Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
Lời nói đầu
Để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh, vốn là điều kiện không thể thiếu, nó phản ánh nguồn lực tài chính được đầu
tư vào sản xuất kinh doanh. Nhu cầu về vốn là một trong những bức xúc của doanh
nghiệp, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà các doanh nghiệp đều mong
muốn đầu tư mở rộng sản xuất, đa dạng hoá dịch vụ nhằm tăng cường khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO). Doanh nghiệp có nhiều hình thức để huy động vốn như phát hành cổ
phiếu, trái phiếu, vay vốn ngân hàng, tín dụng từ nhà cung cấp, thuê tài chính, v.v.
Mỗi cách thức huy động vốn đều có những ưu, nhược điểm riêng. Tuy nhiên, do
trình độ phát triển của hệ thống tài chính còn chưa cao, cũng như một số hạn chế
mang tính chủ quan khác, thực trạng huy động vốn của các doanh nghiệp trong
nước hiện còn tồn tại nhiều bất cập cần sớm được giải quyết. Điển hình là tình
trạng doanh nghiệp quá phụ thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng – một nguồn
vốn không dễ tiếp cận, trong khi đó lại bỏ qua hoặc ít để ý tới các nguồn huy
động nhiều tiềm năng khác. Mặt khác, do hạn chế về trình độ nhân sự, các mô
hình tính toán chi phí vốn một cách khoa học hầu như không đượccác doanh
nghiệp áp dụng khi tìm kiếm nguồn tài trợ.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tìm hiểu về tình hình hoạt động tài
chính của các doanh nghiệp hiện nay, em nhận thấy việc làm thế nào để huy
động vốn cho doanh nghiệp và huy động vốn bằng cách nào đang là một bài
toán khó. Nhất là những doanh nghiệp đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và
có các yêu cầu cấp thiết về việc mở rộng huy động vốn để phục vụ cho sự mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đây là một vấn đề mà em hết sức
tâm đắc. Do vậy, em đã lựa chọn đề tài cho Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
của mình là: “Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn của Doanh
nghiệp cổ phần tại Việt Nam hiện nay”.
Kết cấu của đề án gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vốn.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn của doanh nghiệp cổ phần ở Việt
1
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
Nam hiện nay.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn của
Doanh nghiệp cổ phần tại Việt Nam.
Để tìm hiểu kỹ lưỡng và sâu sắc về tình hình huy động vốn các doanh nghiệp
Việt Nam đòi hỏi phải có nhiều thời gian. Do trình độ còn hạn chế và thời gian
nghiên cứu không nhiều nên em chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất về
vốn và các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp. Đề án chắc chắn không
tránh khỏi sai sót, em rất mong sự đóng góp của thầy cô, bạn bè và những người
quan tâm.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1
Tổng quan về vốn và phương thức huy động vốn của doanh nghiệp
1.1 Khái niệm về vốn của doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu để một doanh nghiệp được thành lập và tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản
ánh nguồn lực tài chính đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, khi nói về vốn
vẫn còn tồn tại rất nhiều quan điểm và tranh luận về định nghĩa về vốn.
2
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
Theo K.Marx, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu vào của quá
trình sản xuất. Định nghĩa này có một tầm khái quát lớn vì bao hàm đầy đủ cả bản
chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn là giá trị cho dù nó được biểu hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau. Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư vì nó tạo ra sự
sinh sôi về giá trị thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên do hạn chế
về trình độ phát triển lúc bấy giờ mà Marx đã bó hẹp khái niệm về vốn trong khu
vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ có quá trình sản xuất mới tạo ra giá trị thặng
dư cho nền kinh tế.
Theo P.Samuelson, vốn là các hàng hóa được sản xuất ra để phực vụ cho quá
trình sản xuất mới, là đầu vào của hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp.
