Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Thảo luận luật hình sự (tội phạm) buổi 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.87 KB, 12 trang )

BUỔI THẢO LUẬN 6
NHẬN ĐỊNH:
Câu 13: Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản trong Tội trộm cắp tài sản (Điều
173 BLHS) đòi hỏi người phạm tội phải lén lút với tất cả mọi người
Đây là nhận định sai
CSPL: Điều 173 BLHS.
Một trong những đặc điểm của hành vi chiếm đoạt tài sản là tài sản đó phải
đang nằm trong sự quản lý của người khác. Trong Tội trộm cắp tài sản (Điều
173 BLHS), hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt trái pháp
luật tài sản đang nằm trong sự quản lý của người khác thành tài sản của mình.
Do đó, đây là hành vi chiếm đoạt đối với người quản lý tài sản nên trong ý thức
chủ quan của người phạm tội, họ mong muốn che giấu hành vi phạm tội của
mình với người quản lý tài sản, họ sợ người quản lý tài sản phát hiện ra hành vi
chiếm đoạt tài sản của mình. Chính vì thế, dấu hiệu đặc trưng của tội trộm cắp
tài sản thể hiện ở hành vi chiếm đoạt tài sản một cách lén lút, bí mật đối với
người quản lý tài sản mà khơng địi hỏi phải lén lút với tất cả mọi người.
Câu 14: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên mà có biểu
hiện gian dối là hành vi chỉ cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều
174 BLHS)
Đây là nhận định sai
Cơ sở pháp lý: Điều 174, 175 BLHS.
Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên mà có biểu hiện gian dối là
hành vi không chỉ cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS)
mà cịn có thể cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175
BLHS) nếu thỏa mãn hết các dấu hiệu định tội. Xét về biểu hiện khách quan:
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) quy định người nào
dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ
2.000.000 đồng trở lên thì cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS) quy định
người nào thực hiện hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc
nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng




thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên thì
cấu thành tội này.
Như vậy, trong trường hợp lừa đảo bằng việc đưa ra thơng tin gian dối mà nhờ
đó chiếm đoạt được tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên thì cấu thành Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS). Còn trong trường hợp người phạm tội
đã nhận được tài sản của người khác có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên một cách
hợp pháp, ngay thẳng, sau đó dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đó
thì khơng cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) mà cấu
thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS).
Câu 15: Mọi hành vi không trả lại tài sản sau khi đã vay, mượn, thuê tài
sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình
thức hợp đồng mà tài sản có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên đều có thành Tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS).
Đây là nhận định sai
CSPL: Điều 175 BLHS.
Trường hợp chiếm đoạt tài sản từ 4 triệu đồng trở lên bằng hợp đồng vay tài sản
chỉ cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) khi người
thực hiện hành vi (i) có hành vi dùng thủ đoạn gian dối hoặc (ii) bỏ trốn để
chiếm đoạt tài sản đó hoặc (iii) đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện,
khả năng nhưng cố tình khơng trả, hoặc (iv) đã sử dụng tài sản đó vào mục đích
bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.
Do đó nếu chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên
bằng hợp đồng vay tài sản nhưng không thuộc một trong bốn hành vi nêu trên
thì khơng cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Câu 17: Cố tình khơng trả lại cho chủ sở hữu tài sản có giá trị từ 10 triệu
đồng trở lên bị giao nhầm là hành vi cấu thành Tội chiếm giữ trái phép tài
sản (Điều 176 BLHS)
Đây là nhận định sai

