Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tiểu luận: Vai trò và xu hướng vận động của đồng USD và CNY (nhân dân tệ) trên thị trường quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.16 KB, 19 trang )

Tiểu luận
Vai trò và xu hướng vận động của đồng USD và
CNY (nhân dân tệ) trên thị trường quốc tế


Đặc điểm của đồng USD và CNY
I - Đồng US D
1. Lịch sử ra đời
- Việc phát hành tiền được quản lý bởi các hệ thống ngân hàng của Cục Dự trữ Liên
bang (Federal Reserve). Ký hiệu phổ biến nhất cho đơn vị này là dấu $
- Tiền kim loại được đúc bởi Sở đúc tiền Hoa Kỳ (United States M int). Tiền giấy được in
bởi Cục Khắc và In (Bureau of Engraving and Printing) cho Cục Dự trữ Liên bang từ năm
1914
- Hiện nay tờ tiền mệnh giá lớn nhất đc lưu hànhlà 100 $. Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng
tờ 100 Đơla là tờ tiền Đơla có mệnh giá lớn nhất. Tuy nhiên, trong quá khứ đã từng có
những tờ tiền có mệnh giá lớn hơn rất nhiều. Vào thập kỷ 60 của thế kỷ XIX, các tờ $500,
$1.000, và $5.000 có giá trị sinh lời được phát hành, và tờ chứng nhận $10.000 vàng ra
đời năm 1865.
- Trước CT TG thứ 1: Các nước sử dụng chế độ bản vị vàng
- Sau CTTG 2: Chế độ bản vị vàng sụp đổ, CTTG kết thúc, đồng USD trở thành đồng tiền
chủ chốt của thế giới
- 1973 – 1980: các nc duy trì chế độ tỷ giá thả nổi, usd vẫn là 1 đồng tiền mạnh
- 1980 –1985: Usd liên tục tăng giá
- Sau sự kiện 11/9 và cuộc khủng hoảng toàn cầu đồng usd lien tục mất giá
Nguyên nhân đô la mỹ đc lưu hành rộng rãi:
- Sau thế chiến năm 1945, M ỹ đứng đầu thế giới về tỷ lệ dự trữ vàng (3/4 trữ lượng vàng của
thế giới được dự trữ tại các nhà băng M ỹ).
- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, M ĩ trở thành nước giàu mạnh nhất, nắm ưu thế hơn hẳn về
kinh tế, tài chính trên tồn thế giới. Trong những năm 1945 – 1949, sản lượng công nghiệp
M ĩ luôn luôn chiếm hơn một nửa sản lượng công nghiệp tồn thế giới (56,4% năm 1948); sản
lượng nơng nghiệp bằng 2 lần sản lượng của Anh, Pháp, Cộng hoà liên bang Đức, Italia, Nhật


Bản cộng lại (năm 1949); nắm trong tay gần ¾ dự trữ vàng của tồn thế giới (khoảng 25 tỉ
đôla, năm 1949); trên 50% tàu bè đi lại trên các mặt biển. Trong khoảng hai thập niên đầu sau
chiến tranh, Mĩ là trung tâm kinh tế, tài chính duy nhất của thế giới.
2. Chính sách tỷ giá
-

Người M ỹ thường hay dùng những từ mới như “nới lỏng định lượng” làm cho người bình
thường khó hiểu. Nói một cách đơn giản đó là việc bơm thêm tiền cho nền kinh tế. Chương
trình nới lỏng định lượng lần thứ nhất được thực hiện cuối năm 2008 khi cuộc khủng hoảng
tài chính đang ở thời điểm căng thẳng nhất, FED đã hạ lãi suất đồng USD về 0-0,25% đồng
thời chi khoảng 1.700 tỷ USD để mua trái phiếu chính phủ và trái phiếu nợ địa ốc. Ngày
3/11/2010 FED quyết định bơm thêm 600 tỷ USD cho chương trình nới lỏng định lượng lần
thứ hai gọi tắt là QE2 để mua trái phiếu chính phủ dài hạn từ 2 – 10 năm trong thời gian từ
nay đến hết tháng 6/2011. Chương trình nới lỏng định lượng của M ỹ thực chất là khởi động
cỗ máy in tiền. Lâu nay ngân sách Mỹ bị thâm hụt lớn, hàng tháng bộ Tài chính M ỹ đều có
chương trình bán đấu giá trái phiếu chính phủ để cân đối ngân sách, người mua là Cục dự trữ
liên bang M ỹ( FED ), tiền được FED chuyển cho bộ Tài chính sử dụng, bộ Tài chính gửi số
tiền này vào các ngân hàng làm cho thanh khoản của ngân hàng tăng lên. Vốn khả dụng của
ngân hàng dồi dào, trong khi đó nhu cầu vay vốn rất thấp, đó là rắc rối lớn nhất của kinh tế


M ỹ. Báo cáo về chính sách tiền tệ của FED ngày 8/10/2010 thừa nhận sở dĩ ở Mỹ có tình
trạng tỷ lệ thất nghiệp cao, tỷ lệ tiêu dùng thấp, đầu tư kém phát triển là do thiếu nhu cầu vay
vốn, kênh tín dụng bị tắc nghẽn. Do đó vấn đề của kinh tế M ỹ hiện nay không phải là thiếu
thanh khoản, mà là vấn đề các doanh nghiệp, cá nhân khơng có nhu cầu vay vốn, ngân hàng
cũng khơng có khả năng cho vay nhiều. Có thể thấy rằng hiện nay chìa khóa để thúc đẩy kinh
tế Mỹ phát triển khơng phải tiền tệ mà là tín dụng. Trong tình hình thiếu lạc quan về tín dụng
trong nước, các ngân hàng M ỹ không thể để tiền nằm chết trên tài khoản, tiền sẽ chảy vào các
nền kinh tế mới phát triển, các thị trường hàng hóa quốc tế lớn để đầu tư sinh lời.
-


M ục đích của M ỹ khi thực hiện chương trình nới lỏng định lượng tuy khơng nói ra song có
thể là muốn chuyển bớt những khó khăn do khủng hoảng tiền tệ cho các nước, đây được coi
là một loại thuế Mỹ áp đặt cho các nước. Đồng USD là đồng tiền dự trữ quốc tế, đồng tiền
thanh toán quốc tế cả thế giới đều sử dụng, trên thực tế FED đã trở thành ngân hàng trung
ương của cả thế giới, các cỗ máy in tiền của M ỹ hoạt động hết công suất, làm cho đồng USD
liên tục bị mất giá, giá vàng quốc tế đạt mức cao kỷ lục. Trong khi Mỹ vẫn ung dung với
chương trình nới lỏng định lượng, chấp nhận bội chi ngân sách ở mức cao, thâm hụt thượng
mại lớn và để mặc cho đồng USD mất giá thì ngược lại các nước mới phát triển đang phải
chống đỡ vất vả với các bong bóng tài sản, với lạm phát tăng lên hàng ngày

-

M ỹ tiếp tục sử dụng chính sách đồng USD yếu, lâu nay được coi là đồng tiền định giá trên
thị trường hàng hóa quốc tế, sẽ càng làm giá cả hàng hóa tăng mạnh
3. Dự trữ của các nước đối với đồng USD

-

Trong năm 1995, trên 380 tỷ đô la đã được lưu hành, trong đó hai phần ba ở ngồi nước. Đến
tháng 4 năm 2004, gần 700 tỷ đô la đã được lưu hành [1], trong đó hai phần ba vẫn cịn ở
nước ngồi [2].

-

Nước M ỹ là một trong một số quốc gia dùng đơn vị tiền tệ gọi là đô la. M ột vài quốc gia
dùng đô la M ỹ làm đơn vị tiền tệ chính thức, và nhiều quốc gia khác cho phép dùng nó trong
thực tế (nhưng khơng chính thức

-


Đến cuối tháng 3/2011, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã lên đến 3.044,7 tỷ USD, tăng
24,4% so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm hơn một phần ba trong tổng 9.000 tỷ USD dự trữ
ngoại hối của thế giới. Con số này cũng lớn gấp hai lần so với tổng số ngoại hối dự trữ của
các nước châu Âu, Nhật, Anh, M ỹ.

