Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.84 KB, 4 trang )

Phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể
coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không
chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan
niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền
nhau, bổ sung cho nhau.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật
một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều.
Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim
Trọng và cha mẹ.
Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí. Phần đầu tác giả
giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi
cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm
trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ
giáng xuống đời Kiều.
Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến
rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng
lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là
những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như
càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước
mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ:
vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng


trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với
nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không
khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những
ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.
Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với
những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được
Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của
nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người
yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được
nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó
được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên
từ đó:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang
chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra
cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và
tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm
năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén
rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng
giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi
bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và
tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu
trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng
hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng
son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim
cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm
năm lưu lạc.

Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều
đem tấc có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội,
nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều
đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng
không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du
đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt
nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như
những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn
phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm
trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.
Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuổì cùng nàng Kiều lại quay về
với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính
mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí
nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn
của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du
mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo
trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Mỗi cảnh vật hiện
ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc.
Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng
cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình
trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp

thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại
trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh
hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh
xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang
trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi
kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh
vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như
muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.
Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ
thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng
cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng,
xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề,
bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời
cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên
nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi
nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau
trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu
nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của
nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc
mà bạc mệnh.

×