Theo D.Begg, ông cho rằng vốn bao gồm vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện
vật là dự trữ các hàng hóa và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Như vậy Begg đã
đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất vốn của doanh nghiệp là
biểu hiện bằng tiền của tất cả các tài sản mà doanh nghiệp dùng trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối kế toán
của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là một loại hàng hóa. Nó giống các
loại hàng hóa khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, song nó có đặc điểm là người sở
hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Chi phí của
việc sử dụng vốn chính là lãi suất. Chính nhờ có sự tách rời quyền sử hữu và quyền
sử dụng nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh để sinh lợi.
Dưới góc độ doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất cơ bản kết
hợp với sức lao động và các yêu tố khách làm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh
doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình sản xuất vật chát riêng
biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục trong suốt thời gian
tồn tại của doanh nghiệp từ khi bắt đầu đến khi kết thúc quá trình sản xuất.
Như vậy, một cách thông dụng nhất, vốn có thể hiểu là các nguồn tiền tài trợ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn tiền này được hình thành
dưới nhiều cách thức khác nhau và tại các thời điểm khác nhau. Giá trị nguồn vốn
phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tùy từn loại
hinh doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có các phương
thực tạo vốn và huy động vốn khác nhau.
1.2 Phân loại vốn của doanh nghiệp
3
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
Trong quá trình sản xuất kinh doanh để quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu
quả các doanh nghiệp đều tiến hành phân loại vốn. Tùy vào mục đích và loại hình
của từng doanh nghiệp mà vốn được phân loại theo các tiêu thức khác nhau.
1.2.1 Phân loại vốn theo nguồn hình thành:
- Vốn chủ sở hữu
+ Vốn pháp định :
Vốn pháp định là số vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp
luật quy định đối với từng ngành nghề.
+ Vốn tự bổ sung:
Vốn tự bổ sung là vốn chủ yếu do doanh nghiệp lấy một phần từ lợi nhuận, từ
quỹ đầu tư và phát triển, quỹ dự phòng tài chính.
- Vốn huy động của doanh nghiệp .
Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, vốn chủ sở
hữu có vai trò quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. Để
đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tăng cường huy
động các nguồn vốn khác dưới hình thức vay nợ, liên doanh liên kết, phát hành trái
phiếu
+ Vốn vay :
Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng, các tổ chức in tín dụng, các cá nhân, đơn
vị kinh tế để tạo lập hoặc tăng thêm nguồn vốn.
* Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng: rất quan trọng đối với các doanh
nghiệp.
* Vốn vay trên thị trường chứng khoán: doanh nghiệp có thể phát hành trái
phiếu để thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã hội, đây là một công cụ tài chính
quan trọng và dễ sử dụng vào mục đích vay dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất
kinh doanh.
+ Vốn liên doanh liên kết :
Các doanh nghiệp có thể liên doanh, hợp tác với nhau để huy động thực hiện mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Vốn tín dụng thương mại :
Tín dụng thương mại là các khoản mục chịu từ người cung cấp hoặc ứng trước
của khánh hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Tuy các khoản tín dụng
thương mại thường có thời gian ngắn hạn nhưng nếu doanh nghiệp biết quản lý một
cách có khoa học có thể đáp ứng phần nào nhu cầu vốn lưu động.
+ Vốn tín dụng thuê mua :
Đây là phương thức tài trợ thông qua hợp đồng giữa người thuê và người cho
thuê. Người thuê sử dụng tài sản và phải trả tiền cho người cho thuê theo thời hạn
4
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
mà hai bên thỏa thuận, người cho thuê là người sở hữu tài sản và nhận được tiền
cho thuê tài sản.
Tín dụng thuê mua có hai phương thức giao dịch chủ yếu: là thuê vận hành và
thuê tài chính.
* Thuê vận hành (thuê hoạt động): là hình thức thuê ngắn hạn tài sản.
* Thuê tài chính : là phương thức tài trợ tín dụng trung hạn và dài hạn theo hợp
đồng.