CSPL: Điều 176 BLHS.
Hành vi cố tình khơng trả lại cho chủ sở hữu tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng
trở lên chỉ cấu thành Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 BLHS) khi đây


là hành vi cố tình khơng giao nộp tài sản bị giao nhầm sau khi có yêu cầu trả lại
hoặc giao nộp lại tài sản của chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan
có trách nhiệm. Như vậy, trong trường hợp cố tình khơng trả lại cho chủ sở hữu
tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên bị giao nhầm nhưng chưa có yêu cầu trả
lại hoặc giao nộp lại tài sản của người có quyền thì chưa đủ dấu hiệu để cấu
thành Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 BLHS).
Câu 25: Mang trái phép vật có giá trị lịch sử, văn hóa qua biên giới chỉ là
hành vi cấu thành Tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới (Điều
189 BLHS)
Đây là nhận định sai.
CSPL: Điều 188, Điều 189 BLHS.
Hành vi mang trái phép vật có giá trị lịch sử, văn hóa qua biên giới căn cứ vào
mục đích của chủ thể phạm tội có thể phân thành hai trường hợp: nếu hành vi đó
nhằm mục đích mua bán kiếm lời thì cấu thành Tội bn lậu (Điều 188 BLHS),
cịn nếu hành vi mang trái phép vật có giá trị lịch sử, văn hóa qua biên giới
khơng nhằm mục đích mua bán kiếm lời thì cấu thành Tội vận chuyển trái phép
hàng hóa qua biên giới (Điều 189 BLHS). Như vậy, nếu có hành vi hành vi
mang trái phép vật có giá trị lịch sử, văn hóa qua biên giới nhưng nhằm mục
đích mua bán kiếm lời thì khơng phải là hành vi cấu thành Tội vận chuyển trái
phép hàng hóa qua biên giới (Điều 189 BLHS) mà là hành vi cấu thành Tội
buôn lậu (Điều 188 BLHS).
Câu 27: Hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất chính thấp hơn so với
tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao
bì hàng hóa là hàng giả.
Đây là câu nhận định sai.

CSPL: Điểm b Khoản 7 Điều 3 Nghị định 98/2020/NĐ-CP.
Căn cứ theo điểm b khoản 7 Điều 3 Nghị định 98/2020/NĐ-CP đã quy định
hàng giả được xác định là loại hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất
lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản hoặc định lượng chất chính tạo nên giá trị
sử dụng, cơng dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với mức tối
thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký,
công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa. Như vậy, trong trường


hợp hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất chính thấp hơn so với tiêu chuẩn
chất lượng đã đăng ký, cơng bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa là
hàng giả nhưng vẫn đạt trên 70% so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ
thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên
nhãn, bao bì hàng hóa thì không được xem là hàng giả mà chỉ là hàng kém chất
lượng.
Câu 29: Hàng giả chỉ là đối tượng tác động của các tội phạm được quy định
tại Điều 192, 193, 194, 195 BLHS.
Nhận định trên là sai.
CSPL: Điều 226 BLHS.
Xét về mặt lý luận, hàng giả được chia thành hai nhóm là hàng giả về nội dung
và hàng giả về hình thức. Nếu đối tượng tác động là hàng giả về nội dung, nghĩa
là loại hàng hoá giả về chất lượng, cơng dụng hoặc đặc tính của loại hàng hóa
đó, thì đây là đối tượng tác động của các tội phạm được quy định tại Điều 192,
193, 194, 195 BLHS. Như vậy, nếu đối tượng tác động là hàng giả về hình thức
thì khơng phải là đối tượng tác động của các tội phạm được quy định tại Điều
192, 193, 194, 195 BLHS mà tùy vào loại hàng giả đó là gì mà cấu thành các tội
phạm khác, ví dụ như hàng giả là nhãn hiệu hàng hóa hoặc chỉ dẫn địa lý đang
được bảo hộ tại Việt Nam thì cấu thành Tội xâm phạm quyền sở hữu cơng
nghiệp (Điều 226 BLHS).
Câu 30. Không phải mọi trường hợp trốn thuế từ 100 triệu đồng trở lên