-

Hiện tại, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc vẫn lớn nhất thế giới, đứng tiếp theo là Nhật Bản,
Ngày 11/5, Bộ Tài chính Nhật Bản thông báo dự trữ ngoại hối của nước này tăng 1,7% lên
mức cao kỷ lục 1.135,55 tỷ USD, Nga hết ngày 22/04/2011, dự trữ ngoại tệ của Nga tăng lên
mức 517,9 tỷ USD

II. Đồng nhân dân tệ CNY


1. Lịch sử ra đời
Nhân dân tệ do Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc phát hành. Năm 1948, một năm trước
khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhân dân tệ đã được phát hành chính
thức. Tuy nhiên, đến năm 1955, loạt mới được phát hành thay cho loạt thứ nhất. Năm 1962,
loạt thứ hai lại được thay thế bằng loạt mới. Loạt thứ tư được phát hành trong thời gian từ
năm 1987 đến năm 1997. Loạt đang dùng hiện nay là loạt thứ năm phát hành từ năm 1999,
bao gồm các loại 1 phân, 2 phân, 5 phân, 1 giác, 5 giác, 1 nguyên, 5 nguyên, 10 nguyên, 20
nguyên, 50 nguyên và 100nguyên.
2. Chính sách tỷ giá
-

Trung Quốc cho rằng, chính sách tiền tệ (CSTT) nới lỏng sẽ tạo thặng dư tăng trưởng cho
kinh tế toàn cầu vì nó khuyến khích nhà đầu tư đổ vốn nhiều hơn vào các nền kinh tế mới nổi
nhằm đạt lợi nhuận cao. Trong đó, biện pháp được các nước sử dụng là phong tỏa dòng vốn

vào để tăng dự trữ ngoại hối và kiềm chế lạm phát

-

Nếu nâng giá NDT một cách nhanh chóng sẽ giảm đáng kể thặng dư thương mại của Trung
Quốc, và điều này giúp giảm thâm hụt mậu dịch của M ỹ, những yếu tố khác của tăng trưởng
có thể bù cho sự sụt giảm của xuất khẩu.

-

Theo cách gọi của nghiên cứu này, việc giữ cho tỷ giá Nhân dân tệ thấp dưới giá trị thực một
cách có chủ ý là chính sách “biến hàng xóm thành ăn mày” (beggar thy neighbor), hiểu nơm
na là tìm cách làm lợi cho mình bằng cách gây thiệt hại cho người khác.

-

Chính sách định giá đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc có tác động nhiều tới các nền kinh tế
đang phát triển hơn là các nước phát triển như M ỹ, bởi vì Trung Quốc cạnh tranh nhiều hơn
và trực tiếp hơn với các nước đang phát triển trong hoạt động xuất khẩu, nhất là xuất khẩu
sang thị trường M ỹ.

-

Báo cáo nhận định, chính sách tỷ giá của Trung Quốc có thể nhằm mục đích cạnh tranh quyết
liệt với các nước xuất khẩu đang phát triển khác, chứ không chỉ đơn thuần để làm cho hàng
Trung Quốc có giá hấp dẫn hơn khi được nhập vào Mỹ hay hàng M ỹ đắt hơn khi được nhập
vào Trung Quốc.

-


Theo số liệu mà nghiên cứu đưa ra, cứ mỗi 10% tăng thêm trong tỷ giá đồng Nhân dân tệ so
với USD, thì kim ngạch xuất khẩu một mặt hàng điển hình của các nước đang phát triển khác
vào Mỹ sẽ tăng trung bình 1,5-2%. Trong một số trường hợp, mức gia tăng kim ngạch cho
các nước đang phát triển có thể lên tới 6% cho mỗi 10% tăng thêm trong tỷ giá Nhân dân tệ
so với USD.

-

Logic được rút ra từ nghiên cứu này là: Nếu Trung Quốc giữ tỷ giá đồng Nhân dân tệ thấp
hơn giá trị thực so với USD, thì hàng hóa của Trung Quốc xuất vào Mỹ sẽ có giá cạnh tranh
hơn so với giá hàng hóa đến từ các quốc gia khác cùng xuất vào Mỹ.
3. Dự trữ của các nước
Với cuộc khủng hoảng tài chính thế giới cùng với sự đi lên của Trung Quốc cũng như các
thị trường mới nổi khác và mối đe dọa hiện hữu đối với đồng euro, các nhà hoạch định chính
sách ở phương Tây đang đặt câu hỏi về việc thiết lập một trật tự tiền tệ.
Tuy nhiên, cho tới bây giờ, vẫn chưa có đồng tiền nào có thể thay thế vị trí của đồng
USD. Đồng thời, thời gian thực hiện chuyển đổi và mức độ ảnh hưởng lên các ngoại tệ khác
cũng là điều rất khó dự đốn.


Hơn nữa, trong khi Bắc Kinh cho rằng đồng nhân dân tệ được sử dụng rộng rãi bên ngoài
Trung Quốc là 1 cơ hội tốt, các nước khác cho rằng đi kèm với đó là rất nhiều rủi ro và rủi ro
ấy khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi Trung Quốc.
Để nhân dân tệ trở thành đồng tiền dự trữ, 1 trong những điều kiện tiên quyết là Trung
Quốc phải nới lỏng kiểm sốt vốn để người nước ngồi có thể tái đầu tư số lượng nhân dân tệ
mà họ đã tích lũy. Tuy nhiên, việc cho phép dịng tiền lưu thông tự do theo định hướng thị
trường để điều chỉnh giá và lãi suất sẽ gây ra nhiều bất ổn.
Trước tiên, đồng nhân dân tệ sẽ là đồng tiền phổ biến ở Đông Á trong lĩnh vực kinh tế và
tài chính, dần dần Bắc Kinh sẽ đối thoại với các nước trong khu vực với một giọng nói “định
hướng đồng thuận hơn” trong các vấn đề quốc tế.


-

-

M ặc dù Chính phủ Trung Quốc đã chủ động xây dựng và triển khai tiến trình quốc tế hóa
đồng NDT từ hai thập kỷ qua, tuy nhiên, các kết quả đạt được cũng cịn có nhiều hạn chế.
Căn cứ vào những tiêu chí đối với đồng tiền quốc tế thì đồng NDT cịn phải đi một chặng
đường dài trước khi có thể cạnh tranh hoặc thay thế đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế.
Có thể nhận thấy một số vấn đề đã gây trở ngại cho tiến trình quốc tế hóa đồng NDT là:
Tiềm lực nền kinh tế Trung Quốc: Đồng tiền hoàn toàn tự do chuyển đổi phải là đồng tiền của
các nền kinh tế mạnh, phát triển ổn định, tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện nay, kinh tế Trung
quốc chưa thể đáp ứng tiêu chí này. Dân số Trung Quốc đứng đầu trên thế giới nhưng GDP
của Trung Quốc vào thời điểm lịch sử năm 2010 (đứng thứ hai thế giới) cũng chỉ đạt mức
5.800 tỷ USD, không lớn hơn nhiều so với Nhật Bản (5.500 tỷ USD) và kém Mỹ (15.000 tỷ
USD) rất nhiều. Như vậy, dù kinh tế Trung Quốc đã duy trì tỷ lệ tăng trưởng ấn tượng trong
nhiều năm qua nhưng tỷ lệ GDP trên đầu người của Trung Quốc vẫn chưa cao.
Hàng hóa và cơng nghệ: Trên thực tế, nền kinh tế Trung Quốc mới chỉ phát triển mạnh từ vài
thập kỷ gần đây và mới chỉ đạt ở mức là “cơng xưởng chế biến của thế giới”. Hàng hóa của
Trung Quốc chủ yếu vẫn là các hàng hóa có giá trị và giá trị gia tăng thấp. Những thương
hiệu của Trung Quốc chưa được đánh giá cao, chưa thể cạnh tranh với các thương hiệu nổi
tiếng lâu đời trên thế giới. Ngược lại, những vụ bê bối về chất lượng của hàng hóa Trung
Quốc gần đây đã làm giảm uy tín đối với hàng hóa Trung Quốc và gây tác động tiêu cực tới
người tiêu dùng trên toàn thế giới.
Trong năm nay, Trung Quốc đã thực hiện 18 thỏa thuận hoán đối ngoại tệ song phương với
tổng giá trị hơn 250 tỷ USD.
Theo ngân hàng nhân dân Trung Quốc (PBOC) – ngân hàng trung ương Trung Quốc, 6,6%
giao dịch mua bán của Trung Quốc trong năm 2011 được thực hiện bằng nhân dân tệ, tăng so
với 2% trong năm 2010. Các tài khoản tiền gửi bằng nhân dân tệ ở các ngân hàng Hong Kong
đã tăng từ 46,5 tỷ USD trong năm 2010 lên 91 tỷ USD trong năm 2011.