Trên đây là cách phân loại vốn theo nguồn hình thành, nó là cơ sở để doanh
nghiệp lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp theo loại hình sở hữu, ngành nghề kinh
doanh, quy mô, quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật cũng như chiến lược đầu tư.
Bên cạnh đó, đối với việc quản lý vốn ở doanh nghiệp trọng tâm cần đề cập là hoạt
động luân chuyển vốn do đó doanh nghiệp cần phân loại vốn theo phương thức chu
chuyển.
1.2.2 Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển
- Vốn cố định của doanh nghiệp
Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng, lắp đặt tài sản cố định hữu hình
hay vô hình gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Nói cách khác, vốn cố định của
doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước. Quy mô của vốn cố định
nhiều hay ít sẽ tác động đến quy mô của tài sản cố định, ngược lại những đặc điểm
vận động của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định,
chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển vốn cố định.
Đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trính sản xuất kinh doanh:
+ Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm. Vốn cố định là
hình thái biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định cùng tham gia vào các chu kỳ
tương ứng.
+ Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần từng phần trong các chu kỳ sản
xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, tài sản cố định bị hao mòn, giảm dần về
giá trị và giá trị sử dụng. Vốn cố định được tách thành hai bộ phận:
* Bộ phận thứ nhất tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định được luân
chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu hao và
được tích lũy thành qũy khấu hao, sau khi sản phẩm hàng hóa được tiêu thụ, quỹ
khấu hao này sẽ được sử dụng để tái sản xuất tài sản cố định nhằm duy trì năng lực
sản xuất của doanh nghiệp.
* Bộ phận thứ hai đó chính là phần còn lại của vốn cố định được gọi là giá trị
còn lại của tài sản cố định .
5
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần
tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định dần giảm xuống. Kết
thúc quá trình vận động đó cũng là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng giá trị
của nó được dịch chuyển hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất, và khi đó vốn cố
định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Trong các doanh nghiệp, vốn cố định là bộ phận quan trọng chiếm tỷ trọng
tương đối lớn. Việc quản lý vốn cố định đòi hỏi phải gắn liền với việc quản lý tài
sản cố định vì điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn sản xuất
của doanh nghiệp.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có các đối tượng lao
động. Khác với tư liệu lao động, các đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu
kỳ sản xuất, không giữ nguyên hình thái ban đầu, giá trị của nó được dịch chuyển
toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm.
Vậy nếu xét về hình thái hiện vật thì các đối tượng lao động gọi là các tài sản
lưu động, còn hình thái giá trị thì được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.
6
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
- Vốn lưu động của doanh nghiệp
Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh
ứng trước về tài sản lưu động, là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động. Trong
quá trình sản xuất kinh doanh các tài sản lưu động luôn vận động thay thế hoặc đổi
chỗ cho nhau đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất được tiến hành thuận lợi .
Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động của doanh nghiệp luôn luôn thay đổi
hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm hàng hóa, vốn lưu động của doanh nghiệp
cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự trữ sản
xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục, thường xuyên lặp
lại theo chu kỳ được gọi là quá trình tuần hoàn của vốn lưu động.
Có thể thấy, vốn lưu động được phân bố trên khắp các giai đoạn luân chuyển vì
vậy doanh nghiệp phải có đủ vốn lưu động đầu tư vào các hình thái khác nhau.
1.3 Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Tất cả các hoạt động kinh doanh dù với bất kỳ quy mô nào cũng cần phải có một
lượng vốn nhất định, nó là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp.
1.3.1 Về mặt pháp lí:
Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập điều kiện đầu tiên là phải có một lượng
vốn nhất định, lượng vốn này tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định, khi đó địa vị
pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập. Trường hợp trong quá trình hoạt động
kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà pháp luật quy định
doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt hoạt động như phá sản, giải thể, sát nhập
Như vậy vốn có thể được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm
bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật.
1.3.2 Về mặt kinh tế:
Vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên liên tục.
