Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Thảo luận luật hình sự (tội phạm) buổi 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.93 KB, 5 trang )

BUỔI THẢO LUẬN 7
Nhận định:
Câu 34: Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
quy định tại Điều 203 BLHS chỉ là hành vi mua, bán hóa đơn chưa ghi nội
dung hoặc ghi nội dung khơng đầy đủ, khơng chính xác theo quy định.
Nhận định sai.
CSPL: Điều 203 BLHS.
Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nhập từ ngân sách nhà nước quy định
tại Điều 203 BLHS không chỉ bao gồm hành vi mua, bán hóa đơn chưa ghi nội
dung hoặc ghi nội dung khơng đầy đủ, khơng chính xác theo quy định mà cịn
có các các hành vi khác như: Mua, bán hóa đơn đã ghi nội dung, nhưng khơng
có hàng hóa, dịch vụ kèm theo; Mua, bán hóa đơn giả, hóa đơn chưa có giá trị
sử dụng, hóa đơn đã hết giá trị sử dụng, hóa đơn của cơ sở kinh doanh, dịch vụ
khác để hợp thức hóa hàng hóa, dịch vụ mua vào hoặc cấp cho khách hàng khi
bán hàng hóa, dịch vụ; Mua, bán, sử dụng hóa đơn có sự chênh lệch về giá trị
hàng hóa, dịch vụ giữa các liên của hóa đơn.
Vậy mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
quy định tại Điều 203 BLHS không chỉ là hành vi mua, bán hóa đơn chưa ghi
nội dung hoặc ghi nội dung khơng đầy đủ, khơng chính xác theo quy định mà
cịn có những hành vi khác như đã nêu trên.

Câu 37: Mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đang được bảo
hộ tại Việt Nam đều cấu thành Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
(Điều 226 BLHS 2015)
Nhận định sai.
CSPL: khoản 1 Điều 226 BLHS.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 226 BLHS, người nào cố ý xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt
Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy
mơ thương mại thì cấu thành Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Như
vậy, nếu một người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nhưng đối


tượng tác động của hành vi này không phải là nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý
đang được bảo hộ tại Việt Nam thì khơng cấu thành Tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp (Điều 226 BLHS 2015). Ví dụ như trường hợp xâm phạm


quyền sở hữu công nghiệp nhưng đối tượng tác động là tên thương mại thì
khơng cấu thành tội phạm này.

Câu 44: Mọi hành vi thải vào nguồn nước các chất gây ơ nhiễm mơi trường
thì đều cấu thành Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235 BLHS)
Đây là câu nhận định sai.
CSPL: khoản 1 Điều 235 BLHS.
Để cấu thành Tội gây ơ nhiễm mơi trường (Điều 235 BLHS) ngồi hành vi thải
vào nguồn nước các chất gây ô nhiễm môi trường còn phải thỏa mãn các định
lượng về chất thải được thải vào nguồn nước theo quy định tại khoản 1 Điều
235 BLHS, hoặc phải vượt quá bao nhiêu lần so với quy định của pháp luật Như
vậy, nếu có hành vi thải vào nguồn nước các chất gây ô nhiễm môi trường tuy
nhiên hành vi này chưa thỏa mãn một trong hai dấu hiệu nêu trên thì chưa đủ để
cấu thành Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235 BLHS).

BÀI TẬP:
Bài tập 17: A là chủ một xe chở xăng dầu. A đã ký hợp đồng với nhà máy
sản xuất bột ngọt T.H vận chuyển dầu chạy máy cho nhà máy từ công ty
xăng dầu đến nhà máy. Sau vài lần vận chuyển, A đã học được thủ đoạn
bớt dầu vận chuyển cho nhà máy như sau: Khi nhận được dầu A chạy xe
tới điểm thu mua dầu của B và nhanh chóng rút dầu ra bán cho B mỗi lần
vài trăm lít. Sau đó chất lên xe mấy thùng nước có trọng lượng tương
đương với số dầu đã rút ra. Đến địa điểm giao dầu, chiếc xe được cân đúng
trọng lượng quy định nên được nhập dầu vào kho. Trong thời gian chờ đợi
cân trọng lượng của xe sau khi giao dầu, A đã bí mật đổ hết số nước đã