M ột quan chức thuộc PBOC vào tháng 6 tiết lộ rằng ngân hàng này sẽ cho phép hơn 60.000
công ty trên thế giới giao dịch bằng nhân dân tệ. Chỉ tính riêng Hong Kong, khu vực này đã
giao dịch khoảng 300 tỷ nhân dân tệ vào năm 2010, gần 1/3 tổng kim ngạch thương mại của
Hong Kong.
Các công ty Trung Quốc, cũng như các cơng ty nước ngồi thực hiện giao dịch với Trung
Quốc thích sử dụng nhân dân tệ bởi việc sử dụng đồng tiền này sẽ giảm rủi ro nếu USD biến
động. Nếu các nhà xuất khẩu của Trung Quốc có thể thanh tốn bằng nhân dân tệ thay vì


USD, họ sẽ khơng phải lo lắng tình trạng USD giảm giá mạnh so với nhân dân tệ làm ảnh
hưởng đến thu nhập trong tương lai.
Năm 2004, Trung Quỗc bắt đầu cho phép chuyển NDT sang Hồng Kông thông qua khoản
trợ cấp 20.000 NDT cho người dân trong khu vực, đưa tổng tài sản tính bằng NDT tại Hồng
Kơng lên 80 tỉ NDT. Từ tháng 7/2009, Trung Quốc tiếp tục cho phép các công ty trong nước
sử dụng NDT để thanh toán các giao dịch thương mại quốc tế và từ đầu năm nay cho phép
các công ty đưa NDT ra đầu tư ở nước ngoài. Tháng 12/2010, Ngân hàng Thế giới đã thực
hiện đợt phát hành trái phiếu đầu tiên bằng NDT với mức vốn huy động gần 76 triệu USD
(500 triệu NDT) với lãi suất 0,95% và đáo hạn vào ngày 14/1/2013. Từ năm 2009, Trung
Quốc bắt đầu thiết lập hàng loạt cơ sở trao đổi tiền tệ song phương với một số đối tác thương
mại như Argentina, Belasus, CHLB Nga, Hồng Kông, Hàn Quốc, Ireland, Indonesia,
M alaysia, Singapore. Tính đến cuối năm 2010, tổng giá trị của các cơ sở trao đổi tiền tệ này
đạt khoảng 800 tỉ NDT (121 tỉ USD).
Nỗ lực liên tục của Trung Quốc gây nên những tranh luận gay gắt về tương lai của USD,
sự tuột dốc của USD dẫn đến lãi suất tăng ở M ỹ và đến thời điểm nào đó sẽ xảy ra một cuộc
khủng hoảng tài chính lớn, khi đó NDT có thể sẽ thay thế USD. Tuy nhiên, cơ hội đó cịn xa
vời, mặc dù kinh tế Mỹ hiện nay chỉ cịn chiếm ¼ GDP tồn cầu. Đồng tiền dự trữ p hải có uy
tín rất lớn và phải mất một thời gian rất dài mới có thể đạt được điều kiện này và một khi đã
đạt được thì rất khó mất đi. Trong đó, u cầu quan trọng nhất của một đồng tiền dự trữ là độ
tin cậy về giá trị, tính thanh khoản trên các thị trường vốn quốc tế và tương đối ổn định. USD
có những điều kiện này mà nhiều đồng tiền khác khơng thể có được, euro là đồng tiền dự trữ

thứ hai và có lúc chiếm 31% dự trữ ngoại hối của các nước nhưng hiện đã giảm xuống còn
khoảng 25% do nghi ngờ về tương lai của nó khi khủng hoảng nợ công đang tấn công khu
vực kinh tế này. Đồng bảng Anh là dự trữ hàng đầu thế giới trong suốt thế kỷ 18 và 19, nhưng
bị USD đẩy lùi và hiện nay chỉ chiếm gần 5% dự trữ quốc tế. Từ những năm 1980, Nhật Bản
trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới và yên nhật cạnh tranh gay gắt với USD, nhưng cũng
không thể trụ vững trước sức mạnh của USD do thị trường vốn yếu kém và chỉ chiếm 3% dự
trữ quốc tế. Trái lại, NDT khơng có vị thế để nhanh chóng trở thành một đồng tiền dự trữ do
thị trường vốn Trung Quốc khơng có chiều sâu và khơng thể dự đốn được, tài khoản vốn bị
đóng cửa, NDT chưa phải là đồng tiền chuyển đổi và qui mô trao đổi ở nước ngồi cịn thấp,
mặc dù Trung Quốc đang tăng cường các biện pháp quốc tế hóa NDT. Nhiều nước đang lo
ngại trong quan hệ kinh tế đầu tư với Trung Quốc và tỏ ra thận trọng khi sử dụng NDT trong
giao dịch thanh toán, nhất là những nước nhập siêu quá mức từ Trung Quốc. Điều này có
nghĩa là, NDT có thể được sử dụng trong giao dịch vãng lai như thanh tốn thương mại song
phương, nhưng khơng thể đóng vai trị trong giao dịch tài khoản vốn. M ột khó khăn nữa là
Trung Quốc không dễ dàng điều chỉnh hệ thống kinh tế và tài chính quốc tế vì nhiều lý do,
trong đó phải kể đến sự khác biệt về ngôn ngữ trong bối cảnh tiếng Anh ngày càng được
nhiều quốc gia coi là ngơn ngữ chính thức và bắt buộc. Theo kết quả nghiên cứu năm của chi
nhánh Fed tại New York, khoảng 60% USD nằm bên ngoài nước M ỹ, 2/3 dự trữ ngoại tệ của
các nước công nghiệp là USD, trên 80% các giao dịch ngoại tệ được sử dụng bằng USD, 39%
các khoản nợ quốc tế được tính bằng USD. Trung Quốc là nước nắm giữ lượng trái phiếu kho
bạc lớn nhất của chính phủ M ỹ nhưng vẫn phải thừa nhận, trái phiếu kho bạc M ỹ có tính
thanh khoản tốt nhất thế giới.
Trong thế giới có nhiều thay đổi nhanh chóng, nhất là trong nền kinh tế Mỹ, nhưng NDT
chưa đủ mạnh để trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế, chưa nói đến khả năng thay thế USD,
thậm chí trong vài thập kỷ tới.


II – Vai trò:
1. Vai trò của USD
1.1. Đồng USD là đồng tiền dự trữ ngoại hối toàn cầu.

Dự trữ ngoại tệ giúp giải quyết nhu cầu thanh toán của hoạt động NK, trả các khoản nợ nước
ngồi, kiếm sốt lạm phát, sự mất giá của đồng tiền, ổn định tỷ giá... Dựa trên các điểm ưu việt
hơn của USD so với các đồng tiền khác về tỉ giá ổn định, thanh khoản cao, được sử dụng rộng rãi
trong thanh toán quốc tế cộng với vị thế thống trị về quân sự sẽ đảm bảo cho vai trò tiền tệ dữ trữ
quốc tế cho USD
Biểu Tổng hợp lượng dự trữ ngoại hối của 1 số nước.
1.2 Vai trò đồng USD trong thanh tốn quốc tế:
- Đồng USD vẫn duy trì vị thế độc tôn trong giao dich thương mại quốc tế.
Báo cáo của M ỹ, Anh, Canada và Singapore cho thấy đồng đô la M ỹ vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn
trong các giao dịch ngoại hối. Nhìn vào thị trường ngoại hối lớn nhất thế giới, và thị trường ngoại
hối Singapore - một thị trường ngoại hối lớn ở khu vực Đông Nam Á, điều dễ nhận thấy là đồng
đô la M ỹ liên quan đến hơn 70% số giao dịch giao ngay được thực hiện. Đương nhiên, các giao
dịch giao ngay này khơng chỉ có giao dịch thương mại, mà cịn có các giao dịch về đầu tư, đầu
cơ, hỗ trợ thanh khoản...

- Đồng đơ la cịn được dùng làm đơn vị tiêu chuẩn trong các thị trường quốc tế cho các mặt hàng
như vàng và dầu thô...(giá trị USD được đảm bảo bằng dự trữ vàng của Mỹ)


1.3 Đồng tiền USD là đồng tiền cơ sở xác định tỷ giá của nhiều nước.