Vốn biểu hiện năng lực và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều
này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng găy gắt,
đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh
nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất, sau một chu kỳ kinh doanh vốn của doanh
nghiệp phải sinh lời, tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo vốn của
doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu
tư mở rộng phạm vi sản xuất, thị trường tiêu thụ ngày càng lớn, nâng cao uy tín của
doanh nghiệp trên thương trường.
7
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
1.4. Các phương thức huy động vốn
1.4.1 Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp
Khi doanh nghiệp được thành lập, bao giờ chủ đầu tư cũng phải đầu tư một số
vốn nhất định. Khi nói đến nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, bao giờ cũng phải
xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, đó là vì hình thức sở hữu sẽ quyết
định tính chất và hình thức tạo vốn tự có của chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn tự có ban đầu là vốn đầu tư của ngân
sách Nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp quốc doanh là Nhà nước. Trước
đây, Tổng cục quản lí tài sản của nhà nước tại doanh nghiệp thuộc Bộ Tài chính có
trách nhiệm quản lí tài chính đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Hiên nay, cơ chế
quản lí tài chính cũng như quản lí nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước đang có
những tay đổi để phù hợp với tình hình thực tế. Ở nước ta, trong kế hoạch tài chính
có thuật ngữ “vốn tự có và coi như tự có” hoặc “vốn ngân sách cấp và có nguồn gốc
ngân sách” để biểu thị nguồn vốn được ngân sách Nhà nước cấp ban đầu, cấp bổ
sung và nguồn vốn khác hình thành trên cơ sở vốn của Nhà nước.
Đối với doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, chủ
doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiệt để xin đăng kí thành lập doanh
nghiệp. Quy mô vốn tự có ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng,
tuy nhiên đó không phải là nhân tố quyết định lâu dài. Trong quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiêọ hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ
có những điều kiện thuận lợi để mở rộng nguồn vốn. Nguồn vốn tích lũy từ lợi
nhuận để lại là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Số lợi nhuận để lại tái đầu tư sẽ làm tăng thêm nguồn vốn
của chủ sở hữu, được phản ánh trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Quy
mô và tỷ lệ vốn để lại từ lợi nhuận phụ thuộc vào tình hình kinh doanh, kết quả hoạt
động của thời kì đã qua và quyết định cụ thể của chủ doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố
quyết định để hình thành doanh nghiệp. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của doanh
nghiệp và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cố phần mà họ nắm giữ. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp cổ phần cũng có một số dạng tương đối khác nhau, do đó
cách thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau.
Trong loại hình doanh nghiệp khác như doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn,
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, các
nguồn vốn cũng tương tự như trên, tức là nguồn vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, do
8
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
các bên tham gia góp vốn, các đối tác,v.v… Tỷ lệ và quy mô vốn của các bên tham
gia doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như luật pháp, đặc điểm các
ngành kinh tế-kĩ thuật, cơ cấu liên doanh…
1.4.2 Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
Có thể nói rằng nguồn vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan
trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn
đối với toàn bộ nền kinh tế qyốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh
nghiệp, các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng
thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng.
Không có một doanh nghiệp nào có thể hoạt động mà không vay vốn ngân hàng
hoặc tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương
trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm
bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có
đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Về mặt thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay vốn,
bao gồm vay dài hạn (thường tính từ 3 năm trở lên, có nơi tính từ 5 năm), vay trung
hạn(từ 1 đến 3 năm) và vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Tiêu chuẩn và quan niệm về
thời gian để phân loại trong thực tế không gióng nhau giữa các nước, và có thể khác
nhau giữa các ngân hàng thương mại.
Tùy theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại vay
thành các loại như: vay đầu tư tài sản cố định, vay vốn lưu động, vay để phục vụ dự
án. Cũng có những cách ơhân chia khác như: Theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực
phục vụ hoặc theo hình thức đảm bảo của khoản vay.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm, nhưng nguồn vốn này cũng có
những hạn chế nhất định, Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của
ngân hàng và chi phí sử dụng vốn.
