưới dạng phi
vật chất.
- Về chủ thể tạo ra tiền Chủ thể tạo ra TM là NHTW Chủ thể tạo ra TCK là các
NHTM
- Về phạm vi lưu thông TM rộng hơn,ở tất cả mọi nơi
và cho mọi đối tượng
TCK thì chỉ có các chủ thể có
mở tài khoản ngân hàng mới
có thể sử dụng.
- Về chi phí tạo tiền Lớn hơn
- Về chi phí sử dụng tiền Lớn hơn
- Yêu cầu về trình độ của
người sử dụng
Người sử dụng TCK yêu cầu
phải có trình độ cao hơn.
- Về tính lòng - TM có tính lỏng cao hơn

Câu 5: Cầu tiền tệ là gì? Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ?
Trả lời:

a. Khái niệm: Cầu tiền tệ là toàn bộ lượng tiền tệ mà các tác nhân trong nền kinh tế giữ để thoả
mãn các nhu cầu trao đổi, thanh toán và tích luỹ giá trị trong điều kiện giá cả và các biến số vĩ mô cho trước.
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ:
- Giá trị các khoản giao dịch (mức giá chung của các loại hàng hoá): Nếu số lượng và số lần giao
dịch trong kỳ là cố định thì giá trị các khoản giao dịch sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cầu tiền tệ. Nếu gía cả
hàng hoá tăng lên thì mức tiền được giữ lại để thực hiện các khoản giao dịch tăng lên tương ứng và ngược lại.
- Lãi suất tiền gửi (lãi suất danh nghĩa): Cầu tiền tích luỹ phụ thuộc vào chi phí cơ hội của việc giữ
tiền (chi phí cơ hội của việc giữ tiền là lãi suất danh nghĩa). Nếu lãi suất tiền gửi tăng lên thì người có tiền
7
sẽ không tích luỹ tiền mà gửi vào ngân hàng để chi dùng cho tương lai, do đó cầu tích luỹ giảm, điều này
làm cho nhu cầu tiền tệ giảm. Như vậy, cầu tiền tệ tỷ lệ nghịch với lãi suất tiền gửi.
- Tập quán và thói quen của dân chúng trong việc giữ tiền: Thói quen sử dụng tiền trong dân
chúng tác động trực tiếp đến cầu tiền tệ. Nếu dân chúng có thói quen giữ tiền để dự phòng hoặc thoả mãn
các nhu cầu về giao dịch thì cầu về tiền sẽ tăng. Ngược lại, nếu dân chúng gửi tiền ở ngân hàng để thanh
toán và thực hiện các giao dịch thì cầu về tiền sẽ giảm.
- Thu nhập thực tế của dân chúng: nếu thu nhập của dân chúng tăng thì họ sẽ tích luỹ một lượng
tiền nhất định để mua sắm các tài sản có giá trị cao hơn làm cho cầu tiền tệ sẽ tăng và ngược lại.
- Sự ổn định của nền kinh tế và hệ thống chính trị: Nếu nền kinh tế vững mạnh và hệ thống chính
trị ổn định thì giá trị của đồng tiền sẽ ổn định, dân chúng sẽ tích luỹ nhiều tiền để mua sắm các hàng hoá
có giá trị cao hơn trong tương lai, do đó cầu tiền tệ sẽ tăng.
Câu 6: Cung tiền tệ là gì? Việc cung ứng tiền trong lưu thông được thực hiện bởi tác nhân nào?
Trả lời:
a. Khái niệm: Cung tiền tệ là tổng lượng tiền mà các tác nhân cung ứng đáp ứng cho nhu cầu sử
dụng tiền trong nền kinh tế.
b. Các tác nhân cung ứng tiền cho lưu thông:
* Ngân hàng Trung ương:
NHTƯ là tổ chức duy nhất phát hành tiền theo các quy định trong luật hoặc được chính phủ phê

duyệt (mệnh giá tiền, loại tiền và mức phát hành).
NHTƯ phát hành tiền mặt chủ yếu dưới hình thức giấy bạc ngân hàng thông qua các nghiệp vụ:
- Tái chiết khấu, tái cầm cố các thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi và các chứng từ có giá khác
của các tổ chức tín dụng.
- Mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn trong nghiệp vụ thị trường mở.
- Mua vàng, ngoại tệ trên thị trường hối đoái.
Khối lượng tiền do NHTƯ phát hành được gọi tiền mạnh hay cơ số tiền (MB), tiền có quyền lực
cao và bao gồm hai bộ phận:
- Tiền mặt trong lưu hành (C): là khối lượng tiền nằm ngoài các ngân hàng, các tổ chức tín dụng.
- Tiền dự trữ (R): là tiền nằm trong các ngân hàng trung gian và các tổ chức tín dụng.
* Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng:
Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng tạo tiền chuyển khoản theo cơ chế tạo tiền
trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Khối lượng tiền do các tổ chức này cung ứng được tạo ra trên cơ sở
lượng tiền dự trữ nhận từ NHTƯ và qua các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay và thanh toán không dùng
tiền mặt của hệ thống ngân hàng.
Tuỳ theo quy định về chế độ tài chính của nhà nước trong từng giai đoạn của nền kinh tế mà các
nghiệp vụ tạo tiền của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ được thực hiện đến một mức độ
nào đó. Tuy nhiên, những phương tiện thanh toán này sẽ phát huy chức năng phương tiện thanh toán như
đồng tiền thực thụ.
8
* Các tổ chức phi ngân hàng:
Những tổ chức này cung ứng cho lưu thông những phương tiện chuyển tải giá trị như: thương
phiếu, tín phiếu kho bạc, công trái, trái phiếu công ty Những phương tiện này có "tính lỏng" kém nên
chúng luôn có xu hướng chuyển hoá về khối tiền giao dịch M1 để từ đó lại chuyển hoá thành những
phương tiện khác phù hợp với mục đích của người sử dụng. Sự chuyển hoá này làm thay đổi thành phần
của tiền nhưng không làm thay đổi tổng lượng tiền.
CHƯƠNG II:
Câu 1: Lãi suất tín dụng là gì? Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng? Ở
Việt Nam hiện nay lãi suất được áp dụng theo cơ chế bắt buộc hay cơ chế thả nổi? Phân tích vai trò
của lãi suất tín dụng? Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam để kích thích sản xuất phát triển thì

việc điều hành lãi suất phải thực hiện theo hướng như thế nào?
Trả lời:
a. Khái niệm: Lãi suất tín dụng là tỷ lệ so sánh giữa số lợi tức thu được so với số vốn cho vay
phát ra trong một thời kỳ nhất định. Tỷ số này còn được gọi là lợi suất lợi tức tín dụng.
Công thức tính lãi suất được xác định như sau:
Lãi suất tín
dụng trong kỳ =
Tổng số lợi tức thu được trong kỳ
Tổng số vốn đã cho vay trong kỳ
x 100
Có thể nói lãi suất tín dụng là giá của quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định,
mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu nó.
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng
- Quan hệ cung cầu về vốn tín dụng
Cung vốn tín dụng thuộc vào lượng tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư, của khu vực kinh
doanh, của Nhà nước và mức độ thặng dư của ngân sách Nhà nước. Cầu về vốn tín dụng phụ thuộc vào
mức độ tiêu dùng của dân cư, yêu cầu đầu tư, tăng quy mô sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và
yêu cầu giải quyết bội chi ngân sách. Nếu cung về vốn tín dụng lớn hơn so với cầu vốn tín dụng sẽ làm
cho lãi suất tín dụng giảm đi và ngược lại nếu cầu vốn tín dụng lớn hơn thỡ sẽ tỏc động làm lãi suất tín
dụng tăng lên.
Để ổn định lãi suất, cần có giải pháp thích hợp điều chỉnh tương quan cung cầu như tăng giảm
lượng tiền cung ứng, mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng, bảo đảm vốn tự có của các
doanh nghiệp
- Tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế
Tỷ lệ lạm phát có mối liên hệ chặt chẽ với mức lãi suất tín dụng. Nếu tỷ lệ lạm phát tăng cao làm
cho giá trị thực tế của vốn vay và lợi tức có xu hướng giảm xuống, điều đó sẽ tác động làm cho lãi suất tín
dụng có xu hướng tăng lên. Điều này có thể được giải thích bằng cả hai hướng tiếp cận.
Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa, để duy trì lãi suất
thực không đổi, khi tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng.
9

