Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.42 KB, 12 trang )

Trình bày những nội dung cơ bản Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam? Liên hệ thực tiển?
Bài làm
Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự
do của Tổ quốc. Trong lịch sử hànng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta
đã nhiều lần phải đương đầu với kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp bội và từ
thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm, đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm và bài
học quý báu. Trí tuệ đánh giặc, giữ nước là một trong những đỉnh cao của trí tuệ
Việt Nam.
Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh mang theo hành trang truyền
thống, bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc. Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin,
tìm hiểu thêm tư tưởng của một số nhà yêu nước lỗi lạc trên thế giới, nâng lên tầm
cao mới của thời đại, gắn quyện thành tư tưởng giải phóng dân tộc
Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đã đưa ra khái niệm: "Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về vấn đề cơ bản của Cách
mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh
soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần
to lớn của Đảng và dân tộc ta".
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển biện
chứng tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hóa của
phương Đơng và phương Tây với chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng cùng thực
tiền của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh - một
con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách, phâm
chất cách mạng cao đẹp tạo nên.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về Vấn đề dân tộc thuộc địa.
Hồ Chí Minh khơng bàn về vấn để dân tộc nói chung. Xuất phát từ nhu cầu
khách quan của dân tộc Việt Nam,đặc điểm của thời đại, Người dành sự quan tâm đến
các thuộc địa, vạch ra thực chất của vấn dê dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh


chống chủ nghĩa thực dân, xoá bỏ ách thống trị, áp bức, bốc lột của nước ngồi, giải
phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự tự quyết, thành lập nhà
nước dân tộc độc lập.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.L Lênin
bàn nbiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa dế quốc, thì Hồ Chí Minh tập trung bàn về
cuộc đấu tranh chống chủ. nghĩa thực dân. c. Mác và V.L Lênin bàn nhiều về dấu tranh
giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, thì Hồ Chi Minh bàn nhiều về đấu tranh gia3i phóng
dân tốc ở thuộc dịa.
Phươg hướng pbát triển của dân tộc quy địnli yêu cầu, nội dung trước mắt của cuộc
dấu tranh, giành độc lập.Mỗi phương hướng pbát triển gắn liển với một hệ tu tưởng và một
gai cấp nhất định. Từ thực tiễn phong trào cứu nước của cha ơng và lịch sử nhân loại, Hồ
Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là
chủ nghĩa xã hội. Con đường dó phù hợp với hồn cảnh lịch sử cụ thể ở thưộc địa. Đó
cũng là nét độc đáo, khác biệt với con dưòng phát triển của các dân tộc đã phát triển lên
chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.
Hồ Chí Minh tiếp cận vấn đề dân tộc từ quyền con người. Trân trọng quyền con
người, Người đã tìm hiểu và tiếp nhận những nhân tố về quyền con người như quyền bình
đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc được nêu trong Tuyên
ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791
của cách mạng Pháp. Ngưòỉ khẳng định "Đó là những lẽ phải khơng ai chối cãi
được”.
Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng thành quyền dân


tôc: "tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyển sống, quyển sung sướng và quyền tự do".
Nội dung của dộc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm:
+ Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí
Minh nói: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những
điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu".

+ " Quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy".Tháng 5-1941, Hồ Chí
Minh chủ trì Hội nghị Trung ương 8; viết thưKính cáo đồng bào.Người chỉ rõ:
"Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Người đã chỉ đạo
thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo Mười chính
sách lớn của Việt Minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là: "Cờ treo độc lập, nền xây
bình quyền".
+ Tháng 8-1945, khi thời cơ giành chính quyền đã đến, Người khẳng định
quyết tâm giành độc lập, tự do cho dân tộc, nhân dân ta trong câu nói bất hủ: "dù
hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho được độc lập!".
+ "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nưởc, nhất
định không chịu làm nô lệ". Khi đã giành được nền độc lập, Người khẳng định:
"Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và chính phủ các nước vào
thời gian sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: "nhân
dân chúng tơi thành thật mong muốn hịa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng
kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn
lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nưóc".
+ "Khơng có gì q hơn độc lập, tự do". Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở
rộng chỉến tranh, ồ ạt đổ quân viễn chinh và phương tiện chiến tranh hiện đại vào


miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc với quy mơ và cường độ ngày
càng ác liệt,Hồ Chí Minh nêu cao chân lý lớn nhất của thời đại: "Khơng có gi q
hơn độctự do".
Khẩu hiệu hành động của dân tộc Việt Nam " Khơng có gi q hơn độc
l ậ p , t ự do"đồng thời cũng là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới
đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Vì thế, Hồ Chí Minh khơng chỉ là Anh
hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam mà cịn là “Người khởi xướng cuộc đấu

tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự áp bức, bóc
lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề thì phản ứng
của dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ quần chúng lao động (công nhân
và nông dân), mà cả các giai cấp và tầng lớptrên trong xã hội (tiểu tư sản, tư sản và
địa chủ) đều phải chịu nỗi nhục của người dân mất nước, của một dân tộc mất độc
lập, tự do.
Cùng với sự kết án chu nghĩa thực dân và cổ vũ các dân tộc thuộc địa vùng
dậy đấu tranh, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương
Đông, "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước". Người viết: "người ta sẽ
khơng thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại r
và duy nhất của đời sống xã hội của họ". Người kiến nghị về Cương lĩnh hành
động của Quốc tế Cộng sản là: "Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh
Quốc tế Cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi... nhất định chủ nghĩa
dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế".
Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc ở chủ nghĩa yêu nước
chân chính và tinh thần dân tộc của các dân tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến
đấu và thắnglợi trướcbất cứ thế lực ngoại xâm nào. Ngườicoi đó là "một chính sách
mang tính hiện thực tuyệt vời".
b)Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp


Vấn đề dân tộc ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết trên lập
trường và thoe quan điểm của một giai cấp nhất định.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lenin nhần mạnh rằng “ Chỉ đứng
trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mời giải quyết được đúng
đắn vấn đề dân tộc”.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Khi viết rằng: "Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp

của giai cấp vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít
thắng lợi trong một nước nào đó thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam",
tức là Người đã nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp
trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản. Sự kết hợp
nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong tư tưỏng của Hồ Chí Minh
thể hiện ở các điểm sau:
- Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyển lãnh đạo duy
nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam.
- Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách
mạng của kẻ thù; thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân, gắn kết
mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Vào lúc sinh thời của Mác - Ănghen, hệ thống thuộc địa của CNTB đã được
mở rộng, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh, chưa có
ảnh hưởng đến sự tồn tại và suy vong của CNTB.
Trung tâm cách mạng thế giới vẫn ở châu Âu, vận mệnh của loài người vẫn
được coi là phụ thuộc vào thắng lợi của CM vô sản ở các nước tư bản công nghiệp
phát triển.


Vào lúc sinh thời của Mác - Ănghen, hệ thống thuộc địa của CNTB đã được
mở rộng, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh, chưa có
ảnh hưởng đến sự tồn tại và suy vong của CNTB.
Trung tâm cách mạng thế giới vẫn ở châu Âu, vận mệnh của loài người vẫn
được coi là phụ thuộc vào thắng lợi của CM vô sản ở các nước tư bản cơng nghiệp
phát triển.
Do đó, tương lai của cách mạng GPDT ở thuộc địa cũng được nhìn nhận
trong sự phụ thuộc vào thắng lợi của CM vô sản ở chính quốc.
Trái lại, vấn đề đặt ra trước mắt cho các thuộc địa phương Đông không phải là làm