Điều kiện tín dụng: Các ngân hàng thương mại khi cho doanh nghiệp vay vốn
luôn luôn phải đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng thông quá một hệ
thống các biện pháp đảm bảo tín dụng. Trước tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ
xin vay vốn, đánh giá các dự án liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Doanh nghiệp phải cung cấp những báo cáo
tài chính và những thông tn cần thiết khác theo yêu cầu của ngân hàng.
Các điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các
ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tín dụng, phổ
biến nhất là bằng tài sản thế châp. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong
9
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay, kể
cả những thủ tục pháp lí về giấy tờ.v.v… Do đó doanh nghiệp cần tính đến yếu tố
này khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Sự kiểm soát của ngân hàng cho vay: Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng
thì doanh nghiệp phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử
dụng vốn vay. Nói chung, sử kiểm soát này không gây ra vấn đề gì lớn cho doanh
nghiệp, tuy nhiên, trong một số trường hợp việc làm đó khiến cho doanh nghiệp có
cảm giác bị kiểm soát.
Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vốn tín
dụng ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kì.
Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn
và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay
còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự
nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán này hình thành một cách tự nhiên trong
quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương
mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà còn với toàn
bộ nền kinh tế.
Nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh
hoạt trong kinh doanh; mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác kinh
doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai
bên kí hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cần nhận thấy
tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ vượt quá giới
hạn an toàn.
Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của khoản
vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi
mua bán hàng hóa trả chậm chi phí này có thể “ẩn” dưới hình thức thay đổi mức
giá. Tùy thuộc quan hệ và thỏa thuận cụ thể giữa các bên.
1.4.3 Nguồn vốn phát hành cổ phiếu doanh nghiệp
Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổphiếu để huy động vốn
cho doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn cho
doanh nghiệp. Sau đây là một vài yếu tố cơ bản về việc phát hành và kiểm soát các
loại cổ phiếu khác nhau
a. Cổ phiếu thường
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong
việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trong thị trường chứng
10
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
khoán. Cổ phiếu thường là mặt hàng quan trọng nhất trên thị trường chứng khoán,
điều đó cũng đủ để chứng minh tầm quan trọng của nó với các công cụ tài chính
khác.
Giới hạn phát hành: Mặc dù việc phát hành cổ phiếu có ưu thế so với các phương
thức huy động vốn khác nhưng cũng có những hạn chế và các ràng buộc cần được
cân nhắc kĩ lưỡng. Giới hạn phát hành là một quy định ràng buộc có tính pháp lí.
Lượng cổ phiếu tối đa mà doanh nghiệp được quyền phát hành gọi là vốn cổ phiếu
được cấp phép. Đây là một trong những quy định của Ủy ban chứng khoán nhà
nước nhằm quản lí và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch
chứng khoán. Tại nhiều nước, số cổ phiếu được phát hành được ghi trong điều lệ
doanh nghiệp, tuy nhiên tại một số nước lại không quy định số lượng đó trong điều
lệ doanh nghiệp. Muốn tăng vốn cổ phần thì trước hết cần phải được đại hội cổ
đông cho phép, sau đó phải hoàn tất các thủ tục quy định khác.
Hầu hết các nước sử dụng giới hạn phát hành như một công cụ quan trọng để
kiểm soát và hạn chế rủi ro cho công chúng. Thông thường, một doanh nghiệp có
thể phát hành một lần hoặc một số lần trong giới hạn số cổ phiếu đã được phát
hành. Tuy nhiên thì việc quản lí và kiểm soát quá trình phát hành chứng khoán tùy
thuộc vào chính sách cụ thể của từng nước.