- Đồng USD là đồng tiền được sử dụng rộng rãi trong dự trữ ngoại hối và thanh tốn quốc tế,
hiện nay chưa có đồng tiền nào trên thế giới có thể thay thế vai trị của nó. Dưới đây là một số lý
giải tại sao đồng USD duy trì được vị trí độc tơn trong thương mại quốc tế như vậy.
1. Nước M ỹ là một thị trường tiêu dùng lớn của thế giới: Trong thương mại quốc tế thì thị trường
M ỹ là một thị trường tiêu dùng chiếm tỷ trọng lớn trên thế giới kể cả tiêu dùng trực tiếp lẫn trung
chuyển. Do vậy, khi thực hiện việc trao đổi thương mại đương nhiên người M ỹ yêu cầu phải
dùng đồng tiền của họ trong thanh toán quốc tế.
2. Nước M ỹ có nền kinh tế mạnh và có uy tín: Đồng USD được lưu hành rộng rãi được đảm bảo
bằng uy tín của một cường quốc kinh tế mạnh nhất thế giới. Nếu xảy ra những cú sốc gây ra hiện

tượng bán tháo đồng tiền USD trên thế giới thì nước M ỹ vẫn hồn tồn có thể chịu đựng được vì
họ là nền kinh tế mạnh (dự trữ vàng lớn nhất chiêm gần ¾ TG).
- Thử tượng tượng cuộc khủng hoảng tài chính tại châu Á khi đồng bạt Thái bị giới đầu cơ bán
mạnh thì chính phủ các nước này đã điêu đứng và tạo ra những phản ứng dây chuyền tới một loạt
các quốc gia châu Á khác, mặc dù đồng tiền của các nước này vẫn chỉ sử dụng nhỏ ở quy mô nội
địa nhưng cho phép tự do tài khoản vốn, tự do tiền tệ.
- Trong giao dịch thương mại giữa các quốc gia khác nhau khơng phải là M ỹ thì các nước vẫn
thích đồng tiền trung gian là USD ví dụ giao dịch thương mại giữa VN và Trung Quốc, bởi vì nếu
VN dùng tiền Nhân dân tệ của Trung Quốc trong thương mại thì cũng " tránh vở dưa gặp vỏ

dừa".
3. Nước M ỹ có Ngân hàng Trung ương độc lập: M ột ngân hàng Trung ương độc lập có quyền ra
những quyết định nhanh chóng để can thiệp vào thị trường tiền tệ ứng phó với những biến động
nhanh chóng của thị trường. Với các nước mà NH Trung ương mà quyền can thiệp và phát hành


tiền tệ thường phải được sự đồng ý của quốc hội hoặc như đồng EUR khi muốn phát hành thêm
tiền tệ phải được sự thống nhất của nhiều quốc gia.
4. Khả năng can thiệp của M ỹ: M ỹ có thể can thiệp tới mọi nơi trên thế giới bằng cả quân sự và
kinh tế. Đây là đặc điểm mà khơng có nước nào trên thế giới có được, với bất cứ điều gì ảnh
hưởng tới quyền lợi M ỹ và nền kinh tế Mỹ họ đều có thể giải quyết được nhanh chóng và dễ dàng
hơn nhiều so với các quốc gia hoặc các liên minh quốc gia khác.
5. Đồng USD đã được sử dụng làm dự trữ và thanh toán quốc tế trong một khoảng thời gian dài.
Để thay đổi một thói quen khơng dễ dàng và càng khơng đơn giản khi nó động chạm tới lợi ích
của nhiều quốc gia.
Lấy ví dụ như Trung Quốc ( trong số hơn 3.300 tỉ USD dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc, khoảng
70% là trái phiếu M ỹ và tài sản thanh tốn bằng đồng USD), tuy họ ln kêu gọi giảm bớt vai trò
của đồng USD nhưng khi USD giảm giá thì người thiệt hại đầu tiên là Trung Quốc.
Do vậy, không đơn giản khi muốn thay thế vai trị dự trữ và thanh tốn của đồng USD bằng một
đồng tiền khác

1.1 Đối với thị trường mới nổi
Vai trò đồng US D tại nhóm nền kinh tế mới nổi đang dần giảm sút.
+ Năm 2009, 4 nền kinh tế mới nổi Braxin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc đã hình thành một liên
minh mới (BRIC) nhằm tái cơ cấu các tổ chức tài chính và đảm bảo ảnh hưởng lớn hơn trên tồn
cầu. Năm 2010, nhóm này thu nạp thêm Nam Phi và được gọi là BRICS
+ Các nước trong nhóm đang đẩy nhanh thực hiện chiến lược đa dạng hóa dự trữ ngoại tệ, giảm
bớt sự p hụ thuộc vào USD.
+ Việc đạt được các thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương từ đo nâng cao vị thế đồng tiền giũa
các quốc gia trong nhóm Thay thế USD bằng đồng nội tệ hoặc ký kết trao đổi tiền tệ song
phương trong các giao dich ở một số lĩnh vực
1.2 Đối với các nước ngoài thị trường mới nổi:
Đồng USD yếu sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến khả năng phụ hồi của nền kinh tế thế
giới, ảnh hưởng không chỉ đến các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển - do các nước
đang phát triển đều là nước xuất khẩu.
Đặc biệt nếu USD yếu, khả năng phụ hồi kinh tế của châu Âu sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Vì vậy, ngân hàng trung ương các nước đều thống nhất là tìm cách phụ hồi dần giá trị của USD.
Những ngày gần đây USD đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi so với các đồng tiền chủ chốt khác.
2 .Vai trò của CNY
- Đồng NDT


Trước năm 2009 đồng CNY chỉ được sử dụng trong một số giao dịch tiền mặt dọc biên
giới TQ, việc giao dịch quốc tế bằng đồng CNY cũng đã được thực hiện giữa các công ty Trung
Quốc và chi nhánh ở nước ngồi
Cách đây khơng lâu, việc sử dụng đồng nhân dân tệ trên thế giới chỉ giới hạn ở một số
giao dịch tiền mặt dọc theo biên giới Trung Quốc. M ongolia, Pakistan và Lào là những nước
chấp nhận những đồng giấy bạc nhăn nheo có in hình M ao Trạch Đông từ các khách du lịch
Trung Quốc.
Tuy nhiên, Từ tháng 7/2009 trở lại đây, đồng nhân dân tệ đã bắt đầu trở nên phổ biến, sự
nổi lên của đồng nhân dân tệ với tư cách là đồng tiền mới của thế giới đang tạo nên một sự thay

đổi lớn trong hệ thống tài chính tồn cầu và dần tiến tới vị trí đồng tiền quốc tế
Sự tăng lên của các tập đồn đa quốc gia chính là thử nghiệm cho việc sử dụng đồng
CNY trong thanh toán quốc tế
Tháng 7/2009, Trung Quốc bắt đầu cho phép các công ty Trung Quốc sử dụng đồng nhân dân tệ
trong các hóa đơn xuất nhập khẩu thay vì đồng USD trước đó. Sự thay đổi diễn ra nhanh chóng
kể từ đó. Sự tăng trưởng theo cấp số nhân của đồng nhân dân tệ thực sự khiến nhiều nhà quan sát
choáng váng. Chỉ trong vịng 3 năm, bất chấp những cơn "gió ngược" toàn cầu, sức mạnh của
đồng nhân dân tệ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ chóng mặt. Thương mại bằng đồng nhân dân tệ
trong năm 2012 đã lên tới 425 tỷ USD, tăng gần 30% so với 2011.
Trung Quốc vừa bước một bước tiến mới trong việc gia tăng vai trị tồn cầu của đồng
Nhân dân tệ, bằng cách cho phép các công ty trong nước đem đồng tiền này ra nước ngồi để
phục vụ cho mục đích đầu tư. Nhiều người cho rằng nhân dân tệ đang trở thành thách thức lớn
đối với đồng USD trong vai trò là đồng tiền dự trữ toàn cầu. Nếu điều này trở thành sự thực, sẽ
có những tác động to lớn đến thương mại, đầu tư cũng như chính trị trên toàn thế giới.
Người ta nhận định nhân dân tệ sẽ trở thành đồng tiền chính trong thương mại giữa Trung Quốc
và các nước châu Á trong những năm tới trước khi vươn rộng ra thế giới. Trong nỗ lực giảm dần
sự lệ thuộc vào đồng USD, các nước châu Á khơng có lựa chọn nào khác ngồi đồng nhân dân
tệ.
Trong bối cảnh các nền kinh tế lớn như M ỹ, Nhật và Eurozone đang gặp khó khăn, các
đồng tiền như USD, Yên và Euro chịu ảnh hưởng nghiêm trọng, nhiều nước đã xem xét lựa chọn
NDT làm đồng tiền thanh toán và dự trữ. Tại châu Á, các nước M alaysia, Philippines, Thái Lan
đã đưa NDT vào hệ thống dự trữ quốc gia. Hàn Quốc cũng đang xem xét đa dạng hóa nguồn dự
trữ ngoại tệ của mình trong đó có tính đến đồng NDT. Ở châu Âu, Anh chấp nhận thanh toán với
Trung Quốc bằng đồng NDT và đang xem xét đưa thêm NDT vào rổ dự trữ ngoại tệ. Tại châu
Phi, Nigieria đã tuyên bố xem xét tăng tỷ lệ dự trữ đồng NDT thêm 5% -10%.
Trái phiếu bằng CNY cũng là kênh đầu tư hấp dẫn do TQ định giá đồng nhân dân tệ thấp
hơn giá trị thực của nó nhằm tạo sức cạnh tranh cho hàng hóa TQ.