đều cấu thành Tội trốn thuế được quy định tại điều 200 BLHS.
Nhận định đúng.
CSPL: Điều 188, Điều 189, Điều 200 BLHS.
Trong trường hợp trốn thuế từ 100 triệu đồng trở lên qua biên giới mà Nhà nước
vẫn quản lý được mặt hàng, số lượng ra và vào Việt Nam thì trường hợp này
mới cấu thành Tội trốn thuế (Điều 200 BLHS). Còn nếu trong trường hợp trốn
thuế từ 100 triệu đồng trở lên qua hoạt động xuất nhập khẩu dẫn đến Nhà nước
không quản lý được mặt hàng hay số lượng hàng hóa ra vào Việt Nam thì
trường hợp này khơng cấu thành Tội trốn thuế (Điều 200 BLHS) mà sẽ cấu
thành vào Tội buôn lậu (Điều 188 BLHS) hoặc Tội vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 189 BLHS) tùy thuộc vào mục đích của người
phạm tội.
* Phân biệt Điều 188, Điều 189, Điều 200:
- Về khách thể:


+ Điều 188, Điều 189 xâm phạm khách thể chính sách ngoại thương của
nhà nước => Nhà nước không quản lý được loại, số lượng hàng hóa ra
vào Việt Nam và đương nhiên thất thu thuế.
+ Điều 200 chỉ xâm phạm đến chính sách thuế của Nhà nước => Nhà
nước thất thu thuế nhưng vẫn quản lý được loại hàng hóa, số lượng
hàng hóa ra vào việt nam.
- Về bản chất: hành vi trốn thuế (kê khai gian dối) nếu khơng thuộc trường
hợp của Điều 188, 189 thì mới xử Điều 200
+ Kê khai gian dối
. Về số lượng => vận chuyển/bn lậu
. Về loại hàng hóa => vận chuyển/bn lậu
. Về thành phần, tính chất hàng hóa (ví dụ: khai sai đời máy) =>
trốn thuế.
BÀI TẬP:

Bài tập 7: A là một thanh niên khơng có nghề nghiệp. Hết tiền tiêu xài, A
nghĩ cách kiếm tiền. A đến một ngã tư đường phố và đứng tại bên lề đường
chờ cơ hội chiếm đoạt tài sản của người khác. Khi đèn xanh trên hệ thống
đèn báo giao thông bật sáng, A nhanh chóng giật chiếc dây chuyền trên cổ
của một người phụ nữ và bỏ chạy. B là người chứng kiến được sự việc, liền
bỏ xe đạp của mình trên lề đường và chạy theo để bắt A. Chạy vào con hẻm
cụt, A hết đường nên quay mặt đối diện với B, một tay bỏ dây chuyền vào
miệng, tay kia rút dao đâm vào bụng B và bỏ chạy, B bị thương với tỷ lệ
tổn thương cơ thể qua giám định là 27%. Hãy xác định tội danh của A.
(Đã cướp giật tài sản nhưng chưa lấy được tài sản an tồn, sau đó sử dụng
vũ lực để giữ cho bằng được nó). Phải xét tội phạm kết thúc hay chưa?
Ban đầu, A có hành vi lao đến giật chiếc dây chuyền trên cổ của người phụ nữ
và bỏ chạy, hành vi chiếm đoạt tài sản của A được thực hiện một cách công khai
(ngay trước mặt người phụ nữ) và nhanh chóng do đó đã đủ điều kiện để cấu
thành Tội cướp giật tài sản (Điều 171 BLHS). Tuy nhiên hành vi cướp giật tài
sản của A vẫn chưa kết thúc do có sự rượt đuổi của B, lúc này, A bỏ dây chuyền
vào miệng, điều này thể hiện mục đích của A muốn chiếm đoạt bằng được tài
sản, sau đó A rút dao đâm vào bụng B và bỏ chạy. Trong trường hợp này, vì
hành vi dùng vũ lực của A đối với B nhằm chiếm đoạt sợi dây chuyền nên theo


lý thuyết chuyển hóa, hành vi của A khơng cấu thành Tội cướp giật tài sản
(Điều 171 BLHS) mà chuyển thành Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS).
Hành vi của A cấu thành Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 BLHS,
hành vi của A đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng để cấu thành Tội cướp tài
sản, trong đó:
- Khách thể: xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người phụ nữ và quyền
được pháp luật bảo hộ về sức khỏe của B. Đối tượng tác động là sợi dây
chuyền của người phụ nữ và B.
- Mặt khách quan: Tội cướp tài sản có cấu thành cắt xén. A có hành vi rút dao