Thứ hai, khi công chúng dự đoán mức lạm phát tăng, họ sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc
dự trữ hàng hoá hoặc các dạng tài sản khác như vàng, ngoại tệ mạnh hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài nếu
có thể.
Cả hai xu hướng này diễn ra sẽ làm giảm cung vốn tín dụng và gây áp lực làm tăng lãi suất trên thị
trường. Từ mối quan hệ này cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc khắc phục tâm lý lạm phát đối
với việc ổn định lãi suất, ổn định và tăng trưởng kinh tế.
- Hiệu quả hoạt động của sản xuất kinh doanh
Trên phương diện lý thuyết lãi suất tín dụng sẽ giao động trong khoảng giới hạn sau:
0 < lãi suất tín dụng < suất lợi nhuận bình quân.
Điều này chứng tỏ lãi suất tín dụng có liên quan mật thiết với hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh và chịu sự chi phối của suất lợi nhuận bỡnh quân, một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả của
các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tỷ suất doanh lợi bình quân chính là nền tảng để xác định mức lãi
suất tín dụng một cách hợp lý.
- Tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước
Khi mức bội chi ngân sách nhà nước tăng, nhu cầu vay vốn tài trợ thiếu hụt ngân sách của Nhà
nước tăng ở mọi mức lãi suất, khi đó cầu vốn tín dụng tăng và làm tăng lãi suất. Mặt khác, bội chi ngân
sách sẽ tác động đến tâm lý công chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy mà sẽ gây áp lực tăng lãi
suất. Ngoài ra, khi có bội chi ngân sách, chính phủ thường gia tăng lượng trái phiếu phát hành. Lượng
cung trái phiếu trên thị trường tăng làm giá trái phiếu có xu hướng giảm xuống, lãi suất thị trường vì vậy
sẽ tăng lên.
Bên cạnh những nhân tố tác động nêu trên, lãi suất tín dụng cũn chịu ảnh hưởng của các chính
sách của Nhà nước (chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập, chính sách tỷ giá v.v…),
rủi ro tín dụng, chi phí hoạt động của ngân hàng, thuế đánh giá vào hoạt động ngân hàng v.v…
* Ở Việt Nam hiện nay lãi suất được áp dụng theo cơ chế bắt buộc.
c. Phân tích vai trò của lãi suất tín dụng
Lãi suất tín dụng là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng của nền kinh tế thị trường. Nó tác
động đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dõn.
- Lãi suất tín dụng là công cụ để điều tiết kinh tế vĩ mô và tạo việc làm cho người lao động
Nếu tăng hoặc giảm lãi suất cho vay sẽ làm cho vốn của doanh nghiệp giảm xuống hoặc tăng lên.
Do đó sẽ quyết định đến việc thu hẹp hay mở rộng sản xuất của một ngành hay một lĩnh vực nào đó, làm

thay đổi cơ cấu kinh tế. Vỡ vậy nú sẽ ảnh hưởng đến công ăn việc làm của người lao động. Điều đó có
nghĩa là lãi suất tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc điều tiết kinh tế vĩ mô và giải quyết tỡnh trạng
thất nghiệp trong xó hội.
Mặt khác khi tăng hoặc giảm lãi suất tiền gửi ngoại tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng ngoại
tệ chuyển vào trong nước. Do đó ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu về ngoại tệ dẫn đến sự thay đổi tỷ giá
và quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá ở trong nước.
Như vậy có thể khẳng định rằng lãi suất tín dụng là một công cụ quan trọng điều tiết kinh tế vĩ mô.
10
- Lãi suất tín dụng là công cụ điều chỉnh kinh tế vi mô
Khi từng khu vực hay trong nền kinh tế quốc dân bị xẩy ra những đột biến do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Trong những truờng hợp như vậy chính phủ thường sử dụng những công cụ kinh tế trong đó
có lãi suất tín dụng để điều chỉnh lại các quan hệ kinh tế, tạo điều kiện cho kinh tế khu vực, ngành hay
toàn bộ nền kinh tế phát triển.
Chính phủ có thể áp dụng mức lãi suất khác nhau giữa các khu vực, các ngành để điều hoà lưu
thông tiền tệ, đảm bảo cho sản xuất lưu thông hàng hoá phát triển trong từng lĩnh vực, từng ngành, tạo
mặt bằng giá cả hợp lý giữa các khu vực và các ngành.
- Lãi suất tín dụng là công cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại
Mỗi ngân hàng thương mại sẽ có chiến lược khách hàng khác nhau để thu hút khách hàng đến với
mỡnh thể hiện lãi suất ưu đói. Để tăng khối lượng nguồn vốn huy động đồng thời để mở rộng quan hệ tín
dụng với khách hàng, các ngân hàng thương mại có thể nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi và cho vay. Đây là
hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại. Để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, các ngân hàng
thương mại đều phải tìm mọi biện pháp giảm thấp chi phí kinh doanh và chi phí quản lý. Sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các ngân hàng thương mại tạo ra lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Lãi suất tín dụng là công cụ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư
Theo lý thuyết tài chính, chúng ta có phương trình đơn giản về thu nhập như sau:
Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm.
Phương trình này không những đúng với đặc điểm tài chính của các hộ gia đình, các doanh nghiệp
mà cả đối với nền tài chính quốc gia. Muốn tăng tỷ lệ tiết kiệm, khuyến khích đầu tư, biện pháp có hiệu
quả nhất là tăng lãi suất huy động vốn. Khi lãi suất huy động vốn tăng lên, các hộ gia đình sẽ xem xột để
giảm chi hoặc hoàn một số các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên, làm tăng tỷ lệ tiết kiệm trong tổng