ngay một cuộc CM vô sản, mà trước hết là phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân
tộc, có độc lập dân tộc rồi mới có địa bàn để tiến lên làm cách mạng XHCN.
Hơn nữa yêu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khơng cho
phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của CM vô sản ở châu Âu để được trả lại nền độc lập
cho các dân tộc thuộc địa.
Từ năm 1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất nhưng luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước
là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ở Hồ Chí Minh có sự gắn bó
thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng định con đường đó vì Người coi: "nước độc lập mà dân
khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Sau khi
giành độc lập,phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu nước
mạnh, mọi người được sung sướng, tự do. Người khẳng định: Yêu Tổ quốc, yêu
nhân dân phải gắn liến với u chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh
thêm".
Năm 1960, Người nói: "... chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủnghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nơ lệ".
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, đồng thời đặt
vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ


nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế trong cách mạng giải
phóng dân tộc, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợiích của dân tộc.
Trong cao trào giải phóng dân tộc, vấn đề dân tộc phải được ưu tiên. Năm
1941, Người khẳng định: "Trong lúc này quyền lợicủa bộ phận, của giai cấp phải
đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không
giải quyết đượcvấn đề dân tộc giải phóng,khơng địi được độc lập, tự do cho tồn

thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,
mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được".
Đồng thời, trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ quan điểm giải phóng
giai cấp, thực hiện mục tiêu lâu dài của cuộc cách mạng để xóa bỏ triệt để sự bất
bình đẳng và ách áp bức của dân tộc này với dân tộc khác. Độc lập dân tộc phải
gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Tư tưỏng Hồ Chí Minh vế vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách
mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như Ph.
Ăngghen đã từng nói: Những tư tưởng dân tộcchân chính trong phong trào công
nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính.
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự
quyết, Hồ Chí Minh khơng qn nghĩa vụ quốc tế, ủng hộ các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc trên thế giới. Người đề ra khẩu hiệu "giúp bạn là tự giúp mình” và
chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng
lợi chung của cách mạng thế giới.
Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung
Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược
của nhân dân Lào và Campuchia, ủng hộ phong trào cách mạng của nhân dân các
dân tộc trên thế giới.


Như vậy:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tình khoa học đúng đắn,
vừa có tính chất cách mạng sâu sắc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc
và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc
lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự nghiệp
đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo

của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam
Người đề ra khẩu hiệu " giúp bạn là tự giúp mình" và chủ trương phải bằng
thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách
mạng thế giới.
Hồ Chí Minh khơng qn nghĩa vụ quốc tế, ủng hộ các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc trên thế giới.
Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung
Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược
của nhân dân Lào và nhân dân CampuChia, ủng hộ phong trào cách mạng của nhân
dân các dân tộc trên thế giới.
Vận dụng thực tiễn
SỰ VẬN DỤNG NHỮNG QUAN ĐIỂM SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ CHÍ
MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC VÀO THỰC TIỄN
HIỆN NAY
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn.
Những lý luận của Người khơng thế có giá trị nếu xa rời thực tiễn. Chính vì thế,
những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc phải
được vận dụng thành cơng vào cách mạng Việt Nam.
Tháng 5-1941, Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khóa I do
Người chủ trì đã đưa ra quyết định tiến hành khởi nghĩa vũ trang, mở đầu bằng một
cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương để tiến tới tổng khởi nghĩa toàn
quốc. Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Người cùng với Trung ương đảng
chủ động chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết, đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động
Tổng khởi nghĩa Tháng tám. Lực lượng tham gia cuộc Tổng khởi nghĩa là toàn bộ
dân tộc Việt Nam bao gồm cơng nơng binh, trí thức, và có cả sự tham gia của tầng
lớp tiểu địa chủ, tiểu tư sản. Nhưng chủ chốt đó là liên minh cơng – nơng và được


sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Kết hợp tất cả các yếu tố đó, quân và