Trong những nỗ lực nhằm quốc tế hóa đồng NDT, Chính phủ Trung Quốc tập trung xây dựng

Thượng Hải và Hồng Kơng thành những trung tâm tài chính, thương mại tầm cỡ quốc tế có chức
năng phát hành trái phiếu chính phủ bằng NDT. Trung Quốc đã thu được 9 tỷ NDT trong đợt
phát hành đầu tiên vào năm 2009, đã vận động thành công một số tổ chức tài chính quốc tế lớn
như Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB) phát hành trái phiếu huy
động bằng NDT. Tháng 10/2010, ADB đã phát hành trái phiếu bằng NDT trị giá 1,2 tỷ USD để
huy động vốn cho các dự án tại Trung Quốc, WB cũng phát hành khoảng 500 triệu USD trái
phiếu bằng NDT.
2.2 Đối với thị trường mới nổi:
Tăng cường vai trò trong giao dịch thương mại giũa các nước trong nhóm tạo cơ sở
quốc tế hóa đồng CNY.
- Là một quốc gia nằm trong nhóm thị trường mới nổi Trung Quốc có nhiều thuận lợi để phát
triển thanh toán thương mại quan trọng bằng đồng NDT và đồng bản tệ của đối tác đó thay cho
đồng USD.
Ngày 26-5-2009, Trung Quốc và Braxin ký hiệp định thanh toán thương mại song phương bằng
đồng NDT và đồng real. Tháng 6-2012, Brazil và Trung Quốc đã ký thỏa thuận sơ bộ về việc
hoán đổi đồng nội tệ
Ngày 2-5-2010, Trung Quốc và Nga đã đạt thỏa thuận trao đổi thương mại bằng đồng NDT và
rup.
2.3 Đối với các nước ngoài thị trường mới nổi.
Người ta nhận định nhân dân tệ sẽ trở thành đồng tiền chính trong thương mại giữa Trung
Quốc và các nước châu Á trong những năm tới trước khi vươn rộng ra thế giới. Trong nỗ lực
giảm dần sự lệ thuộc vào đồng USD, các nước châu Á khơng có lựa chọn nào khác ngoài đồng
nhân dân tệ.
Nhân dân tệ hiện là đồng tiền thanh tốn tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Có khoảng
hơn 1.000 định chế tài chính ở 90 nước trên thế giới giao dịch đồng nhân dân tệ đáp ứng nhu cầu
của khách hàng cá nhân cũng như doanh nghiệp. Khách hàng yêu cầu điều này bởi họ có thể tiết
kiệm thời gian và tiền bạc khi kinh doanh ở Trung Quốc đại lục.
Không chỉ đối với giao dịch thương mại, các cơng ty tồn cầu cũng bắt đầu tích trữ nhân
dân tệ: Tuy nhiên, khối lượng nhân dân tệ ở các trung tâm như Hồng Kông, London và Singapore
vẫn bị hạn chế bởi Trung Quốc vẫn kiểm soát chặt chẽ dòng dịch chuyển của nhân dân tệ giữa

Trung Quốc với các nước còn lại trên thế giới. Người nước ngoài chỉ được phép đầu tư vào
Trung Quốc nếu được cấp quota đặc biệt hoặc được sự đồng ý của các cơ quan chức năng.
Để trở thành đồng tiền quốc tế thực sự, Trung Quốc cần phải tự do hóa cán cân vốn nhiều
hơn nữa. Theo Dariusz Kowalczy k, chiến lược gia tại Credit Agricole, rất nhiều ngân hàng trung
ương coi nhân dân tệ là đồng tiền dự trữ cho biết họ không thể làm được việc này chỉ đến khi cán
cân vốn của Trung Quốc được tự do hoàn tồn.
3. S o sánh vai trị giữa US D v à CNY tại thời điểm hiện tại.


Hiện tại rõ ràng đồng đôla vẫn là đồng tiền hàng đầu trong hầu hết mọi lĩnh vực". Nhìn
chung, đồng đơla tiếp tục duy trì vai trị chính trong các giao dịch ngoại hối, thương mại, và thị
trường ngân hàng quốc tế
Cịn với đồng nhân dân tệ, thì ngay cả những người ủng hộ Trung Quốc nhất cũng thừa
nhận rằng phải nhiều năm nữa nền kinh tế Trung Quốc mới có được những thuộc tính cần thiết
của một đồng tiền dự trữ quốc tế, đặc biệt là khi thị thường tài chính sâu, minh bạch, và có tính
thanh khoản vẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tới Mỹ. Trong khi đó, cũng nên nhớ rằng, dự
trữ ngoại tệ bằng đồng đôla của Trung Quốc vẫn tăng trong năm nay.
Nhiều chuyên gia cho rằng Trung Quốc khó có thể đưa đồng nhân dân tệ trở thành đồng
tiền giao dịch quốc tế nếu không bắt đầu giảm bớt dự trữ lượng dự trữ đơla của chính nước này,
hiện đang ở mức cao đến khó chịu là 3,3 nghìn tỷ đơla. Quan trọng hơn nữa, Trung Quốc không
thể hy vọng thị trường tiền tệ có thể tin tưởng đồng nhân dân tệ nếu như chính phủ nước này
khơng hạn chế sự kiểm soát chặt chẽ đối với giá trị đồng tiền này.
- Tóm lại, dù việc đồng đơla vẫn tiếp tục chiếm ưu thế trên tồn cầu là điều khơng chắc chắn, thì
vai trị của những tiền tệ lựa chọn khác cũng còn phải mất rất nhiều thời gian nữa mới theo kịp
được nó và để đánh bật vị thế của đồng USD cần có một sự hợp tác trên phạm vi toàn cầu, điều
chắc chắn chưa thể xuất hiện trong tương lai gần.


1. Xu hướng vận động của đồng USD:
Bảng 1: Tỷ trọng dự trữ USD trong tổng dự trữ ngoại hối của thế giới

Năm
1999
2006
2009
2010
2011
2012
Tỷ trọng dự trữ USD
72%
66,3% 62,8% 60,5% 61,2% 62,2%
1.1.Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai
Các quốc gia đã cố gắng phục hồi lại hệ thống bản vị vàng, nhưng nó đã sụp đổ hồn tồn trong
cuộc Đại khủng hoảng của những năm 1930. Sự sụp đổ này đã là cho quan hệ tài chính - tiền tệ
quốc tế trở nên rối ren, dẫn đến sự hình thành các liên minh tiền tệ do một số nước tư bản đầu sỏ
cầm đầu. Khu vực đồng đô la do M ỹ cầm đầu tồn tại bên cạnh các “đối thủ không hơn kém” là
khu vực đồng Bảng Anh và khu vực đồng Phơ-răng Pháp. Nhưng sau Đại chiến thế giới lần thứ
II, M ỹ trở thành một cường quốc mạnh nhất thế giới về ngoại thương, về tín dụng quốc tế và là
nước có dự trữ vàng lớn nhất thế giới (chiếm khoảng ¾ tổng dự trữ vàng của tồn bộ thế giới tư
bản). Đây chính là những yếu tố tạo nên thế mạnh cho đồng đô la M ỹ trên trường quốc tế, đưa
đồng tiền này “lên ngôi” đồng tiền chủ chốt của thế giới.
Tháng 7 năm 1944, Hoa Kỳ đã đứng ra triệu tập Hội nghị tiền tệ - tài chính quốc tế tại thành phố
Bretton-woods với sự tham gia của 44 nước để thoả thuận về việc thiết lập các quan hệ tài chính
tiền tệ quốc tế mới cho thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần II. Được gọi là chế độ tiền tệ Brettonwoods. Nội dung chủ yếu của chế độ tiền tệ Bretton-woods:
- Thừa nhận USD là đồng tiền chuẩn, làm trụ cột cho chế độ tiền tệ này. Nó được coi là phương
tiện dự trữ và thanh tốn quốc tế, đóng vai trò chủ chốt trong các quan hệ tiền tệ, thanh tốn và
tính dụng quốc tế. Nhiều thập kỷ qua, đồng đôla vẫn là đồng tiền các nước trên thế giới có xu
hướng sử dụng trong kinh doanh. Hầu hết các ngân hàng trung ương trên thế giới giữ phần lớn
lượng dự trữ ngoại tệ bằng đồng đôla, mặt khác, hầu hết các hàng hóa được giao dịch trên tồn
cầu (như dầu lửa) cũng được định giá bằng đồng tiền của nước M ỹ này.
- Việc sử dụng USD trong thanh toán quốc tế và các quan hệ đối ngoại khác không hạn chế, các