thu nhập. Các khoản tiết kiệm này sẽ được sử dụng và gửi vào ngân hàng, vào quỹ bảo hiểm hay đầu tư
vào thị trường chứng khoán v.v…
Như vậy lãi suất tín dụng là công cụ can thiệp có hiệu lực để phân chia tỷ lệ quỹ tiêu dùng và tiết
kiệm…
d. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam để kích thích sản xuất phát triển thì việc điều
hành lãi suất phải thực hiện theo hướng như thế nào?
Ngân hàng Nhà nước có những thay đổi mang tính bước ngoặt trong điều hành lãi suất. Cơ chế lãi
suất thoả thuận áp dụng từ ngày 01/6/2002 đã xoá bỏ biên độ khống chế lãi suất cho vay, cho phép các tổ
chức tín dụng được tự thoả thuận lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam dựa theo quan hệ cung-cầu vốn và
mức độ tín nhiệm đối với khách hàng. Sang những tháng đầu năm 2003, Ngân hàng Nhà nwocs tiếp tục
điều chỉnh cơ chế lãi suất mà theo đó, lãi suất tái cấp vốn đóng vai trò là lãi suất trần, lãi suất tái chiết
khấu là lãi suất sàn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở đóng vai trò là công cụ
điều hành thường xuyên của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước còn sử dụng lãi suất
tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước làm phương tiện thường xuyên điều tiết lãi suất
liên ngân hàng; tiếp tục công bố lãi suất cơ bản nhằm mục đích định hướng thị trường.
11
Cơ chế lãi suất mới nhằm đảm bảo tính thị trường của lãi suất và tạo điều kiện khai thác triệt để
sức mạnh của cơ chế thị trường trong các hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô và vi mô. Các tổ chức tín dụng
đã chủ động, linh hoạt hơn trong quyết định đưa ra lãi suất kinh doanh của mình. Các nguồn lực đã được
khai thác nhiều hơn cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, hiệu quả của chính sách lãi suất vẫn còn hạn chế
do các yếu tố nền tảng của cơ chế này đang trong quá trình hoàn thiện.
Câu 2: Thế nào là lãi suất tín dụng ngân hàng? Trình bày các loại lãi suất tín dụng ngân
hàng? Lãi suất trái phiếu chính phủ có phải là một loại lãi suất tín dụng ngân hàng không? Tại sao?
Trả lời:
a. Khái niệm: Lãi suất tín dụng ngân hàng là lãi suất được áp dụng trong quan hệ tín dụng giữa
ngân hàng với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay; trong hoạt động tái cấp
vốn của Ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian và trong quan hệ giữa các ngân hàng với
nhau trên thị trường liên ngân hàng.
b. Các loại lãi suất tín dụng:
- Lãi suất tiền gửi: là lãi suất được áp dụng để tính tiền lãi phải trả cho người gửi tiền. Lãi suất tiền

gửi có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, quy mô tiền gửi. Sự biến động lãi suất tiền gửi ở
mức độ lớn không chỉ ảnh hưởng tới quy mô nguồn vốn của các ngân hàng mà còn ảnh hưởng mạnh tới
khối tiền M1 và qua đó tác động tới lạm phát. Chính vì vậy, việc áp dụng chính sách tăng mạnh lãi suất
tiền gửi có hiệu quả cao trong kiềm chế, đẩy lùi lạm phát.
- Lãi suất cho vay: là lãi suất được áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả ngân hàng.
Về mặt nguyên tắc, mức lãi suất cho vay bình quân phải cao hơn mức lãi suất tiền gửi bình quân và có sự
phân biệt giữa các khoản vay với thời hạn khác nhau, mức rủi ro khác nhau. Sự thay đổi lãi suất tiền vay
có tác động tới quy mô cho vay và khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng trung gian.
- Lãi suất chiết khấu: là lãi suất được áp dụng khi ngân hàng trung gian cho khách hàng vay dưới
hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán và thoả mãn các điều kiện chiết khấu theo
quy định. Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân
hàng phát tiền vay cho khách hàng. Mức chiết khấu được quyết định bởi tình hình cung-cầu vốn trên thị
trường tín dụng, chất lượng của giấy tờ có giá, thời hạn chiết khấu cũng như quan hệ giữa ngân hàng với
khách hàng.
- Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất được áp dụng khi Ngân hàng trung ương tái cấp vốn cho các
ngân hàng trung gian dưới hình thức chiết khấu lại các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của các
ngân hàng này.
Lãi suất tái chiết khấu do Ngân hàng trung ương ấn định căn cứ vào mục tiêu của chính sách tiền
tệ trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động lãi suất trên thị trường tiền tệ.
- Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường
liên ngân hàng.
Lãi suất liên ngân hàng thường được ấn định hàng ngày vào buổi sáng (lãi suất hàng ngày). Nó
được hình thành trên cơ sở quan hệ cung-cầu tiền Ngân hàng trung ương của các tổ chức tín dụng và chịu
sự chi phối bởi lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng trung ương.
12
- Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh
doanh của mình.
Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tuỳ theo từng nước, nó có thể do Ngân hàng trung
ương ấn định hoặc có thể do bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể
của ngân hàng mình và đó là mức lãi suất được áp dụng cho các khách hàng có mức rủi ro thấp nhất. Một

số nước lại sử dụng lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất cơ bản vì thực chất lãi suất cơ bản của các ngân
hàng rất gần mới mức lãi suất thị trường liên ngân hàng. Mặc dù khác nhau, lãi suất cơ bản của hầu hết
các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và đó là mức lãi suất tối thiểu bù đắp được chi phí cũng như
đảm bảo mức lợi nhuận bình quân cho phép.
c. Lãi suất trái phiếu chính phủ không phải là một loại lãi suất tín dụng ngân hàng vì trái
phiếu do nhà nước phát hành và lãi suất sẽ do nhà nước ấn định vì thế lãi suất trái phiếu chính phủ
là lãi suất tín dụng nhà nước.
Câu 3: Thế nào là lãi suất tín dụng thương mại? Cách xác định lãi suất tín dụng thương
mại? Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng thương mại? Phân biệt sự khác nhau giữa lãi
suất tín dụng thương mại và lãi suất tín dụng ngân hàng?
Trả lời:
a. Khái niệm: Lãi suất tín dụng thương mại là lãi suất được áp dụng khi các doanh nghiệp cho
nhau vay dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá.
* Cách xác định lãi suất tín dụng thương mại:
Lãi suất TDTM
=
Tổng giá cả hàng
hoá bán chịu
_
Tổng giá cả hàng
hoá bán trả tiền ngay
x
100
Tổng giá cả hàng hoá bán trả tiền ngay
b. Phân biệt sự khác nhau giữa lãi suất tín dụng thương mại và lãi suất tín dụng ngân hàng:
CHƯƠNG III:
Câu 1: Ngân hàng trung ương là gì? Phân tích một trong các chức năng của ngân hàng
trung ương? Phân biệt sự khác nhau giữ hệ thống ngân hàng 1 cấp và ngân hàng 2 cấp ở Việt Nam?
Trả lời:


a. Khái niệm: NHTƯ là tổ chức duy nhất phát hành tiền theo các quy định trong luật hoặc được
chính phủ phê duyệt (mệnh giá tiền, loại tiền và mức phát hành).
b. Các chức năng của ngân hàng trung ương.
1. Ngân hàng Trung ương là ngân hàng phát hành tiền tệ
- Ngân hàng Trung ương là tổ chức duy nhất phát hành tiền theo quy định của pháp luật hoặc được
Chính phủ phê duyệt (mệnh giá tiền, loại tiền, mức phát hành) nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho
hệ thống lưu thông tiền tệ quốc gia. Giấy bạc ngân hàng và tiền kim loại do Ngân hàng Trung ương phát
hành là phương tiện thanh toán hợp pháp duy nhất trong cả nước và được thanh toán không hạn chế.
- Các kênh phát hành tiền của Ngân hàng trung ương:
13
+ Phát hành tiền qua kênh Ngân sách Nhà nước: Khi Ngân sách Nhà nước thâm hụt, chính phủ có
thể có vay tiền của Ngân hàng trung ương và vay nước ngoài. Nếu chính phủ vay tiền của Ngân hàng
trung ương, Ngân hàng trung ương phải tạm ứng cho Ngân sách Nhà nước, do đó tiền của Ngân hàng
trung ương được đưa vào lưu thông thông qua chính phủ. Nếu chính phủ vay nước ngoài, vì nước ngoài
thường cho vay bằng hàng hoá, vàng hoặc ngoại tệ, do đó những tài sản này khi đem về nước được ký
quỹ tại Ngân hàng trung ương, chuyển đổi thành tiền mặt để chi tiêu trong nước, nghĩa là tiền của Ngân
hàng trung ương đã được đưa vào lưu thông thông qua sự chi tiêu của chính phủ.
+ Thông qua nghiệp vụ tín dụng giữa Ngân hàng trung ương với các ngân hàng thương mại: Căn
cứ vào nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, căn cứ vào lượng tiền cung ứng tăng thêm trong năm kế hoạch,
Ngân hàng trung ương xác định hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại. Thực hiện hạn mức
này, Ngân hàng trung ương cấp tín dụng tín dụng cho các ngân hàng thương mại. Như vậy, qua việc cho
vay của Ngân hàng trung ương với các ngân hàng thương mại, Ngân hàng trung ương phát hành một khối
lượng tiền vào lưu thông để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ. Các ngân hàng thương mại nhận được
một khoản tín dụng từ Ngân hàng trung ương giúp các ngân hàng thương mại mở rộng công tác đầu tư và
cho vay đối với nền kinh tế.
- Kênh thị trường mở: thị trường mở là nơi mua bán các giấy tờ có giá thường là ngắn hạn. Thông
qua việc mua các giấy tờ có giá trên thị trường mở, Ngân hàng trung ương đã đưa một lượng tiền vào lưu
thông thông qua những người bán giấy tờ có giá. Đây là một nghiệp vụ phát hành thanh khiết, bởi lẽ tiền
tăng thêm trong lưu thông đã được cân đối bởi một lượng chứng khoán. Hiện nay, hầu hết các quốc gia
đều áp dụng nghiệp vụ phát hành này.

- Phát hành tiền thông qua thị trường hối đoái: Khi Ngân hàng trung ương mua vàng, ngoại tệ trên
thị trường hối đoái, dự trữ vàng, ngoại tệ của Ngân hàng trung ương tăng, đồng thời một lượng tiền cung
ứng được tăng trong lưu thông và ngược lại.
Ngày nay, việc phát hành tiền được đảm bảo bằng giá trị hàng hoá thông qua cơ chế tín dụng.
Theo chế độ này, việc phát hành giấy bạc được thực hiện qua cơ chế tín dụng ngắn hạn trên cơ sở đảm
bảo bằng giá trị hàng hoá thể hiện trên kỳ phiếu thương mại (thương phiếu) và các chứng từ nợ khác. Qua
đó làm cho việc phát hành gắn với nhu cầu thực tế của lưu thông hàng hoá, đảm bảo cho tổng lượng tiền
tệ phù hợp với tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Việc phát hành này của Ngân hàng trung
ương được thực hiện bằng phương pháp tái chiết khấu các chứng từ có giá của các tổ chức tín dụng. Việc
phát hành tiền thông qua cơ chế tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng vì nó xuất phát từ nhu cầu tiền tệ phát
sinh do tăng trưởng kinh tế đòi hỏi, đồng thời tạo khả năng để Ngân hàng trung ương thực hiện kiểm soát
được khối lượng tiền tệ cung ứng theo nhu cầu của mục tiêu ổn định tiền tệ.
2. Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của các ngân hàng
Ngân hàng Trung ương thực hiện việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín
dụng cho các ngân hàng thương maị, các tổ chức tín dụng và kiểm soát quá trình tạo tiền của các ngân
hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. Ở đây, ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trở
14
thành khách hàng của Ngân hàng trung ương. Khi thực hiện chức năng này, Ngân hàng trung ương cung
cấp các dịch vụ sau:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng, bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán:
+ Tiền gửi dự trữ bắt buộc được tính theo tỷ lệ % trên từng loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ
hạn. Tỷ lệ này do Ngân hàng trung ương quy định trong từng thời kỳ. Mục đích của dự trữ bắt buộc là
nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của từng ngân hàng, của cả hệ thống và quan trọng hơn là để Ngân
hàng trung ương kiểm soát quá trình tạo tiền của hệ thống tín dụng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của
thị trường tiền tệ, các hình thức bảo hiểm tiền gửi đã ra đời đã giảm bớt khả năng xảy ra nhu cầu rút tiền
thông thường. Vì vậy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngày càng giảm ở hầu hết các quốc gia. Hiện nay, tỷ lệ dự trữ
bắt buộc được đề cập đến với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ.
+ Tiền gửi thanh toán của các tổ chức tín dụng: Các tổ chức tín dụng khi được phép hoạt động đều
phải mở tài khoản tại Ngân hàng trung ương và gửi tiền vào tài khoản đó.
- Cho vay đối với các ngân hàng trung gian: Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, Ngân

hàng trung ương luôn là chủ nợ và là người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng thông qua
hoạt động tái chiết khấu các thương phiếu và cho vay có thế chấp các giấy tờ có giá.
- Tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt: Các tổ chức tín dụng đều mở tài khoản và gửi tiền vào
tài khoản này tại Ngân hàng trung ương nên các tổ chức tín dụng có thể thanh toán không dùng tiền mặt
tại Ngân hàng trung ương thông qua hình thức thanh toán bù trừ.
- Thực hiện quản lý Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng: cấp giấy phép hoạt động; quy định nội
dung phạm vi hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng; kiểm tra giám sát hoạt động của các tổ chức
tín dụng để đảm bảo an toàn, ổn định và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền vào ngân hàng; đình chỉ hoạt
động hoặc giải thể ngân hàng trong các trường hợp vi phạm luật lệ hoặc mất khả năng tài chính sau khi đã
áp dụng các biện pháp tác động.
3. Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của Chính phủ
- Ngân hàng trung ương là người cung ứng các phương tiện thanh toán cho hệ thống kho bạc Nhà
nước, nhận tiền gửi của kho bạc Nhà nước,cho Chính phủ vay khi ngân sách thiếu hụt, bảo quản dự trữ
quốc gia về ngoại tệ, vàng, bạc và các phương tiện có giá trị ngoại tệ khác.
- Ngân hàng trung ương thay mặt Nhà nước quản lý các hoạt động tiền tệ, tín dụng và thanh toán
đối nội cũng như đối ngoại của Nhà nước.
- Ngân hàng trung ương thay mặt Nhà nước ký kết hoặc tham gia ký kết các hiệp định tiền tệ, tín
dụng thanh toán với nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế.
- Ngân hàng trung ương là người thay mặt chính phủ tham gia vào một số tổ chức tài chính quốc
tế với cương vị là thành viên của các tổ chức này.
4. Chức năng quản lý Nhà nước của Ngân hàng Trung ương
- Ngân hàng Trung ương có trách nhiệm xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Vì mọi
hoạt động của Ngân hàng trung ương và hệ thống ngân hàng đều ảnh hưởng đến khối lượng tiền trong lưu
thông và vì thế nó có thể sử dụng các công cụ có hiệu quả nhất để tác động vào khối lượng tiền đó. Việc
15
chủ động kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền trong nền kinh tế là linh hồn của chính sách tiền tệ. Đến
lượt nó, chính sách tiền tệ là trọng tâm hoạt động của Ngân hàng Trung ương. Điều này có nghĩa là mọi
hoạt động của Ngân hàng Trung ương đều nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ và bị chi phối bởi
mục tiêu đó.
- Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng. Với tư cách là ngân hàng của các ngân

