Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.29 KB, 2 trang )

Bi vn hay lp 9

Văn học trung đại Việt Nam

đề Bài
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngng Bích.
Bài làm
Nếu ai ®· tõng ®äc tõng ®äc Trun KiỊu cđa Nguyễn Du thì chắc chắn cũng sẽ cảm thông cho
cuộc đời của Vơng Thuý Kiều. Mối tình đầu vừa chớm nở thì gia đình nàng lại gặp biến cố.
Trong cơn hoạn nạn đó nàng đà từng đọc phải bán mình chuộc cha, không những bị bán vào lầu
xanh mà nàng còn bị đánh đập tàn bạo, dà từng đọc man. Và Kiều đà từng đọc phải ra ở lầu Ng ng Bích trong
cơn đau đớn, tủi nhục. Có thể nói Nguyễn Du đặt Kiều trong một hoàn cảnh vô cùng éo le,
bức xúc. Và để miêu tả tâm trạng của Kiều Nguyễn Du đà từng đọc miêu tả cảnh vật ở lầu Ng ng
Bích để làm nổi bật những đau đớn trong cuộc đời đầy sóng gió của Kiều qua đoạn trích
Kiều ở lầu Ngng Bích đợc xem là bức tranh vịnh cảnh ngụ tình xúc động nhất trong truyện
Kiều.
Thiên nhiên ở lầu Ngng Bích thật đẹp đẽ, khoáng đạt:
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Với vẻ non xa tấm trăng gần, bốn bề bát ngát, cát vàng, bụi hồng... Những đờng nét,
màu sắc của thiên nhiên nơi đây đan xen tạo nên một bức tranh thuỷ mặc, tĩnh lặng, đợm buồn.
Trớc thiên nhiên tơi đẹp ấy, Kiều ở trong một tâm thế khoá xuân cô quạnh, lẻ loi đơn
chiếc:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh nh chia tấm lòng
Chính cái tâm thế ấy của Kiều đà từng đọc tạo ra sự đối lập trớ trêu giữa thiên nhiên lớn lao
với con ngời bé nhỏ. Nếu bên ngoài mênh mông, rộng lớn bao nhiều thì bên trong lại càng
chật hẹp, tù túng, giam cầm bấy nhiêu. Nỗi buồn tê tái, cô đơn, chán ngán đ Ã từng đọc chế ngự và
xâm chiếm toàn bộ tâm hồn Kiều.
Trong khung cảnh tĩnh lặng ấy, nàng nhớ đến ngời yêu, nhớ đến cha mẹ.


Tởng ngời dới nguyệt chén đồng,
Tin sơng luống những rày trông mai chờ
...
Xót ngời tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng ma,
Có khi gốc tử đà vừa ngời ôm.
Nguyễn Du đà từng đọc đảo trật tự nỗi nhớ để Kiều nhớ đến ng ời yêu trớc cha mẹ sau là phù
hợp với tiếng lòng nàng Kiều. Trái tim yêu thơng, thổn thức rất đời và rất ngời của tuổi
trẻ. Đây chính là màn độc thoại, da diết, đằm thắm yêu thơng và trân trọng đời Kiều.
Cuối cùng nàng nghĩ về bản thân mình với tám câu thơ và bốn cặp câu giống nhau:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn gió mới xa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Điệp từ buồn trông lặp lại trong bốn cặp câu và ở vị trí đầu câu nh dồn lại, nh ứ đầy,
chồng chất những nỗi buồn điệp điệp, sóng dồn trong tâm trạng của cô con gái liễu yếu


Bi vn hay lp 9

Văn học trung đại Việt Nam

đào tơ, nỗi buồn xoáy sâu vào tâm can xé nát vụn vỡ từng luồng suy nghĩ dẫu bé nhỏ bình
dị của nàng.
Từ trên lầu cao, Kiều phóng tầm mắt ra rất xa ngoài cửa biển, nhìn thấy những cánh

buồm thấp thoáng này chạnh nghĩ đến cuộc đời và một hành trình lu lạc mờ mịt xa xăm
của mình.
Kiều vội đảo tầm mắt lên một hớng cao hơn hy vọng sẽ kiếm tìm đợc một niềm vui bé
bỏng nhng lại đập ngay vào tầm nhìn của nàng:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn gió mới xa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Cánh hoa trôi man mác, vô định nh thân phận bèo bọt của nàng trên dòng đời đen
bạc cha biết đi đâu về đâu. Cánh hoa ấy tơi tả trớc thời gian sãng giã b· tõng ®äc o bïng nh Èn dụ
cuộc đời Thuý Kiều cũng trôi nổi trớc lới trời đang vây bủa, rình rập. Nàng nhìn ra xa
hơn tận chân mây mặt đất nhng nàng chỉ nhìn thấy những nội cỏ dầu dầu vàng úa, nhạt
nhoà, sâu thẳm, mờ mịt, xa xăm. Vẫn không thể cắt nghĩa đợc nỗi buồn của mình, nàng
chuyển đổi cảm giác từ nhìn nhận sang nghe ngóng để hi vọng gạt đi đợc những u t phiền
muộn của cuộc đời, nhng tất cả đều vô vọng.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nàng thu tầm mắt nhìn của mình về ngay vị trí đang ngồi dới chân lầu Ngng Bích
thì một âm thanh hà từng đọc i hùng va đập vào ngay tâm trạng của nàng. Nguyễn Du đ à từng đọc dùng
ngòi bút thần tình để mô tả một âm thanh tiếng sóng kêu với bút pháp nhân hoá đặt
đúng vị trí không gian thời gian, đúng cả tâm trạng của nàng Kiều. Đây là tiếng sóng
đời, sóng lòng đang gào thét giận dữ bủa vây rình rập và muốn nuốt chửng đời Kiều.
Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên thật đặc sắc tất cả ngoại
cảnh ấy đều nhuốm màu tâm trạng của nàng Kiều tan nát rối bời, đau khổ. Mỗi lần nàng
vơn lên kiếm tìm một niềm vui, một tia hy vọng thì mỗi lần thiên nhiên cay nghiệt vùi
dập, hắt hủi nàng xuống đáy bể trầm vơi và Nguyễn Du đà từng đọc phải hạ một câu thở đúng với
tâm trạng nàng Kiều:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Ngời buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Tám câu thơ với nhiều bút pháp nghệ thuật đan xen và dờng nh bút pháp nào cũng
đạt đến tuyệt đỉnh. Bên cạnh các biện pháp tu từ quen thuộc nh điệp từ ngữ, cấu trúc
câu, sử dụng các từ láy gợi âm thanh, màu sắc và bút pháp nhân hoá điển hình. Tám câu
thơ còn đợc xem nh một bộ tứ bình miêu tả nội tâm nhng vẫn trữ tình nhìn từ ngoại
cảnh. Đặc biệt đây còn đợc xem là màn độc thoại điển hình nhất trong những trang Kiều,
do đó ngời ta gọi Kiều ở lầu Ngng Bích là một bức tranh vịnh cảnh ngụ tình đặc sắc, tâm
tình xúc động.
Ai đà từng đọc một lần đọc Kiều, ngâm Kiều, vịnh Kiều chắc chắn phải dừng lại lâu h ơn ở
đoạn Kiều ở lầu Ngng Bích. Và đằng sau những câu thơ ấy là cả một trái tim của đại thi
hào dân tộc Nguyễn Du. Với tấm lòng cô đơn, sẻ chia, nâng đỡ, động viên Kiều giữa đoạn
trờng t©n thanh.



×