đâm vào bụng B (người ngăn cản hành vi chiếm đoạt) và bỏ chạy nhằm mục
đích chiếm đoạt sợi dây chuyền.
- Chủ thể: A - chủ thể thường.
- Mặt chủ quan: A thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp nhằm mục đích
chiếm đoạt tài sản, A biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm, thấy trước hậu
quả người phụ nữ bị thiệt hại tài sản và B bị thương tích nhưng vẫn mong
muốn hậu quả đó xảy ra.
Lý thuyết chuyển hóa: ban đầu hành vi cấu thành tội này, nhưng sau đó chuyển
hóa hành vi sang tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn thì lúc này
xử tội có mức độ nguy hiểm xã hội cao, không xử tội ban đầu. Trong chương sở
hữu có 3 tội chuyển hóa: Điều 171 Cướp giật, Điều 172 Cơng nhiên, Điều 173
Trộm cắp có cấu thành tăng nặng: Hành hung để tẩu thốt, tuy nhiên tình tiết
hành hung để tẩu thốt khơng chứa được Điều 134 nên nếu sử dụng vũ lực để
tẩu thoát mà gây thương tích cho nạn nhân và thỏa mãn dấu hiệu định tội thì cấu
thành thêm Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS).
Như vậy, nếu ban đầu hành vi cấu thành Tội cướp giật/công nhiên/trộm cắp, sử
dụng vũ lực chỉ với mục đích tẩu thốt thì xử tội ban đầu, nếu vũ lực gây thiệt
hại cho nạn nhân đáp ứng Điều 134 thì xử thêm Tội cố ý gây thương tích, khơng
chuyển hóa sang Tội cướp tài sản
Cịn nếu ban đầu hành vi cấu thành Tội cướp giật/công nhiên/trộm cắp, sử dụng
vũ lực với mục đích chiếm đoạt tài sản thì chuyển hóa sang Tội cướp tài sản
Điều 168.
Phải xem lại lý thuyết chuyển hóa.


Bài tập 9: A là người sống lang thang, không nghề nghiệp, thấy bà C hay
đeo sợi dây chuyền có giá trị, A nảy sinh ý định chiếm đoạt. Vào một buổi
tối, khi thấy nhà bà C tắt đèn đi ngủ, A cạy cửa nhà rồi vào phòng ngủ. A
đến cạnh giường rạch màn, A thấy bà C còn thức nên đưa tay vào kéo đứt
sợi dây chuyền 3 chỉ vàng (trị giá 11 triệu đồng) của bà rồi bỏ chạy. Bà C

hơ gọi hàng xóm, đuổi theo và tóm được A.
Hãy xác định tội danh của A trong các trường hợp sau:
1. A vứt lại sợi dây chuyền, dùng tay đánh mạnh bà C rồi bỏ chạy.
Theo những tình tiết mà tình huống đưa ra thì A đủ điều kiện cấu thành Tội
cướp giật tài sản tại điểm đ khoản 2 Điều 171 BLHS với tình tiết định khung
tăng nặng là hành hung để tẩu thốt. Theo đó:
- Khách thể:
+ Quan hệ xã hội: quyền sở hữu của bà C
+ Đối tượng: sợi dây chuyền 3 chỉ vàng của bà C
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: khi thấy nhà bà C tắt đèn đi ngủ thì A đã cạy cửa nhà rồi vào
phịng ngủ của bà. Sau đó, A đến cạnh giường rạch màn và dù bà C vẫn
còn thức nhưng A vẫn công khai đưa tay vào kéo đứt sợi dây chuyền
của bà một cách nhanh chóng. Vì hành vi chiếm đoạt tài sản của A diễn
ra một cách cơng khai và nhanh chóng nên ngay khi hành vi này được
thực hiện và A bỏ chạy thì bà C đã phát hiện ra và hơ gọi hàng xóm đuổi
theo A. Hành vi sau đó của A là vứt lại sợi dây chuyền, dùng tay đánh
mạnh bà C rồi bỏ chạy là tình tiết định khung tăng nặng vì hành vi của A
là hành vi hành hung bà C để thuận tiện cho việc bỏ chạy của mình.
+ Hậu quả: bà C bị mất sợi dây chuyền
+ Mối quan hệ nhân quả: chính hành vi cơng khai và nhanh chóng đưa tay
vào kéo đứt sợi dây chuyền của A đã làm cho bà C bị mất quyền sở hữu
đối với sợi dây chuyền của bà.
- Mặt chủ quan: A có lỗi cố ý trực tiếp vì khi thực hiện hành vi này, A hoàn toàn
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả là sẽ
gây ra thiệt hại cho bà C nhưng vẫn thực hiện với mong muốn sẽ chiếm đoạt
được tài sản của bà C.