hàng, Ngân hàng Trung ương không chỉ cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuần tuý cho các khách hàng
của nó mà thông qua các hoạt động kinh doanh đó, Ngân hàng Trung ương thực hiện vai trò điều tiết,
giám sát thường xuyên hoạt động kinh doanh của các ngân hàng kinh doanh nhằm hai mục đích là đảm
bảo sự ổn định trong hoạt động ngân hàng và bảo vệ lợi ích của khách hàng, của người gửi tiền vào ngân
hàng kinh doanh:
+ Đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Khác với các tổ chức kinh doanh khác, kinh doanh
trong lĩnh vực tài chính tiền tệ cần thiết phải được kiểm soát và điều tiết chặt chẽ là vì những nguyên
nhân sau:
+/ Các ngân hàng đảm nhiệm vai trò đặc biệt trên thị trường vốn nói riêng và trong toàn bộ nền
kinh tế nói chung.
+/ Hoạt động của các ngân hàng liên quan đến hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội nên sự sụp
đổ của một ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền và toàn bộ hệ thống.
+/ Bản chất hoạt động của các ngân hàng là chứa đựng rủi ro.
+/ Sự tồn tại và phát triển của các trung gian tài chính nói chung và ngân hàng nói riêng phụ thuộc
vào lòng tin của công chúng với tư cách là người gửi tiền.
+ Bảo vệ công chúng đầu tư: Chức năng thanh tra, giám sát của Ngân hàng Trung ương còn nhằm
đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong quan hệ giữa ngân hàng và các khách hàng. Điều này vừa nhằm
bảo vệ lợi ích hợp pháp của khách hàng, vừa nhằm thúc đẩy cạnh tranh và hiệu quả thông qua quy định về
chất lượng và sự cập nhật của thông tin mà ngân hàng có nghĩa vụ cung cấp cho những người tham gia thị
trường. Điều này giúp cho công chúng với tư cách là người đầu tư và người sử dụng dịch vụ tài chính có
khả năng và cơ hội lựa chọn các ngân hàng đáng tin cậy và các dịch vụ tài chính có chất lượng. Các ngân
hàng vì thế sẽ luôn quan tâm tới minh bạch và chất lượng của Bảng tổng kết tài sản trong chiến lược cạnh
tranh khách hàng.
c. Phân biệt sự khác nhau giữa hệ thống ngân hàng 1 cấp và ngân hàng 2 cấp ở Việt Nam.
Câu 2: Phân tích vai trò của ngân hàng trung ương? Hãy cho biết ngân hàng trung ương
của Việt Nam được tổ chức theo ngân hàng trung ương trực thuộc quốc hội hay trực thuộc chính
phủ?
* Phân tích vai trò của ngân hàng trung ương:
1. Điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông
Trong nền kinh tế thị trường, mức cung tiền tệ có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế thông

qua sự thúc đẩy mức tăng, giảm của tổng sản phẩm quốc nội. Do vậy, điều tiết khối lượng tiền trong lưu
16
thông cho phù hợp với yêu cầu ổn định và phát triển kinh tế giữ vị trí quan trọng bậc nhất trong các nhiệm
vụ của Ngân hàng trung ương.
Ngân hàng trung ương thực hiện vai trò này thông qua các công cụ điều tiết trực tiếp và gián tiếp
như lãi suất, hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, hoạt động thị trường mở,
2. Thiết lập và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế
Ngân hàng trung ương tham gia vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nhằm thiết
lập một cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả cao.
Trong điều kiện phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, Ngân hàng trung ương phải
góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế hiện có cho phù hợp với thực tiễn của nền kinh tế đất nước và hội
nhập với sự phát triển kinh tế trong khu vực cũng như trên thế giới.
3. Ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia
Trong nền kinh tế hiện đại, ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia là một đòi hỏi khách quan và
có tầm quan trọng đặc biệt. Để thực hiện được việc này, một mặt Ngân hàng trung ương góp phần cân đối
tổng cầu và tổng cung của toàn xã hội thông qua việc ổn định sức mua của của đồng tiền quốc gia. Mặt
khác, Ngân hàng trung ương tác động mạnh đến việc cân đối cung cầu ngoại tệ để giữ vững tỷ giá hối
đoái. Nhờ đó, vừa đẩy mạnh xuất khẩu, vừa tăng cường nhập khẩu phục vụ cho công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ổn định sức mua đồng tiền quốc gia không có nghĩa là phải cố định giá trị của nó mà sức mua đối
nội và đối ngoại có thể biến động lên xuống trong một thời kỳ nào đó. Tuy nhiên, sự biến động ấy cần
được kiểm soát, duy trì ở mức độ hợp lý cho phép và phải có lợi cho nền kinh tế.
4. Chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng
Với chức năng ngân hàng của các ngân hàng, Ngân hàng trung ương chỉ huy toàn bộ hệ thống
ngân hàng bằng những định hướng có căn cứ khoa học, sự nắm bắt các tín hiệu thị trường nhanh nhạy, sự
phân tích sắc bén các diễn biến trong các lĩnh vực tín dụng, thanh toán, thị trường tiền tệ, thị trường vốn,
thị trường vàng và từ đó đưa ra các giải pháp điều chỉnh thích hợp.
Việc chỉ huy của Ngân hàng trung ương đối với hệ thống ngân hàng phải dựa vào hành lang pháp
lý nghiêm ngặt, đội ngũ cán bộ điều hành, cán bộ nghiệp vụ thành thạo về chuyên môn, liêm khiết, trong
sạch về phẩm chất.

* Ở Việt Nam Ngân hàng trung ương được tổ chức theo ngân hàng trung ương trực thuộc
chính phủ.
Câu 3: Trình bày các mục thiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ? Việc thực hiện các mục
tiêu này trong ngắn hạn có mâu thuẫn với nhau không? Vì sao?
Trả lời:
a. Các mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ:
- Ổn định tiền tệ:
Ổn định tiền tệ bao gồm ổn định sức mua đối nội và sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia, nó
được thể hiện thông qua việc kiểm soát lạm phát và ổn định tỷ giá hối đoái. Giá trị đối nội của đồng tiền
17
là sức mua của nó đối với hàng hoá và dịch vụ ở trong nước, giá trị đối ngoại của đồng tiền được đo bằng
tỷ giá hối đoái thả nổi.
Kiểm soát lạm phát và duy trì lạm phát là mục tiêu của tất cả các nền kinh tế. Kiểm soát lạm phát
nhằm ổn định giá cả của hàng hoá là tiền đề để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống. Khi lạm phát ở
mức thấp, tiền lương thực tế của người lao động được đảm bảo, góp phần ổn định và nâng cao mức sống
của người dân. Đồng thời, khi lạm phát ở mức thấp tạo ra sự tin tưởng của các nhà đầu tư,người tiêu dùng
vào giá trị đồng tiền, qua đó thúc đẩy và mở rộng chi tiêu, đầu tư, làm tăng tổng cầu, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Bên cạnh đó, ổn định tiền tệ còn bao gồm cả việc chống tình trạng thiểu phát. Bởi vì nếu thiểu
phát xảy ra thì tổng cầu suy giảm, làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập của dân cư giảm và gây
ra những hậu quả xấu đối với xã hội.
Việc ổn định tỷ giá hối đoái có tác động tốt đến hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá hối đoái
tăng(giá đồng nội tệ tăng cao hơn so với ngoại tệ) sẽ làm giảm xuất khẩu, từ đó làm giảm GDP.
- Tăng trưởng kinh tế:
Mục tiêu của bất kỳ chính sách kinh tế vĩ mô nào đều là nền kinh tế tăng trưởng ổn định và phát
triển bền vững. Thực hiện mục tiêu này, Ngân hàng trung ương thường cung thêm một khối lượng tiền
vào lưu thông. Khi đó, lãi suất giảm xuống sẽ kich thích đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng tổng cầu, tăng
tổng sản phẩm quốc nội.
- Tạo công ăn việc làm:
Thất nghiệp là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị trường. Chính sách tiền tệ hướng vào việc
tạo công ăn việc làm nhiều hơn thông qua mở rộng đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, chống suy thoái