Sau khi phát hành ra thị trường thứ cấp, phần lớn các cổ phiếu nằm trong tay các
nhà đầu tư được gọi là cổ đông. Những cổ phiếu này được gọi là đang lưu hành trên
thị trường. Tuy nhiên có thể chính doanh nghiệp phát hành mua lại một số cổ phiếu
của mình và giữ nó nhằm mục đích nào đó. Những cổ phiếu được doanh nghiệp
mua lại như vậy được gọi là cổ phiếu ngân quỹ. Những cổ phiếu này được coi như
tạm thời không lưu hành. Việc mua lại hoặc bán ra những cổ phiếu này phụ thuộc
vào một số yếu tố như:
* Tình hình cân đối vốn và khả năng đầu tư
* Tình hình biến động giá chứng khoán trên thị trường
* Chính sách đối với việc sát nhập hoặc thôn tính doanh nghiệp(chống thôn tính)
* Tình hình trên thị trường chứng khoán và quy định của ủy ban chứng khoán
nhà nước
Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu là mệnh giá, giá cả của cổ phiếu trên thị trường
được gọi là thị giá. Trị giá của cổ phiếu được phản ánh trong sổ sách kế toán của
doanh nghiệp được gọi là giá trị ghi sổ, đó cũng chính là mệnh giá của các cổ phiếu
đã phát hành.
Mệnh giá không chỉ được ghi trên mặt cổ phiếu mà còn được ghi rõ trên giấy
phép phát hành và trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp. Tuy nhiên mệnh giá chỉ
11
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
có ý nghĩa khi phát hành cổ phiếu và đối với khoảng thời gian ngắn sau khi cổ phiếu
được phát hành. Thị giá phản ánh sự đánh giá của thị trường đối với cổ phiếu,
phảnh ánh lòng tin của nhà đầu tư đối với hoạt động của doanh nghiệp
Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường chính là những người sở hữu doanh
nghiệp, họ có quyền trước hết đối với tài sản và sự phân chia tài sản hoặc thu nhập
của doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tham gia kiểm soát và điều khiển các công
việc của doanh nghiệp. Tuy nhiên thông thường có một số lượng cổ đông của doanh
nghiệp, nên mỗi cổ đông chỉ có một quyền lực giới hạn nhất định trong việc bỏ
phiếu hoặc chỉ định thành viên của ban giám đốc. Một số công việc hay những vấn
đề đặc biệt cần có sự nhất trí của đa số cổ đông.
Tùy theo việc quy định trong điều lệ doanh nghiệp, có thể hình thành các phương
thức bỏ phiếu khác nhau. Hai phương thức được sử dụng rộng rãi là bỏ phiếu theo
đa số và bỏ phiếu gộp.
Bỏ phiếu theo đa số là việc cổ đông có thể dùng mỗi lá phiếu để bầu một người
quản lí, các chức danh sẽ được bầu riêng rẽ. Điều này rõ ràng có lợi cho những
người đang nắm đa số cổ phiếu của doanh nghiệp vì họ có thể tạo áp lực mạnh hơn
bằng số cổ phiếu đang nắm giữ.
Cơ chế bỏ phiếu gộp cho phép cùng bỏ phiếu cho một ứng cử viên nào đó tức là
một số cổ đông có thể dồn toàn bộ số phiếu có tring tay cho một ứng cử viên được
ưa chuộng. Đây là lí do tại sao một số các cổ đông thiếu ủng hộ cơ chế bỏ phiếu
gộp.
Trong điều lệ doanh nghiệp, quy định rõ về phạm vi những sự vụ cần được đa số
(trên 50%) cổ đông tán thành và những vấn đề cần được tuyệt đại đa số (75% trở
lên) cổ đông nhất trí.
Vấn đề chống thôn tính và bảo vệ doanh nghiệp trước sự xâm lấn bằng cổ phiếu
của các doanh nghiệp khác là một khía cạnh đặc biệt. Huy động vốn qua phát hành
cổ phiếu phai xem xét đến nguy cơ thôn tính. Do đó phải tính đến tỷ lệ cổ phần tối
thiểu cần duy trì để giữ vững quyền kiểm soát của doanh nghiệp.
b. Cổ phiếu ưu tiên
Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được
phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích
hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đăcn điểm là nó thường có cổ tức cố định. Người chủ của
cổ phiếu ưu tiê có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi
chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được
12
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
nhận cổ tức của kì đó. Việc giải quyết chính sách cổ tức được nêu rõ trong điều lệ
của doanh nghiệp.