đồng tiền của các nước khác phải liên hệ chặt chẽ với USD theo chế độ tỷ giá cố định.
- Các nghiệp vụ về vàng được thực hiện theo 1 giá chính thức là 35 USD = 1 ounce vàng. Đô la
M ỹ được tự do chuyển đổi ra vàng theo giá đó. Ngân hàng trung ương của các nước thành viên
phải can thiệp vào thị trường vàng để giữ giá vàng chính thức ln ln ở mức 35 USD = 1
ounce vàng.
- Các nước phải thực hiện ngay các biện pháp thiết thực để loại trừ chế độ kiểm soát và quản chế
ngoại hối, đồng thời thiết lập chế độ tiền tệ tự do chuyển đổi.
- Thiết lập một tổ chức tiền tệ quốc tế nhằm điều chỉnh các quan hệ tiền tệ - tài chính quốc tế theo
những nguyên tắc của chế độ tiền tệ Bretton-woods.
1.2.Giai đoạn từ năm 1973 đến những năm 1980
Qua 2 lần phá giá USD, năm 1973, M ỹ và các quốc gia khác đã chấp thuận cho phép tỷ giá hối
đoái thả nổi. Chế động tiền tệ Bretton Woods sụp đổ. Hệ thống tiền tệ thế giới hình thành nên 1
số chế độ tiền tệ mới:
- Chế độ tiền tệ Gia-mai-ca ra đời trên cơ sở Hiệp định được ký kết giữa các nước thành viên
IM F tại Gia-mai-ca vào những năm 1976-1978. Chế độ tiền tệ này thừa nhận SDR là cơ sở của
chế độ tiền của các nước. SDR trở thành một đơn vị tiền tệ tính tốn quốc tế mới. Giá trị của nó
được xác định theo phương pháp rổ tiền tệ, lúc đầu rổ tiền tệ gồm 16 đồng tiền mạnh nhất của thế


giới. Hiện nay, tham gia “rổ tiền tệ” là 5 đồng tiền mạnh của những quốc gia có tiềm lực về kinh
tế, tài chính. Như vậy, chế độ tiền tệ Gia-mai-ca thực chất là chế độ bản vị SDR.
- Chế độ tiền tệ châu Âu: Chế độ tiền tệ châu Âu là một chế độ tiền tệ quốc tế khu vực. Chế độ
tiền tệ này ra đời trong bối cảnh mâu thuẫn giữa ba trung tâm thế lực quốc tế trong lĩnh vực
thương mại, tiền tệ, tài chính ngày càng trở nên gay gắt. Nó được xây dựng trên cơ sở Hiệp định
tiền tệ do các nước trên lục địa châu Âu ký kết vào tháng 3-1979. Chế độ tiền tệ châu Âu dựa vào
ECU - một đơn vị tiền tệ quốc tế khu vực của các nước châu Âu. Giá trị của ECU được đảm bảo
bằng dự trữ vàng và ngoại hối của các nước thành viên.
USD lại trở về vị trí đồng tiền quốc gia. Nhưng do tiềm lực kinh tế của Mỹ rất lớn, cho nên USD
vẫn cịn là một đồng tiền mạnh, đồng thời nó vẫn chiếm 1 tỷ trọng đáng kể trong quỹ dự trữ ngoại
hối quốc gia của các nước.

1.3.Giai đoạn 1980 – 1985
Trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 3 năm 1985 đồng USD không ngừng tăng
giá, tỷ giá danh nghĩa của USD tăng gần 50% và tỷ giá thực cũng tăng với một tỷ lệ tương tự.
M ột trong những nguyên nhân chính khiến cho đồng USD lên giá mạnh là vì Chính phủ M ỹ áp
dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng nới lỏng chính sách tài khoá dẫn đến thâm hụt ngân sách
(từ 16 tỷ $ năm 1979 lên 204 tỷ $ năm 1986). Tuy nhiên việc USD liên tục lên giá làm phát sinh
nhiều mối quan tâm lớn đó là ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu và gây thâm hụt cán cân vãng lai.
1.4.Sau sự kiện khủng bố 11/09 và cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu cho đến nay
Sau sự kiện khủng bố tại M ỹ và sự ra đời chính thức của đồng Euro, đồng USD liên tục mất giá
so với các các ngoại tệ khác và vàng (trong 05 năm qua, đồng USD đã mất giá 25%). Đồng euro
ngày càng được các cơng ty cũng như các chính phủ từ Trung Quốc đến Trung Đông chấp nhận
nhiều hơn như một ngoại tệ dự trữ . Đồng đơ la M ỹ có lúc trồi sụt, gây thiệt hại kinh tế, mất an
toàn cho nền tài chính tiền tệ các nước và nhiều nước chủ trương thay thế vị trí độc tơn của USD
bằng euro. Theo Quỹ Tiền tệ thế giới (IM F), dự trữ ngoại tệ tồn cầu trong q 1 -2006 xấp xỉ
4,34 ngàn tỷ USD. Trong số đó, đồng USD chiếm 66,3% và đồng euro 24,8%. Kinh tế toàn cầu,
vốn đang bị tác động bởi cuộc khủng hoảng thị trường tài chính và sự suy giảm kinh tế của Mỹ,
hiện đang đứng trước mối nguy hiểm, với đồng USD giảm giá và vượt khỏi tầm kiểm sốt. Thêm
vào đó là mối lo sợ các ngân hàng trung ương đột ngột tung nguồn dự trữ USD không lồ của họ
ra để mua các phương tiện dự trữ khác thay thế và các nước Trung Đơng có thể từ bỏ chế độ tỷ
giá gắn kết với USD.
Sự kiện 11/9/2001 và cuộc chiến chống khủng bố đã tác động xấu đến cán cân thanh toán của
M ỹ, mà đỉnh cao là đổ vỡ tín dụng tại M ỹ và dẫn đến khủng hoảng tài chính tồn cầu. Chính sự
mất cân đối ngân sách kỷ lục tại M ỹ và sự nổi lên của các nền kinh tế mới nổi đã khiến cho USD
mất giá 16% tính từ tháng 3/2009 và trên 20% tính từ năm 2002 và còn tiếp tục xuống giá. Tỉ
trọng USD trong dự trữ thế giới giảm từ 72% vào năm 1999 (đồng euro bắt đầu lưu hành) xuống
còn 62,8% vào quí 2/2009.
Trong thời gian qua, thị trường tiền tệ thế giới có nhiều biến động với việc đồng USD giảm
giá kỷ lục so với các đồng tiền chủ chốt cũng như so với các đồng tiền châu Á khác. Trong giai
đoạn từ tháng 7 đến tháng 9/2007, giá trị đồng USD đã giảm 5,4% so với đồng Euro và giảm
6,8% so với đồng Yen Nhật. Kể từ đầu năm 2007 tới nay, đồng USD nhìn chung đã mất giá

khoảng 16%.