kinh tế.
- Ổn định thị trường tài chính:
Tạo một nền tảng tài chính ổn định để hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng có
thể hoạt động hiệu quả thông qua thu thập thông tin, hướng dẫn, ngăn ngừa rủi ro theo hướng quản lý các
hoạt động của chúng phù hợp với các mục tiêu của nền kinh tế.
* Việc thực hiện các mục tiêu này trong ngắn hạn có mâu thuẫn với nhau.
Giữa kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm có nhiều mâu thuẫn với nhau.
Vì thông thường, khi kiềm chế lạm phát thì tăng trưởng kinh tế giảm dần, dẫn đến suy thoái kinh tế và
tăng số người thất nghiệp. Ngược lại, khi mở rộng sản xuất, khắc phục suy thoái, đưa đến tăng trưởng
kinh tế và tạo thêm công ăn việc làm thì rất khó kiềm chế lạm phát.
Câu 4: Ở Việt Nam hiện nay việc điều hành chính sách tiền tệ được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Ở Việt nam hiện nay việc điều hành chính sách được sử dụng hai công cụ: Công cụ trực tiếp và
công cụ gián tiếp.
a. Công cụ trực tiếp
Công cụ trực tiếp là các công cụ mà thông qua chúng, Ngân hàng trung ương có thể tác động một
cách trực tiếp đến các mục tiêu mà không phải thông qua một biến số trung gian nào khác.
18
- Ấn định lãi suất tiền gửi: Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng
nguồn vốn cho vay và ngược lại.
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay: Ngân hàng trung ương có thể quy định khung lãi suất
bắt buộc các tổ chức tín dụng phải thực hiện.
- Phát hành tín phiếu Ngân hàng trung ương: Trong một số trường hợp như có lạm phát cao,
Ngân hàng trung ương có thể phát hành tín phiếu để làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông. Việc phân
bổ tín phiếu mang tính chất bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng.
- Phát hành trực tiếp cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư: Trong điều kiện Ngân sách Nhà
nước thiếu hụt, Ngân hàng trung ương phát hành tiền để bù đắp sự thiếu hụt ấy nhưng nó sẽ làm tăng tỷ lệ
lạm phát. Phát hành trực tiếp cho đầu tư thực sự cần thiết trong nền kinh tế suy thoái nhằm huy động mọi
nguồn lực cho phát triển.
b. Công cụ gián tiếp

Công cụ gián tiếp là công cụ mà sự tác động của chúng vào các mục tiêu trung gian được thông
qua một biến số khác thuộc về sự kiểm soát của Ngân hàng trung ương và phải thông qua cơ chế tự điều
tiết của các lực lượng thị trường.
- Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải duy trì theo quy định
của Ngân hàng trung ương. Nó được xác định theo công thức:
- Tái cấp vốn: Đây là cách để Ngân hàng trung ương đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống chế
về số lượng và chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
Nếu căn cứ vào mục đích, các khoản tái cấp vốn của Ngân hàng trung ương đối với các tổ chức tín
dụng bao gồm: cho vay thanh toán đối với các ngân hàng thiếu hụt tạm thời, cho vay bổ sung nguồn vốn
ngắn hạn, cho vay thời vụ để đáp ứng nhu cầu thời vụ của một số ngân hàng.
Thông qua việc ấn định lãi suấ tái cấp vốn, Ngân hàng trung ương tác động đến chi phí vay mượn
của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng trung ương. Nếu lãi suất tái cấp vốn tăng lên, chi phí các khoản
tiền vay từ Ngân hàng trung ương tăng lên, các tổ chức tín dụng sẽ bất lợi trong vay vốn. Trong điều kiện
đó, các tổ chức tín dụng không có khả năng bành trướng tín dụng.
Điều kiện để Ngân hàng trung ương tái cấp vốn là:
+ Còn hạn mức tín dụng dành cho tổ chức tín dụng đó.
+ Các khoản tín dụng đem đến tái chiết khấu phải lành mạnh và bảo đảm khả năng thu hồi nợ.
- Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các chứng khoán ngắn
hạn của Ngân hàng trung ương trên thị trường tiền tệ.
Câu 6: Hãy nêu các công cụ của chính sách tiền tệ. Hãy chỉ ra cơ chế tác động của công cụ
dự trữ chính sách tiền tệ? Khi ngân hàng trung ương thực hiện nghiệp vụ thị trường mở tác động
như thế nào đến việc tăng giảm cung tiền trong nền kinh tế?
Trả lời:
19
Tiền dự trữ bắt
buộc
Tổng số tiền gửi phải
tính dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc

= x
a. Các công cụ của chính sách tiền tệ:
+ Công cụ trực tiếp
- Ấn định lãi suất tiền gửi
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay
- Ấn định hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín dụng
- Phát hành tín phiếu Ngân hàng trung ương
- Phát hành trực tiếp cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư
+ Công cụ gián tiếp
- Dự trữ bắt buộc
- Tái cấp vốn
- Nghiệp vụ thị trường mở
b. Cơ chế tác động của công cụ dự trữ chính sách tiền tệ.
c. Khi ngân hàng trung ương thực hiện nghiệp vụ thị trường mở tác động như thế nào đến
việc tăng giảm cung tiền trong nền kinh tế?
Ở các nước phát triển, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ quan trọng trong việc thực hiện chính
sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương nhằm đạt được mục đích là điều tiết mức dự trữ của tổ chức tín
dụng, điều tiết mức cung tiền.
Nếu Ngân hàng trung ương mua các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ sẽ làm tăng khối lượng
tiền trong lưu thông, do đó sẽ mở rộng tín dụng và ngược lại. Đồng thời, với nghiệp vụ mua bán này,
Ngân hàng trung ương làm tăng hay giảm dự trữ của ngân hàng thương mại và từ đó làm tăng hay giảm
khối lượng tiền tệ.
Công cụ thị trường mở có ưu điểm là trực tiếp tác động ngay đến dự trữ của các tổ chức tín dụng
và buộc chúng phải làm gia tăng hay giảm tín dụng đối với nền kinh tế. Nếu không có sự tham gia mua
bán của Ngân hàng trung ương trên thị trường tiền tệ mà chỉ có việc mua bán tín phiếu kho bạc giữa các
tổ chức tín dụng với nhau thì khối lượng tiền tệ sẽ không thay đổi bởi vì một tổ chức tín dụng này bán tín
phiếu cho tổ chức tín dụng khác chỉ là sự chuyển dịch tín phiếu và một phần dự trữ thừa từ tổ chức tín
dụng này sang tổ chức tín dụng khác.
CHƯƠNG IV:
Câu 1: Ngân hàng thương mại là gì? Phân tích chức năng của ngân hàng thương mại? Xét