chất lên xe để khi cân chỉ còn đúng trọng lượng của xe. Với cách thức như
vậy, A đã nhiều lần lấy dầu được thuê vận chuyển của nhà máy bột ngọt
T.H với tổng trị giá là 38.565.000 đồng. Sau đó thì A bị phát hiện.
Hãy xác định tội danh trong vụ án này.
Hành vi của A đã cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được
quy định tại Điều 175 BLHS vì đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng:
- Khách thể: quan hệ sở hữu của nhà máy sản xuất bột ngọt T.H
+ Đối tượng tác động: Tài sản (xăng dầu của nhà máy)
- Mặt khách quan:


+ Hành vi: Sau khi ký hợp đồng vận chuyển xăng dầu cho nhà máy T.H
tức là A nhận được tài sản một cách hợp pháp bằng hình thức hợp đồng,
A thực hiện hành vi rút dầu ra bán cho B và chất lên xe những thùng
nước có trọng lượng tương đương. Sau khi đến địa điểm giao dầu, chiếc
xe được cân đúng trọng lượng dầu trong hợp đồng thì A bí mật đổ hết số
nước đã chất lên xe để còn đúng trọng lượng của xe. Như vậy, A đã dùng
thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản là dầu của nhà máy T.H (tài sản
hợp pháp có được bằng hợp đồng).
+ Hậu quả: thiệt hại tài sản từ 4.000.000 đồng trở lên (A nhiều lần lấy được
dầu của nhà máy T.H với tổng trị giá là 38.565.000 đồng)
- Chủ thể: A - chủ thể thường.
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp

Bài tập 25: Công ty bảo vệ thực vật A nhập từ nước ngoài về Việt Nam 32
tấn nguyên liệu sản xuất thuốc trừ sâu BPMC hàm lượng khai báo là 97%.
Qua kiểm định của Trung tâm kiểm định thực vật phía Nam thì hàm lượng
chỉ có 94,6%. Với cách thức như vậy, Cơng ty sẽ khơng phải đóng thuế
thay vì phải nộp 10% khi áp đúng mã thuế. Do vậy Công ty A tránh được
việc nộp thuế với giá trị 1 tỷ 450 triệu đồng. Hãy xác định tội danh trong vụ

án này.
CSPL: điểm c khoản 5 Điều 200 BLHS.
Trong tình huống này, Cơng ty bảo vệ thực vật A phạm Tội trốn thuế theo quy
định tại điểm c khoản 5 Điều 200 BLHS, cụ thể:
- Khách thể: Công ty bảo vệ thực vật A đã xâm phạm đến trật tự quản lý
kinh tế trong lĩnh vực thuế của Nhà nước ta
- Đối tượng tác động: vật chất (số tiền thuế mà lẽ ra Công ty bảo vệ thực
vật A phải nộp là 1 tỷ 450 triệu đồng)
- CTTP vật chất
+ Hành vi: dạng hành vi hành động phạm tội (Công ty bảo vệ thực
vật A đã khai báo 32 tấn nguyên liệu sản xuất thuốc trừ sâu BPMC
với hàm lượng là 97% trong khi kiểm định của Trung tâm kiểm
định thực vật phía Nam thì hàm lượng chỉ có 94,6%, đây là hành
động khai báo gian dối trong hoạt động sản xuất, kinh doanh)


+ Hậu quả: hậu quả về mặt vật chất (trốn thuế làm suy giảm đến ngân
sách Nhà nước 1 tỷ 450 triệu đồng)
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: hành vi khai báo
gian dối của Cơng ty bảo vệ thực vật A với mục đích trốn thuế đã
làm suy giảm ngân sách Nhà nước với số tiền 1 tỷ 450 triệu đồng
- Chủ thể: pháp nhân thương mại (Công ty bảo vệ thực vật A)
Lỗi: lỗi cố ý trực tiếp
- Động cơ phạm tội: Công ty bảo vệ thực vật A khơng muốn đóng thuế
theo đúng mã thuế quy định, không muốn nộp số tiền thuế 1 tỷ 450 triệu
đồng
- Mục đích phạm tội: trốn số tiền thuế 1 tỷ 450 triệu đồng của Nhà nước.
Pháp nhân thương mại phải xử theo Điều 75.