- Chủ thể thường: A có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

2. A nhanh tay bỏ sợi dây chuyền vào túi quần và rút dao mang sẵn trong
người đâm vào ngực bà C làm bà C chết.
Ban đầu, hành vi của A cấu thành Tội cướp giật (Điều 171 BLHS. Tuy nhiên,
khi bà C đuổi theo và tóm được C, C nhanh tay bỏ sợi dây chuyền vào túi quần,
hành vi này thể hiện mục đích chiếm đoạt bằng được tài sản. Sau đó, C rút dao
mang sẵn trong người đâm vào ngực bà C làm bà C chết. Trong trường hợp này,
hành vi dùng vũ lực của C nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, do đó không cấu
thành Tội cướp giật tài sản (Điều 171 BLHS) mà chuyển sang cấu thành Tội
cướp tài sản (Điều 168 BLHS). Và vì A đã có hành vi dùng dao đâm vào ngực
bà C (vị trí trọng yếu của bà C) làm bà C chết, vị trí đâm thể hiện A mong muốn
hậu quả bà C chết xảy ra nên trong trường hợp này A đủ điều kiện cấu thành
cả hai tội là Tội cướp tài sản tại Điều 168 BLHS và Tội giết người tại Điều
123 BLHS. Theo đó:
* Về tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS):
- Khách thể:
+ Quan hệ xã hội: quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân của bà C.
+ Đối tượng: sợi dây chuyền của bà C và bà C.
- Mặt khách quan: A có hành vi dùng vũ lực cụ thể là dùng dao mang sẵn trong
người đâm vào ngực bà C để làm cho bà C không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt cho được sợi dây chuyền của bà C.
- Mặt chủ quan:
+ Lỗi: A có lỗi cố ý trực tiếp vì A biết hành vi của mình là gây nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước được hành vi của mình là xâm phạm đến quyền sở
hữu của bà C với sợi dây chuyền cũng như sức khỏe, tình mạng của bà C
nhưng A vẫn thực hiện, mong muốn hậu quả đó xảy ra.
+ Mục đích: nhằm chiếm đoạt sợi dây chuyền của bà C.
- Chủ thể thường: A là người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.
* Về tội giết người (Điều 123 BLHS): trong tình huống này, A đã phạm tội
giết người ở giai đoạn tội phạm hoàn thành.



- Khách thể:
+ Quan hệ xã hội: quyền được sống, được bảo vệ tính mạng của bà C.
+ Đối tượng tác động: bà C.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: A có hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của bà C, cụ thể: A đã rút
dao mang sẵn trong người đâm vào ngực- vị trí trọng yếu của bà C.
+ Hậu quả: bà C chết.
+ Mối quan hệ nhân quả: chính hành vi rút dao mang sẵn trong người đâm
vào ngực bà C của A là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết của bà C.
- Mặt chủ quan: A có lỗi cố ý trực tiếp vì khi thực hiện hành vi này, A hoàn
toàn nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hành vi
của mình sẽ gây nguy hiểm cho tính mạng, gây ra cái chết cho bà C nhưng vẫn
thực hiện hành vi.
- Chủ thể thường: A là người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.