Đồng USD liên tục xuống dốc không phanh trong những tháng cuối năm 2007. Đồng USD đã
thực sự đạt được một dấu mốc khi nó vượt cả mức thấp nhất so với đồng M ark Đức hồi đầu năm
1995, tương đương với khoảng 1,455-1,457 USD/Mark và đồng Euro tăng lên với 1 Euro đổi
được 1,48 USD.
Tuy nhiên, quý II/ 2012, Dự trữ USD toàn cầu hiện cao nhất kể từ quý III/2010 sau khi xuống
thấp kỷ lục 60,5% vào giữa năm ngối. Trong khi đó, tỷ lệ dự trữ euro thấp nhất kể từ quý
III/2006. Dự trữ tiền tệ khác, trừ yên, USD, euro, bảng, franc Thụy Sỹ giảm lần đầu tiên kể từ
đầu 2009.
Chỉ số Dollar đo sức mạnh của USD so với euro, yên, bảng Anh, đô la Canada, krona Thụy Điển,
france Thụy Sỹ đạt 84,1 điểm hồi tuần trước, cao nhất 2 năm.
Vị thế của USD tăng trong bối cảnh bất ổn kinh tế toàn cầu, đặc biệt là khủng hoảng nợ châu Âu
dai dẳng. Các ngân hàng lớn như UBS, Bank of Tokyo-M itsubishi UFJ đều cho rằng, USD sẽ còn
mạnh hơn vào cuối năm nay khi khủng hoảng châu Âu lún sâu hơn, nhà đầu tư tăng cường tích
trữ USD.
USD lên giá cũng làm thay đổi xu hướng của dòng vốn. Nhà đầu tư M ỹ bắt đầu rút dần tài sản ở
nước ngoài và đổ tiền vào các quỹ trong nước. Theo số liệu của Bộ Tài chính M ỹ, từ tháng
12/2011 đến tháng 5/2012, khoảng 48,9 tỷ USD trở lại các quỹ của M ỹ - đánh dấu lần đầu tiên
mua ròng tài sản trong nước suốt 6 tháng kể từ khi Lehman Brothers sụp đổ năm 2008.
10 quỹ thị trường tiền tệ lớn nhất của M ỹ cũng giảm mạnh tỷ lệ nắm tài sản của khu vực đồng
euro, từ 31% tháng 5/2011 xuống 8% tháng 6 vừa qua. Trong khi đó, nhà đầu tư M ỹ rút khoảng
15,8 tỷ USD khỏi châu Á.
2. Xu hướng vận động của đồng CNY:
Đồng CNY chịu sự điều chỉnh từ chính sách của chính phủ Trung Quốc và chỉ đang trong lộ
trình trở thành đồng tiền quốc tế, tạo thế cân bằng với đồng USD trong hệ thống tiền tệ toàn cầu.
Trung Quốc đang nỗ lực đưa CNY trở thành một trong số những đồng tiền dự trữ của thế giới,
sánh ngang với những đồng tiền như USD hay EUR. Vì vậy, có thể thấy các giai đoạn biến động
của đồng CNY được đánh dấu mốc bằng những thay đổi trong chính sách của Chính phủ Trung

Quốc.
Bảng 2: Diễn biến tỷ giá thực của đồng CNY và USD
Năm 2001
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
US D 100
100
100
100
100
100
100 100
100 100
100
CNY 101.67

104.95 104.11 104.07 103.85 100.64 91.90 84.30 84.87 80.82 77.42

2.1. Giai đoạn từ 1988 – 1995: Cho phép giao dịch đồng CNY ở một tỷ giá sát hơn phản
ánh nhu cầu thị trường
- 1988: Trung Quốc lập các trung tâm hoán đổi tiền tệ bán chính thức, cho phép giao dịch
đồng CNY ở một tỷ giá sát hơn phản ảnh nhu cầu thị trường.
- 1/1/1994: Tỷ giá chính thức và tỷ giá ở các trung tâm hốn đổi được thống nhất, theo đó
đồng CNY bị đánh tụt giá trị khoảng 33% xuống còn 8,7 CNY/ USD.
- 4/1994: Thị trường tiền tệ liên ngân hàng đầu tiên được thành lập ở Thượng Hải. Ngân hàng
trung ương can thiệp vào thị trường để duy trì đồng CNY ổn định.
2.2.Giai đoạn từ 1996 – 2004: Cho phép đồng CNY có khả năng chuyển đổi tồn diện:


- 1/12/1996: Cho phép đồng CNY có khả năng chuyển đổi toàn diện
- 1994 – 1996: Đồng CNY tăng từ 8,7 lên 8,28 CNY/ USD

- 1997 – 1999: Đây là thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra, nhưng Trung Quốc vẫn
giữ được đồng USD ổn định trong thời gian xảy ra khủng hoảng tài chính.
- 2000: Đồng CNY được cho phép có biên độ tỷ giá rộng hơn so với đồng USD, cụ thể là
8,2760 – 8,2800 CNY/ USD.
- 12/2001: Trung Quốc gia nhập WTO và cam kết sẽ dần điều chỉnh chính sách tiền tệ.
- 2003: Sức ép tăng mạnh về định giá lại đồng CNY để giúp cân bằng thương mại toàn cầu.
2.3.Giai đoạn từ 2004 – nay: Cơ chế tiền tệ linh hoạt
- 12/2004: Trung Quốc tuy ên bố sẽ dần theo cơ chế tiền tệ linh hoạt
- 21/07/2005: Đồng CNY được nâng giá trị 2,1% lên một “tỷ giá hối đối thả nổi có kiểm
soát” theo cách gọi của Trung Quốc
- 7/2008: Ngân hàng trung ương “trói” đồng CNY ở mức 6,83 CNY/ USD đối phó với khủng
hoảng .
- Năm 2009, Chán nản với sự lớn mạnh của đồng USD, Trung Quốc đã sử dụng chính sách
thúc đẩy việc sử dụng đồng nhân dân tệ vào lĩnh vực thương mại và đầu tư ở ngồi biên giới
nước này. M ục đích là thương mại hóa đồng nhân dân tệ để giảm chi phí giao dịch cho các nhà
xuất khẩu cũng như nhập khẩu của Trung Quốc với một chiến lược sâu rộng.Trung Quốc bước
đầu đạt được mục đích của mình trong mục tiêu biến CNY thành đồng tiền dự trữ thế giới của
mình. Trung Quốc và một số đối tác chính của mình như Hong kong, Iran, Nhật Bản…dung
CNY làm đồng tiền giao dịch, tăng cường thu hút FDI bằng đồng nhân dân tệ.. Kết quả là trữ
lượng nhân tệ trong các ngân hàng Hồng Kông tăng từ 12,1 tỷ CNY lên 609 tỷ CNY vào năm
2010. Tổng trị giá các hợp đồng giao dịch bằng nhân dân tệ tại Hong Kong hiện tại ước tính vào
khoảng 1 500 tỷ CNY. Năm ngối, một vài cơng ty nước ngồi lần đầu tiên đã cho phát hành trái
phiếu bằng loại tiền này. Dấu mốc của q trình quốc tế hóa chính là thỏa thuận Trung-Nhật hôm
25/12/2011.
- Tháng 6/2010, dưới sự phản ứng gay gắt và sức ep của nhóm G-20, Trung Quốc áp dụng cơ
chế mới: thả nổi tỷ giá đồng CNY. Sau gần một tuần giao dịch với cơ chế mới, đồng CNY chỉ lên
giá 0,39% so với đồng USD. Tuy thực hiện cơ chế mới, nhưng Ngân hàng nhân dân Trung Hoa
đã nỗ lực tìm mọi biện pháp để đồng CNY khơng lên giá so với đồng USD. Biên độ dao động
hàng ngày của CNY từ ngày 21.6, khi mà thị trường lần đầu tiên có phản ứng với thơng báo của
Trung Quốc, chỉ lên xuống rất ít. Điều này cho thấy CNY vẫn tiếp tục được kiểm sốt chặt chẽ.

Theo ơng Obama: “Đồng CNY đang được định giá thấp, tạo lợi thế cạnh tranh thương mại không
công bằng cho Trung Quốc”.
- Tháng 11/2010, giao dịch hàng ngày của đồng NDT đã tăng từ con số 0 lên tới 400 triệu
USD. Giao dịch quốc tế của đồng NDT được thực hiện đối với hoạt động giao dịch tài chính, đầu
tư và vay nợ. Đây là bước quan trọng để đồng NDT nâng vai trị của mình trên thị trường tài
chính. Đồng CNY tăng 2,4% so với đồng USD.
- Sau gần 2 năm liên tục tăng giá, Từ đầu năm 2012 đến nay, các thống kê đã cho thấy sự suy
yếu trong hoạt động ngoại thương của Trung Quốc, theo đó làm giảm bớt những lời chỉ trích cho
rằng đồng Nhân dân tệ bị định giá thấp hơn nhiều so với giá trị thực. Trong một bản báo cáo công
bố hồi tuần trước, cơ quan quản lý ngoại hối của Trung Quốc tuyên bố, tỷ giá đồng Nhân dân tệ


đang tiến gần đến mức hợp lý. Sau 2 năm tăng không ngừng, so với quý 2/2011, khối lượng giao
dịch bằng đồng nhân dân tệ trong quý 3/2011 giảm 2% xuống 583 tỷ nhân dân tệ tương đương 92
tỷ USD.
M ột vấn đề đặt ra trong việc gia tăng tỷ trọng giao dịch thương mại trên thế giới của đồng
nhân tệ là: liệu vai trò của đồng nhân dân tệ đã thực sự gia tăng? Theo thống kê, chỉ một phần rất
nhỏ khoảng 8% trong tổng khối lượng giao dịch 2.050 tỷ nhân dân tệ trong thương mại từ 2009
đến nay được diễn ra giữa công ty ở Trung Quốc và nước ngồi. Cịn lại, trên thực tế, phần lớn
được thực hiện bởi công ty Trung Quốc đại lục và Hồng Công, mà chủ yếu là giao dịch giữa công
ty mẹ và các chi nhánh.
Bảng 2: Tỷ lệ giao dịch thương mại trên thế giới được thực hiện bằng đồng nhân dân tệ
Năm
2009 2010 2011 2012
Tỷ lệ giao dịch thương mại trên thế giới được thực hiện bằng 1%
7%
8%
6%
đồng nhân dân tệ
3. Các nhân tố tác động đến xu hướng vận động của một đồng tiền