Phần lớn các doanh nghiệp cổ phần quy định rõ: Doanh nghiệp có nghĩa vụ trả
hết số lợi tức chưa thanh toán của các kì trước cho cổ đông ưu tiên, sau đó mới
thanh toán cho các cổ đông thường.
Các cổ phiếu ưu đãi có thể được chính doanh nghiệp phát hành thu hồi lại khi
doanh nghiệp thấy cần thiết. Những trường hợp như vậy cần quy định rõ những
điểm sau:
• Trường hợp nào thi doanh nghiệp có thể mua lại cổ phiếu
• Giá cả khi doanh nghiệp mua lại cổ phiếu
• Thời hạn tối thiểu không được phép mua lại cổ phiếu.
Một vấn đề rất quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên đó là thuế.
Khác với chi phí lãi vay được giảm khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, cổ tức
được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ tức ưu tiên, mặc dù vậy, như
đã đề cập, cổ phiếu ưu đãi vẫn có nhiều ưu điểm với cả doanh nghiệp phát hành lẫn
nhà đầu tư.
1.4.4 Phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu là một tên chung của các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn, bao
gồm: trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp. Trái phiếu còn được gọi là
trái khoán. Một trong những vấn đề cần phải được xem xét khi phát hành là lựa
chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất đối với điều kiện của doanh nghiệp và tình
hình trên thị trường tài chính.
Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến các chi
phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trước
khi quyết định phát hành cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái
phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước thường có các loại trái phiếu doanh
nghiệp sau:
a. Trái phiếu có lãi suất cố định
Loại trái phiếu này thường được sử dụng nhiều nhất, tức là loại phổ biến nhất
trong các loại trái phiếu của doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái
phiếu và không thay đổi trong suốt kì hạn của nó. Như vậy cả doanh nghiệp và
người giữ trái phiếu đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn
tại. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng thường được quy định rõ.
Để huy động vốn trên thị trường trái phiếu, phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái
phiếu. Tính hấp dẫn phụ thuộc các yếu tố sau:
13
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
- Lãi suất của trái phiếu: Người đầu tư luôn muốn được hưởng mức lãi suất cao.
Nhưng doanh nghiệp phát hành phải cân nhắc mức lãi suất có thể chấp nhận được
đối với trái phiếu của họ chứ không thể trả thật cao như mong muốn của nhà đầu tư.
Lãi suất của trái phiếu phải được đặt trong tương quan so sánh với lãi suất trên
thị trường vốn, đặc biệt là phải tính đến sự cạnh tranh với trái phiếu của các doanh
nghiệp khác và trái phiếu chính phủ.
- Kì hạn của trái phiếu: Đây là yếu tố rất quan trọng không những đối với doanh
nghiệp phát hành mà cả đối với nhà đâu tư. Khi phát hành phải căn cứ vào tình hình
thị trường vốn và tâm lí dân cư mới có thể xác định kì hạn hợp lí
- Uy tín tài chính của doanh nghiệp và mức độ rủi ro: Không phải doanh nghiệp
nào cũng có thể thu hút được công chúng mua trái phiếu vì nhà đâu tư cần phải
đánh giá uy tín doanh nghiệp thì mới quuyết định mua hay không mua. Các doanh
nghiệp có uy tín và vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra
công chúng để huy động vốn.
Trong việc phát hành trái phiếu cũng cần chú ý đến mệnh giá vì nó có thể liên
quan đến sức mua của dân chúng.
b. Trái phiếu có lãi suất thay đổi
Tuy gọi là trái phiếu có lãi suất thay đổi nhưng thực ra loại này có lãi suất phụ
thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng. Chẳng hạn như lãi suất LIBOR hoặc lãi
suất cơ bản.