Bài tập 12: A biết B là người buôn bán hàng cấm nên đã có hành vi sau:
a) A yêu cầu B phải nộp cho y một số tiền 5 triệu đồng thì sẽ khơng tố giác
việc làm của B với cơng an. B đành chấp nhận và giao đủ số tiền mà A
đặt ra.
b) A mặc trang phục công an, đến nơi B buôn bán, ập vào bắt quả tang.
Thấy A mặc trang phục công an nên B xin được tha. A giả bộ làm căng,
yêu cầu B về trụ sở để lập biên bản. B năn nỉ, A nói đưa cho A 5 triệu
đồng thì A sẽ tha. B chấp nhận và giao tiền cho A.
Hãy xác định tội danh cho hành vi của A trong các trường hợp nêu trên.
a) A yêu cầu B phải nộp cho y một số tiền 5 triệu đồng thì sẽ khơng tố giác
việc làm của B với công an. B đành chấp nhận và giao đủ số tiền mà A
đặt ra.
Hành vi của A phạm tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 BLHS.
- Khách thể: quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân của B.



Đối tượng tác động: tài sản của B.
- Mặt khách quan: A có hành vi uy hiếp tinh thần B là đe dọa nếu B không
đưa 5 triệu đồng cho y thì sẽ tố giác việc mua bán hàng cấm của B với
công an. (Hành vi của A không diễn ra ngay tức khắc, không làm cho B bị
tê liệt về ý chí)
- Mặt chủ quan: hành vi của A là lỗi cố ý trực tiếp bởi A hoàn toàn nhận
thấy trước hậu quả hành vi của mình và mong muốn hậu quả đó xảy ra bởi
A biết B là người bn bán hàng cấm nên cố tình u cầu B đưa tiền cho y,
nếu khơng thì sẽ tố giác việc làm của B với cơng an.
Mục đích là nhằm chiếm đoạt tài sản (5 triệu đồng) của B.
- Chủ thể: A là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
b) A mặc trang phục công an, đến nơi B buôn bán, ập vào bắt quả tang.
Thấy A mặc trang phục công an nên B xin được tha. A giả bộ làm căng,
yêu cầu B về trụ sở để lập biên bản. B năn nỉ, A nói đưa cho A 5 triệu
đồng thì A sẽ tha. B chấp nhận và giao tiền cho A.
Hành vi của A cấu thành Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 BLHS).
- Khách thể: quyền sở hữu tài sản và quan hệ nhân thân của B.
Đối tượng tác động: tài sản của B (5 triệu đồng).
- Mặt khách quan: Tội cưỡng đoạt tài sản có cấu thành cắt xén, người
phạm tội chỉ cần thực hiện một trong các hành vi quy định tại Điều
170 BLHS thì cấu thành tội phạm này. Trong trường hợp này, A có hành
vi mặc trang phục công an, đến nơi B buôn bán hàng cấm, ập vào bắt quả
tang. Như vậy, A có hành vi đưa ra thông tin gian dối, tuy nhiên hành vi
này chưa đủ để cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS)
vì lúc này, người quản lý tài sản là B tuy tin A là công an thật, nhưng vẫn
chưa tự nguyện trao tài sản của mình cho A. Sau đó, A giả bộ làm căng,
yêu cầu B về trụ sở để lập biên bản. B năn nỉ, A nói đưa cho A 5 triệu đồng

thì A sẽ tha. B chấp nhận và giao tiền cho A. Thì lúc này, A có hành vi đe
dọa xử phạt hành vi trái pháp luật của B, tức là hành vi uy hiếp tinh thần
làm B miễn cưỡng trao tài sản của mình cho A, do đó, hành vi của A đã đủ
điều kiện để cấu thành Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 BLHS)