Bài tập 29: Lực lượng trinh sát đã phát hiện A đang vận chuyển số hàng có

dấu hiệu nghi vấn. Qua kiểm tra, cơng an phát hiện 200 gói bột ngọt nhãn
hiệu Thai Fermentation Ind. A khai nhận số bột ngọt này có nguồn gốc từ
Trung Quốc nhưng được đóng gói với nhãn hiệu Thai Fermentation Ind.
Bên cạnh đó, A cịn có hành vi mua bọt ngọt có nguồn gốc từ Trung Quốc
đem về đóng gói tại bao bì mang các nhãn hiệu Ajinomoto, Miwon, A-one,
Thai Fermentation Ind,... rồi bán ra thị trường 8 tấn bột ngọt tương đương
với giá trị của hàng thật là 300 triệu đồng. Theo kết luận giám định thì bột
ngọt Trung Quốc có hàm lượng, định lượng chất chính chỉ đạt mức 60% so
với tiêu chuẩn chất lượng của nhà nước. Anh (chị) hãy xác định tội danh
trong vụ án nên trên.

- A đã phạm Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ
gia thực phẩm (Điều 193 BLHS) và Tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp (Điều 226 BLHS). Cụ thể: (Xử được hai tội vì đối tượng tác động khác
nhau, hàng giả về hình thức và hàng giả về nội dung)
* Với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia
thực phẩm (Điều 193 BLHS): Xuất phát từ tính nguy hiểm của hành vi sản
xuất, bn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm nguy
hiểm hơn so với hàng giả thông thường nên các nhà làm luật quy định thành
một điều luật riêng với mức độ trách nhiệm nghiêm khắc hơn và không cần các
điều kiện như quy định tại Điều 192 BLHS. Vậy nên để cấu thành tội này, chỉ


cần có hành vi sản xuất, bn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia
thực phẩm là đã cấu thành tội phạm. Với hành vi là “mua bọt ngọt có nguồn gốc
từ Trung Quốc đem về đóng gói tại bao bì mang các nhãn hiệu Ajinomoto,
Miwon, A-one, Thai Fermentation Ind,... rồi bán ra thị trường 8 tấn bột ngọt
tương đương với giá trị của hàng thật là 300 triệu đồng.” thì A đương nhiên đã
phạm tội danh này.
Phải đưa ra việc hàng giả về nội dung: hàm lượng, định lượng chất chính chỉ

đạt mức 60% đối với Điều 193.
* Với Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226 BLHS): hàng giả
về hình thức, hàng hóa vi phạm có giá trị trên 200 triệu đồng.
- Khách thể: Trật tự quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
+ Đối tượng tác động: các nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam
(Ajinomoto, Miwon, A-one, Thai Fermentation Ind,...)
- Mặt khách quan: hành vi của A đã cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam: đóng gói
200 gói bột ngọt có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng với nhãn hiệu Thai
Fermentation Ind; A cịn mua bọt ngọt có nguồn gốc từ Trung Quốc đem về
đóng gói tại bao bì mang các nhãn hiệu Ajinomoto, Miwon, A-one, Thai
Fermentation Ind,... rồi bán ra thị trường 8 tấn bột ngọt tương đương với giá trị
của hàng thật là 300 triệu đồng.
- Chủ thể : A - chủ thể thường.
- Mặt chủ quan: A thực hiện hành vi với lỗi cố ý.



×