3.1.Nhân tố tác động trong ngắn hạn:
- Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương
- M ức độ thặng dư hay thâm hụt của cán cân ngân sách
- Lãi suất của đồng USD
- Lãi suất của đồng nội tệ
- Thay đổi trong tỷ giá kỳ vọng
- Những cú sốc về chính trị, kinh tế, xã hội, thiên tai
3.2.Nhân tố tác động trong dài hạn:
- Vị thế quốc gia: khả năng tăng trưởng, tỷ trọng GDP toàn cầu, …
- M ức giá cả tương đối (tỷ lệ lạm phát giữa các nước)
- Thu nhập
- Rủi ro
- Năng suất lao động
4. Dự báo xu hướng vận động của đồng USD và CNY
4.1.Xu hướng vận động của đồng USD:
4.1.1. Trong ngắn hạn
Đồng USD sẽ tăng giá trở lại và vẫn giữ vị thế là đồng tiền dự trữ toàn cầu, tỷ trọng dự trữ
toàn cầu bằng đồng USD sẽ được duy trì hoặc có xu hướng tăng nhẹ vì các lý do sau đây:
- Thế giới đang ở trong thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính và M ỹ đang dần khắc phục những
đổ vỡ từ thị trường tài chính gây ra. Hậu quả của thâm hụt ngân sách và chính sách chống khủng
bố từ những năm trước đang dần được khắc phục.
- USD vẫn giữ vai trò là đồng tiền số 1 và vẫn được đánh giá là kênh trú ẩn an toàn.
- Trong tỷ giá kỳ vọng: đồng USD vẫn được đánh giá cao về tính ổn định. Khủng hoảng nợ
cơng ở các nước châu Âu khiến đồng EUR mất giá, đồng USD tăng giá trở lại trong năm 2012
vừa rồi. Trái phiếu kho bạc M ỹ có tính thanh khoản tốt nhất thế giới.
- Lãi suất của các đồng tiền nước khác đang giảm, trong khi lãi suất đồng USD vẫn giữ ổn
định.
4.1.2. Trong dài hạn:



Theo kết quả nghiên cứu năm của chi nhánh Fed tại New York, khoảng 60% USD nằm bên
ngoài nước M ỹ, 2/3 dự trữ ngoại tệ của các nước công nghiệp là USD, trên 80% các giao dịch
ngoại tệ được sử dụng bằng USD, 39% các khoản nợ quốc tế được tính bằng USD. Vì vậy, trong
dài hạn, đồng USD vẫn giữ vị thế là đồng tiền dự trữ toàn cầu tuy nhiên tỷ trọng dự trữ toàn cầu
bằng đồng USD sẽ có xu hướng giảm vì các lý do sau đây:
- Đã có nghiên cứu chứng minh được rằng đồng USD không thể phát huy chức năng bảo đảm
giá trị ổn định, khơng có yếu tố ổn định của một đơn vị tiền tệ dự trữ cần phải có. Đặc biệt là qua
cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua. M ức độ tín nhiệm với đồng USD của các nước có xu hướng
giảm.
- Các nước có xu hướng đa dạng hóa dự trữ quốc gia của mình để tránh rủi ro và cũng không
muốn bị đồng USD chi phối quá sâu.
- Sự p hát triển của các quốc gia mới nổi như Trung Quốc, Brazil, Nga, Ấn Độ…
4.2.Xu hướng vận động của đồng CNY
4.2.1. Trong ngắn hạn
Những thông số gần đây trên thị trường tiền tệ đã phản ánh thị trường đang kì vọng đồng nhân
tệ sẽ mất giá và lãi suất nội tệ tại Trung Quốc đang ở xu thế giảm.
Để đảm bảo mức hòa vốn, các ngân hàng thương mại (NHTM ) đã nâng lãi suất vay vốn bằng
USD từ mức Libor + 0,55% lên Libor + 3%. Rõ ràng, triển vọng đầu cơ đang ngày một thu hẹp.
Theo đó, dựa trên mức tỷ giá USD/CNY (nhân dân tệ) vào tháng 8 năm 2012, lãi suất gửi tiền
thực tế đối với đồng nhân dân tệ là 1,42 % thay vì 3% trên lý thuyết do đồng nhân dân tệ đang
mất giá so với USD. Lãi suất vay USD là 1,03% tại ngày 22/8/2012. Nguyên nhân của xu thế này
có thể giải thích như sau:
- Trung Quốc rơi vào tình trạng suy giảm tăng trưởng và buộc phải kích thích kinh tế trong khi
khủng hoảng nợ cơng tại châu Âu vẫn chưa đi đến hồi kết.
- Chính sách cắt giảm lãi suất cơ bảng đồng nhân dân tệ
Tuy nhiên, dự báo trong 2 – 3 năm tới, đồng CNY sẽ tăng giá so với đồng USD và sử dụng
đồng nhân dân tệ đang là một xu thế đi lên của thế giới.Tuy nhiên, đồng CNY chưa thể trở thành
đồng tiền dự trữ thế giới.
Vì các lý do sau:
- Sự chênh lệch lãi suất của CNY và USD cách đây 2 năm đã làm kỳ vọng của thế giới đối với

đồng CNY cao hơn, tăng nhu cầu tích trữ CNY và giảm nhu cầu với USD.
- Vị thế ngày càng tăng của Trung Quốc trong thương mại thế giới. Đồng nhân dân tệ có khả
năng tăng do đồng tiền này sẽ được sử dụng nhiều hơn trong thanh toán quốc tế. Báo cáo của
Deutschbank cho biết, các giao dịch xuyên biên giới sử dụng đồng nhân dân tệ sẽ tăng 30% lên
khoảng 4 nghìn tỷ nhân dân tệ (635 tỷ USD) vào năm 2013. Số tiền này chiếm tới 15% tổng kim
ngạch giao dịch với nước ngoài của Trung Quốc.
- Trung Quốc cần tự do hóa đồng nội tệ và dừng kiểm sốt đồng CNY.
- NDT khơng có vị thế để nhanh chóng trở thành một đồng tiền dự trữ do thị trường vốn Trung
Quốc khơng có chiều sâu và khơng thể dự đốn được, tài khoản vốn bị đóng cửa, NDT chưa phải
là đồng tiền chuyển đổi và qui mơ trao đổi ở nước ngồi cịn thấp, mặc dù Trung Quốc đang tăng
cường các biện pháp quốc tế hóa NDT. Nhiều nước đang lo ngại trong quan hệ kinh tế đầu tư với
Trung Quốc và tỏ ra thận trọng khi sử dụng NDT trong giao dịch thanh toán, nhất là những nước


nhập siêu quá mức từ Trung Quốc. Điều này có nghĩa là, NDT có thể được sử dụng trong giao
dịch vãng lai như thanh toán thương mại song phương, nhưng khơng thể đóng vai trị trong giao
dịch tài khoản vốn. M ột khó khăn nữa là Trung Quốc khơng dễ dàng điều chỉnh hệ thống kinh tế
và tài chính quốc tế vì nhiều lý do, trong đó phải kể đến sự khác biệt về ngôn ngữ trong bối cảnh
tiếng Anh ngày càng được nhiều quốc gia coi là ngôn ngữ chính thức và bắt buộc.
4.2.2. Trong dài hạn
Đồng CNY có thể sẽ trở thành đồng tiền lựa chọn thay thế cho USD, trở thành đồng tiền dự
trữ của thế giới. Vì các lý do sau:
- Chính phủ Trung Quốc đang ni tham vọng thiết lập các trung tâm hốn đổi tiền tệ ở nước
ngồi, nơi các cơng ty có thể huy động vốn bằng nhân dân tệ, quốc tế hóa đồng nội tệ của mình
và biến nhân dân tệ thay thế USD trở thành tiền tệ dự trữ toàn cầu.
- Đồng nhân dân tệ đang là mối lo ngại trong các chinh sách của M ỹ cho thấy vai trò ngày một
lớn mạnh của đồng tiền này.
- Xu hướng sử dụng nhân dân tệ. Trong năm 2012, Trung Quốc đã thực hiện 18 thỏa thuận
hoán đối ngoại tệ song phương với tổng giá trị hơn 250 tỷ USD
- Thu nhập và năng suất lao động của Trung Quốc đang ngày một tăng. Trung Quốc đang

ngày càng có nhiều người giàu.



×