- Mặt chủ quan: hành vi của A là lỗi cố ý trực tiếp. Nhằm mục đích chiếm
đoạt tài sản (5 triệu đồng) của B.
- Chủ thể: A là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
Bài tập 13: A ra tiệm thuê một bộ quần áo đẹp. A mặc bộ quần áo vừa thuê
và giả làm một người sang trọng đi vào chợ Bến Thành. Đến một quầy
hàng, A hỏi mua mỹ phẩm với tổng số tiền 3 triệu đồng. Sau khi yêu cầu
chủ hàng đóng gói, A mượn cớ phải mua một số hàng khác nên gửi lại gói
hàng, hẹn khi quay lại nhận hàng sẽ trả tiền. A để ý vị trí gói hàng rồi đi
qua hàng đồ khơ mua một số hàng trị giá 50 ngàn đồng và yêu cầu chủ
hàng gói lại giống với gói hàng mỹ phẩm. A đến quầy mỹ phẩm, nhân lúc
chủ hàng đang tiếp một số khách khác không để ý, A liền tráo gói hàng đồ
khơ lấy gói hàng mỹ phẩm. Vụ việc bị phát giác ngay sau đó.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A.
Tội danh đối với A là tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS). Vì hành vi của A
đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội trộm cắp tài sản tại Điều 173
BLHS. Mà cụ thể:
- Khách thể:
+ Khách thể: Quyền sở hữu tài sản của chủ cửa hàng mỹ phẩm.
+ Đối tượng tác động: tài sản của chủ cửa hàng mỹ phẩm.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: A đã có hành vi lén lút đánh tráo gói hàng đồ khơ để lấy gói
hàng mỹ phẩm, như vậy, trong ý thức chủ quan của A, A không muốn
chủ sở hữu phát hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của mình. (định tội danh

theo ý thức của người phạm tội, chủ sở hữu có thấy hay khơng khơng
quan trọng)
+ Hậu quả: gây thiệt hại vật chất (về tài sản: 3 triệu đồng) cho chủ cửa
hàng mỹ phẩm.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Hành vi của A là
nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại về tài sản cho chủ cửa hàng mỹ
phẩm.
- Chủ thể: A là chủ thể thường (có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự).
- Mặt chủ quan:


+ Lỗi: A có lỗi cố ý trực tiếp vì A nhận biết được hành vi của mình xâm
hại đến quyền sở hữu của người khác mà cụ thể là quyền sở hữu của chủ
cửa hàng mỹ phẩm.

Bài tập 16: A và B đến gặp M tại quán nhậu X để bàn chuyện làm ăn (B
khơng quen M trước đó). Sau khi bàn bạc cơng việc, A nói có việc phải đi
trước và nói B tự đi về. B đề nghị M cho đi nhờ xe một đoạn. M đồng ý và
để B chở bằng xe gắn máy của M. Trên đường đi, B vờ đánh rơi cặp xách
để M xuống xe nhặt giúp. Lợi dụng lúc M đang nhặt cặp xách thì B phóng
xe đi mất. Sau đó, B đã bị bắt cùng tang vật là chiếc xe gắn máy của M (trị
giá 20 triệu đồng). Hãy xác định tội danh đối với hành vi của B trong vụ án
này và giải thích tại sao?
Tội cướp giật tài sản theo Điều 171 BLHS.
Vì B có đủ điều kiện để cấu thành tội này:
- Khách thể:
+ Khách thể: quyền sở hữu tài sản của M.
+ Đối tượng tác động: chiếc xe máy của M.
- Mặt khách quan:

+ Hành vi: B vờ đánh rớt cặp để M xuống xe nhặt giúp sau đó lợi dụng sơ
hở lúc M đang nhặt cặp xách thì B phóng xe của M đi mất. Hành vi của
A là hành vi công khai trước mặt M và nhanh chóng phóng xe đi (dấu
hiệu đặc trưng của tội cướp giật).
+ Hậu quả: Gây nên thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu chiếc xe là M.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: hành vi của B là nguyên
nhân dẫn đến việc M khơng thể thực hiện các quyền đối với chính tài
sản của mình là chiếc xe máy của M.
- Chủ thể: B thỏa mãn điều kiện chủ thể của tội phạm này - chủ thể thường.
- Mặt chủ quan:
+ Lỗi: B biết hành vi của mình là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền sở
hữu tài sản( chiếc xe máy) của M nhưng vẫn cố ý thực hiện nên trong
trường hợp này B phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.



×