theo hình thức pháp lý ở Việt Nam có những ngân hàng thương mại nào?
Trả lời:
a. Khái niệm: Ngân hàng thương mại là một loại hình ngân hàng trung gian hoạt động vì mục
đích lợi nhuận thông qua việc kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu.
b. Các chức năng của ngân hàng thương mại.
1. Chức năng trung gian tín dụng
20
- Chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của ngân hàng thương
mại. NHTM thực hiện chức năng này thông qua hai hoạt động:
+ Huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế.
+ Cho vay đối với nền kinh tế.
- Những hoạt động trên của ngân hàng thương mại mang tính chất kinh doanh bởi vì khi cho vay,
ngân hàng thương mại đặt ra một mức lãi suất cao hơn so với khi huy động vốn.
Như vậy, với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đã hỗ trợ, khắc phục những
hạn chế của cơ chế phân phối vốn trực tiếp, tạo ra một kênh điều chuyển vốn quan trọng. Kết quả đó góp
phần nâng cao hiệu quả trong việc điều chuyển vốn của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động.
2. Chức năng trung gian thanh toán
Nếu như mọi khoản thanh toán được thực hiện trực tiếp thì chi phí để thực hiện việc chi trả rất lớn
như chi phí in, bảo quản, Với sự ra đời của ngân hàng thương mại, hầu hết các khoản chi trả về hàng
hoá, dịch vụ của xã hội đều được thực hiện qua ngân hàng với những hình thức thanh toán thích hợp, thủ
tục đơn giản và ngày càng hoàn thiện.
Ngân hàng làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng
như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tìa khoản
tiền gửi củ khách hàng thu tiền bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế. Trước hết thanh
toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông xã hội và an toàn. Khả
năng lựa chọn hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thích hợp cho phép khách hàng thực hiện thanh
toán nhanh chóng và hiệu quả. Điều này góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân
chuyển vốn và nâng cao hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội. Bên cạnh đó, việc cung ứng một dịch

vụ thanh toán không dùng tiền mặt có chất lượng sẽ làm tăng uy tín của ngân hàng và do đó tạo điều kiện
để thu hút nguồn vốn tiền gửi.
Chu chuyển tiền tệ hiện nay chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, do vậy chỉ khi
chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện thì vai trò của ngân hàng thương mại mới được nâng
cao hơn. Ở các nước phát triển có hệ thống ngân hàng hiện đại, các hình thức thanh toán qua ngân hàng
đa dạng và phong phú, mọi khoản giao dịch của xã hội kể cả của cá nhân đều được thực hiện thông qua
ngân hàng.
3. Chức năng tạo tiền
NHTM thực hiện chức năng này thông qua nghiệp vụ tín dụng và thanh toán không dùng tiền mặt
giữa các khách hàng. Quá trình tạo tiền của NHTM dựa trên cơ sở tiền gửi của xã hội hoặc khoản tiền
nhận được từ ngân hàng trung ương nhưng số tiền này được nhân lên rất nhiều lần thông qua một cơ chế
tạo tiền trong toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Bất kỳ ngân hàng nào được phép huy động tiền gửi không kỳ hạn và cung cấp các dịch vụ thanh
toán cho khách hàng đều có khả năng tạo tiền gửi. Mức độ mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng
21
tiền gửi (m). Hệ số này được quyết định bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc (r
d
), tỷ lệ sử dụng tiền mặt
của khách hàng (c), tỷ lệ dự trữ dư thừa (r
e
). Chúng ta sẽ nghiên cứu một ví dụ về quá trình tạo tiền với
giả thiết c = 0, r
e
= 0.
Ví dụ: Có một hệ thống NHTM. Giả sử có một khách hàng A đến gửi vào ngân hàng A với số tiền
là 1000 triệu VND, tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHTƯ quy định là 10%. Ta có bảng số liệu sau:
Ngân hàng Lượng tiền gửi
tăng thêm
Lượng dự trữ
tăng thêm

Lượng cho vay
Tăng thêm
A 1000 100 900
B 900 90 810
C 810 81 729


Tổng cộng 10.000 1.000 9.000
Ta thấy, lượng tiền gửi tăng thêm ở các ngân hàng thương mại là một dãy số nhân lùi vô hạn với
số hạng đầu tiên là U
1
= 1000 và công bội là q = 1 - r
b
= 1 - 0,1 = 0,9. Để tính tổng lượng tiền gửi tăng
thêm của hệ thống NHTM ta áp dụng công thức tính tổng của một dãy số nhân:
Như vậy, nếu các giả thiết trên được duy trì thì với số tiền mặt ban đầu là 1000 triệu thì số tiền ghi
có trên tài các khoản tiền gửi của khách hàng tại các ngân hàng là 10.000 triệu với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là
10%, tức là khả năng mở rộng tiền gửi tối đa của hệ thống ngân hàng thương mại tỷ lệ nghịch với tỷ lệ dự
trữ bắt buộc.
9
Tương tự, Lượng cho vay tăng thêm là C
n
= = 9.000 tr đồng
1 - 0,9
1
và dự trữ bắt buộc của cả hệ thống là C
n
= = 1.000 tr đồng
1 - 0,9
Mở rộng tiền gửi là khả năng vốn có của hệ thống ngân hàng thương mại gắn liền với hoạt động

tín dụng và thanh toán. Khi ngân hàng cung ứng tín dụng nghĩa là nó tạo ra tiền và làm tăng lượng tiền
cung ứng; khi thu nợ lượng tiền cung ứng giảm xuống. Như vậy, hoạt động tín dụng đóng vai trò như
kênh điều tiết lượng tiền trong lưu thông làm cho nó phù hợp với chu kỳ luân chuyển hàng hoá. Việc đảm
bảo chất lượng của hoạt động tín dụng quyết định hiệu quả của kênh điều tiết này.
c. Xét theo hình thức pháp lý ở Việt Nam có những ngân hàng thương mại:
22
S
n
=
U
1
1- q
1000
1- 0,9
= = 10.000 tr đồng
Câu 2: Phân tích vai trò của ngân hàng thương mại? Phân biệt sự khác nhau giữa ngân
hàng thương mại và ngân hàng chính sách? Trình bày các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng
thương mại?
Trả lời:
a. Phân tích vai trò của ngân hàng thương mại.
1. Ngân hàng thương mại là công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất
- Ngân hàng thương mại giúp các doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộng sản xuất và nâng cao hiệu
quả kinh doanh thông qua việc cho vay ngắn hạn và tài trợ cho các dự án đầu tư trung và dài hạn.
- Các ngân hàng thương mại góp phần phân bố hợp lý các nguồn lực giữa các vùng trong quốc
gia, tạo điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế.
- Ngân hàng thương mại tài trợ cho các công trình xây dựng cơ bản của Nhà nước, do đó tăng
cường cơ sở vật chất cho xã hội.
- Ngân hàng thương mại góp phần giám sát kỷ luật tài chính quốc gia.
2. Ngân hàng thương mại tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của NHTƯ
- Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về NHTƯ. Để thực thi chính sách tiền tệ, NHTƯ phải

sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, Chính ngân hàng thương mại là chu thể chịu sự tác
động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác
động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế bởi vì hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại gắn
liền với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế.
3. Ngân hàng thương mại là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia
- Với xu hướng phát triển của nền kinh tế là hướng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới
nên việc mở rộng giao lưu kinh tế là một tất yếu. Để hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động kinh tế này đạt
được hiệu qủa cao, góp phần khẳng định vị trí và tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trên trường
quốc tế thì vai trò của ngân hàng thương mại là không thể thiếu được thông qua nghiệp vụ tài trợ xuất
nhập khẩu, quan hệ thanh toán với các tổ chức tài chính, ngân hàng và doanh nghiệp quốc tế, giúp cho
việc thanh toán, trao đổi mua bán được diễn ra nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và có hiệu quả.
b. Phân biệt sự khác nhau giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng chính sách.
c. Các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại.
1. Nghiệp vụ huy động vốn
* Vốn tiền gửi:
Huy động tiền gửi là hình thức huy động vốn phổ biến của ngân hàng thương mại. Xã hội ngày
nay phát triển rất nhanh, các nguồn vốn tiền gửi ngày càng phong phú và phức tạp. Song về mặt kỹ thuật
ngân hàng các khoản tiền gửi có thể được chia thành tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi
tiết kiệm.
+ Tiền gửi không kỳ hạn:
23
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi vó thể rút ra bất cứ lúc nào, nó có thể là tiền
gửi thanh toán hoặc tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý. Đặc trưng của nguồn vốn này đối với ngân hàng
thương mại là biến động thường xuyên. Tuy nhiên, đây là nguồn vốn quan trọng đối với kinh doanh ngân
hàng.
+ Tiền gửi có kỳ hạn:
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau một thời gian nhất định từ một
vài tháng đến một vài năm. Mục đích của người gửi tiền là lấy lãi và ngân hàng có thể chủ động kế hoạch
hoá việc sử dụng nguồn vốn này vì tính thời hạn của nó. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời hạn gửi
tiền và sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng trên cơ sở xem xét đến mức độ an toàn của ngân

hàng cũng như quan hệ cung cầu về vốn tại thời điểm đó. Tuy nhiên, để tạo nên tính lỏng cho loại tiền gửi
này nhằm hấp dẫn khách hàng, ngân hàng có thể cho phép khách hàng được rút tiền trước hạn với những
khoản phạt đáng kể.
- Tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm là tiền để dành của dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi.
Hình thức phổ biến của loại tiền gửi này là tiết kiệm có sổ; người gửi tiền được ngân hàng cấp cho một
cuốn sổ dùng để ghi tiền gửi vào và tiền rút ra, đồng thời quyển sổ này cũng xác nhận số tiền đã gửi.
Ở Việt nam, các hình thức tiền gửi tiết kiệm phổ biến là:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng có thể gửi nhiều lần và rút ra
bất cứ lúc nào.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là loại tiền gửi được rút ra sau một thời gian nhất định. Tuy nhiên,
nếu khách hàng có nhu cầu rút trước hạn có thể được đáp ứng nhưng phải chịu lãi suất thấp.
+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: thường là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn, người gửi tiền
ngoài việc được ngân hàng trả lãi còn được ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục đích bổ sung thêm vốn để
mua sắm các phương tiện phục vụ nhu cầu tiêu dùng.
Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm được gọi chung là tiền gửi phi giao dịch. Chúng có đặc
điểm chung là được hưởng lãi và chủ những tài khoản naydf
Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn vốn của ngân hàng thương
mại, là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh doanh. Chính vì vậy, người ta gọi ngân hàng thương mại là
ngân hàng ký thác hay ngân hàng tiền gửi.
* Phát hành các chứng từ có giá:
Là việc ngân hàng thương mại phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng để
huy động vốn. Trong hình thức huy động này, ngân hàng chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội
nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng.
* Vốn đi vay:
- Vay của các ngân hàng khác:
Mục đích quan trọng của loại vay này là nhằm bảo đảm nhu cầu vốn khả dụng trong thời hạn
ngắn. Trong quá trình hoạt động, một số ngân hàng thương mại có những ngày cho vay quá nhiều hoặc
24
có nhu cầu lớn về nghĩa vụ tài chính dẫn đến sự thiếu hụt dự trữ tại ngân hàng trung ương, trong khi đó

một vài ngân hàng thương mại khác lại trong tình trạng thừa dự trữ. Hành vi vay lẫn nhau giữa các ngân
hàng là nhằm điều hoà nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển liên tục trong hệ thống
ngân hàng.
- Vay của ngân hàng trung ương:
Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được ngân hàng trung ương cho phép thành lập và hoạt
động đều được hưởng quyền vay tiền tại ngân hàng trung ương trong trường hợp cần bổ sung nhu cầu vốn
khả dụng. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại chủ yếu dưới hai hình thức:
- Tái cấp vốn mà chủ yếu dưới hình thức tái chiết khấu các chứng từ có giá;
- Cho vay thế chấp hay ứng trước.
* Các nguồn vốn khác:
- Tiền vay từ những công ty mẹ của ngân hàng: ở các nước phát triển, một công ty hoặc một tập
đoàn kinh doanh có thể là chủ của một hoặc nhiều ngân hàng thương mại. Khi các ngân hàng thương mại
phát hành trái phiếu hay giấy nợ để vay tiền trên thị trường sẽ phải chịu sự quản lý và ràng buộc của ngân
hàng trung ương về dự trữ, lãi suất và thủ tục. Trong khi đó, nếu các công ty mẹ thực hiện điều này thì sẽ
không phải chịu ràng buộc về những điều đó. Do đó, công ty mẹ của ngân hàng thương mại thường thay
thế nó phát hành trái phiếu để huy động vốn, sau đó chuyển vốn huy động được cho ngân hàng hoạt động
dưới hình thức cho vay.
- Phát hành hợp đồng mua lại, đây là các thoả thuận vay tiền từ các công ty.
Hợp đồng mua lại là một hợp đồng bán chứng khoán giữa ngân hàng và các đối tượng kinh doanh
chứng khoán tương đối thừa tiền mặt như các công ty tài chính, các quỹ tín dụng, các công ty chứng
khoán… Chứng khoán mà ngân hàng đem bán là các chứng khoán mà nó đang đầu tư vào tài sản Có như
trái phiếu kho bạc, cổ phiếu. Đặc điểm của hợp đồng này là ngân hàng chỉ bán ra trong một khoảng thời
gian ngắn 1ngày, 2 ngày hoặc 1 tuần, 2 tuần; sau đó ngân hàng được phép mua lại chính các chứng khoán
mà nó đã bán với giá mua cộng với chi phí giao dịch. Chính vì vậy, những hợp đồng này được gọi là hợp
đồng mua lại. Người đã mua chứng khoán của ngân hàng chỉ được bán lại cho ngân hàng vào một thời
gian đã thoả thuận trước mà không được phép bán cho người khác.
* Vốn của ngân hàng:
- Vốn tự có, bao gồm:
+ Vốn điều lệ: là vốn mà ngân hàng thương mại phải có để đi vào hoạt động. Tuỳ theo hình thức
sở hữu mà vốn này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Đối với ngân hàng thương mại quốc

doanh, nguồn vốn này do Nhà nước cấp; đối với ngân hàng thương mại cổ phần, nguồn vốn này được
hình thành do phát hành cổ phiếu.
+ Các quỹ dự trữ được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm bổ sung vào vốn tự có: quỹ dự trữ để bổ
sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro.
25

×