dân ta đã giành được chính quyền trên tồn quốc chỉ trong vịng 10 ngày, lật đổ
chính quyền thực dân nửa phong kiến, đưa nhân dân ra khỏi cảnh nô lệ lầm than.
Bên cạnh đó cịn là tiền đề cho thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc của các
nước thuộc địa khác trên thế giới, kéo theo sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc sau này.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, với chủ trương kháng chiến: “tồn dân,
tồn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của thế giới” và dưới
sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản, quân và dân
ta đã từng bước đẩy lùi được những kế hoạch tấn công của quân Pháp, buộc chúng
phải thừa nhận nền độc lập, tự chủ của Việt Nam qua hiệp định Giơnevo năm
1954. Từ đây, thực dân Pháp hoàn toàn bỏ mộng xâm lược nước ta, đất nước ta
hoàn toàn độc lập, nhân dân ta hồn tồn được tự do.
Khơng chỉ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Pháp mà sau này thắng lợi vẻ vang trong kháng chiến chống Mỹ đã
khẳng định sâu sắc tính đúng đắn của những quan điếm về cách mạng giải phóng
dân tộc của Hồ Chí Minh và đồng thời cũng thế hiện sự vận dụng nhuần nhuyễn tư
tưởng của Người trong con đường cách mạng của Việt Nam sau này.
Bản thân Là một đảng viên, giáo viên với nhiệm vụ giảng dạy được nhà
trường phân công, tôi nhận thấy cần phải gắn việc học tập và làm theo tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vào những việc làm cơ bản sau:
Để xây dựng được mối đoàn kết nội bộ theo tơi chúng ta cần Đặt lợi ích tập
thể lên đầu. Sự đoàn kết, thoải mái trong tư tưởng sẽ khiến con người ta nhiệt tình
và u mến cơng việc hơn.
Bản thân ln có ý thức trong tự phê bình và phê bình; biết tơn trọng và lắng
nghe ý kiến của người khác; tích cực đấu tranh với những biểu hiện chia rẽ, bè .
Ngay từ đầu năm học mỗi đoàn thể phải xây dựng cho mình kế hoạch làm
việc của năm và phân định công việc cụ thể cho từng tháng, từng kì. Việc xây dựng
kế hoạch phải sát với tình hình thực tế, khơng qua loa, đại khái hay chung chung,
có sự phân định trách nhiệm cơng việc rõ ràng, phân đúng người, đúng việc dựa
theo khả năng, sở trường của mỗi người như vậy hiệu quả công việc sẽ cao. Sự



rạch rịi trong cơng việc sẽ khiến mỗi người có trách nhiệm hơn trong cơng việc
của mình, tránh được tình trạng đổ lỗi cho nhau. Dù cá nhân hay tập thể đều phải
biết lắng nghe ý kiến đóng góp để tìm ra cái đúng, cái hay mà sửa chữa để hồn
thiện mình.
Mỗi đảng viên chúng ta rất cần thấm nhuần và học theo những phong cách
trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ cần một lời chào chân tình, một nụ cười niềm
nở, một cử chỉ vượt ngoài quy cách thơng thường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xóa
bỏ mọi cách biệt về chức vụ, địa vị, giữa cấp trên cấp dưới, giữa lãnh tụ với nhân
dân; đem đến cho mọi người ý thức về sự bình đẳng hồn tồn. Mỗi chúng ta ai ai
cũng cần học bác những đức tính tốt đẹp ấy trong cơ quan đơn vị cũng như với anh
em người thân, bà con lối xóm…
Bản thân luôn nêu cao ý thức trách nhiệm và tinh thần phục nhân dân; giải
quyết tốt các đề xuất, kiến nghị về quyền và lợi ích chính đáng của đảng viên và
quần chúng trong đơn vị tổ; tích cực đấu tranh với các biểu hiện vô cảm, quan liêu,
hách dịch, nhũng nhiễu, gây phiền hà đối với nhân dân.
Người luôn luôn thể hiện thái độ yêu thương, quý mến, trân trọng, khoan
dung, khiêm nhường, độ lượng với con người. Chính vì vậy mà sức cuốn hút, cảm
hóa, cảm phục, ngưỡng mộ và thôi thúc mọi người hướng tới cái chân, thiện, mỹ
trong cuộc sống và công tác. Cách ứng xử không chỉ dừng lại ở tình thương yêu và
sự quan tâm Người dành cho các đối tượng trong giao tiếp, mà nó cịn thể hiện
thơng qua sự nêu gương của Người. Sinh thời, khi nước nhà vừa giành được độc
lập năm 1945, đứng trước nạn đói , Hồ Chí Minh kêu gọi tồn dân diệt “giặc đói”
bằng một hành động cụ thể, mười ngày nhịn ăn một bữa để lấy số gạo đó cứu
những người bị đói và chính Người đã gương mẫu nghiêm túc thực hiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả
tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực,



cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại.
Học tập theo gương bác là là niềm vinh dự tự hào đối với mỗi cán bộ đảng viên và
mỗi người dân Việt Nam.
Đối với bản thân là một Đảng viên, học theo gương Bác là một nhiệm vụ rất
quan trọng và thường xun, qua đó để giáo dục, rèn luyện mình, xứng đáng là con
cháu của Bác. Nhận biết được điều đó bản thân tôi luôn tự rèn luyện, trau dồi về
phẩm chất đạo đức, biết kính trên nhường dưới, cư xử đúng mực, hòa nhã với đồng
nghiệp, người thân, bà con lối xóm; Đồng cảm và sẵn sàng giúp đỡ những người
có hồn cảnh đặc biệt; khơng kiêu căng, tự cao, tự đại trong mọi trường hợp, đặc
biệt không tham gia vào các tệ nạn xã hội, là tấm gương cho con cái noi theo
Học tập đạo đức của Bác Hồ, chúng ta cịn có thể học tập qua chính những
tấm gương đồng nghiệp, bè bạn xung quanh. Và hãy để việc học tập đó đi vào
chính cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta chứ không phải là những hoạt động
có tính chất phong trào. Bởi học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
để giúp chúng ta sống tốt hơn, đẹp hơn
Tôi tin, sống giản dị như Bác, học tập và làm theo tấm gương của Bác để
thấy một Việt Nam vững vàng phát triển ở ngày mai. Là những đảng viên, cánh tay
phải của xã hội, chúng ta cần học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Đó
khơng chỉ là trách nhiệm của cá nhân tơi, cá nhân chúng ta, mà cịn vì vận mệnh
của đất nước Việt Nam. Sống giản dị như Bác còn là để trả ơn cuộc đời, trả ơn
những máu và nước mắt của các thế hệ cha anh đã ngã xuống cho tự do, độc lập
hơm nay.
Tóm lại:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc mang nhiều
luận điểm sáng tạo,làm phong phú đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng góp
phần vô cùng to lớn vào giá trị thực tiễn và lý luận


Hồ Chí Minh đã định đoạt con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo

khuynh hướng chính trị vơ sản.Người đã vận dụng kết hợp khai hóa vấn đề dân tộc
với vấn đề giai cấp và gắn độc lập dân tộc với định hướng chủ nghĩa xã hội.Vì vậy
lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những
luận điếm sáng tạ o và lý luận đó ln đúng đắn.Cũng chính lý luận ấy đã làm
phong phú them chủ nghĩa Mác-LêNin về cách mạng thuộc địa.
Hồ Chí Minh đã từng bước tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc một
cách hết sức độc đáo,sáng tạo thấm nhuần tính nhân văn.Đó là phương pháp khởi
nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.Người đã vận dụng sáng tạo và phát triển
học thuyết LêNin về cách mạng thuộc đị a thành hệ thống luận điểm mới mẽ sáng
tạo.Chính Hồ Chí Minh đã làm chuyển hóa tính cách mạng từ việc tập hợp các
thanh niên yêu nước dẫn dắt họ đi theo đất nước .Chúng ta phải biết khơi dậy sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước trên lập trường giai cấp cơng nhân,cùng nhau xây
dựng mối đồn kết tồn dân,giữa các dân tộc an hem.Góp phần xây dựng đất nước
giàu mạnh dân chủ công bằng xã hội văn minh,sánh vai được với các cường quốc
trên thế giới.



×