Trong điều kiện mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định thì có
thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Do các biến động của lạm phát kéo
theo sự giao động cuiả lãi suất thực, các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi
suất thích đáng khi so sánh với tình hình thị trường. Vì vậy, một số người ưa thích
trái phiếu thả nổi. Tuy nhiên, loại trái phiếu này có một vài nhược điểm sau đây:
- Doanh nghiệp không biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này
gây khó khăn cho công việc lập kế hoạch tài chính.
- Việc quản lí trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do phải thông báo các lần
điều chỉnh lãi suất.
c. Trái phiếu có thể thu hồi
Một số doanh nghiệp lựa chọn cách phát hành những trái phiếu có thể thu hồi,
tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Trái phiếu như vậy
phải được quy định ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết. Phải quy
định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiếu. Thông thường,
người ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi.
Loại trái phiếu có thể thu hồi có những ưu điểm sau:
14
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
- Có thể được sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi không
cần thiết, doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu, tức là giảm số vốn vay.
- Doanh nghiệp có thể thay trái phiếu loại này bằng một nguồn tài chính khác
bằng cách mua lại các trái phiếu đó.
Tuy nhiên, nếu không có những hấp dẫ nào đó thì trái phiếu này thường không
được ưa thích.
d. Chứng khoán có thể chuyển đổi
Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Mỹ, thường phát hành chứng khoán
kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung sự chuyển đổi và lựa
chọn cho phép các bên có thể lựa chọn một cách thức đầu tư có lợi và thích hợp.
Một số loại chứng khoán có thể chuyển đổi:
- Giấy bảo đảm: Người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ phiếu
thường được quy định trước với giá cả và thời gian xác định
- Trái phiếu có thể chuyển đổi là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi
thành một số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nếu giá trị của cổ phiếu tăng lên
thì người giữ trái phiếu có cơ mày nhận được lợi nhuận cao.
1.4.5 Nguồn vốn từ lợi nhuận tái đầu tư
Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan
trọng của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp phát huy được nguồn lực của chính
mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính
sách tái đầu tư từ lợi nhuận giữu lại; họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lớn
lợi nhuận giữ lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại chỉ có thể được thực hiện nếu như
doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, cho phép có thể tiếp tục tái đầu
tư. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc khong chỉ bản
thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc chính sách khuyến khích tái đầu tư của nhà
nước.
Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp cổ phần thì việc giữ lại lợi nhuận có liên
quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi doanh nghiệp để lại một phần lợi nhuận
trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phiếu.
Các cổ đông không nhận được tiền lãi cổ phiếu nhưng bù lại, có có quyền sở hữu số
vốn cổ phần tăng lên của doanh nghiệp.
Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng
nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông nắm giữ cổ phiếu lâu
dài, nhưng mặt khác, lại dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời khì trước
15
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
mắt, do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức
thấp, hoặc số lãi ròng không đủ gấp dẫ thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút.
Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phương pháp cổ tức của
doanh nghiệp cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như:
- Tổng số lợi nhuận ròng trong kì
- Mức chia lãi cổ phiếu của các năm trước
- Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu
doanh nghiệp, tâm lí đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó
- Hiệu quả của việc tái đầu tư.
16
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
Chương 2
Thực trạng huy động vốn của doanh nghiệp cổ phần ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng huy động vốn và phương thức huy động vốn của doanh nghiệp cổ phần
ở Việt Nam hiện nay
2.1.1 Thực trạng về nguồn vốn tự có của doanh nghiệp
Theo số liệu của tổng cục Thống kê, tính đến ngày 1/1/2009, cả nước có 205689
doanh nghiệp đang hoạt động với tổng số vốn là 6.335.827 tỷ đồng. Trong đó,
doanh nghiệp nhà nước chiếm 39.9% tổng vốn của các doanh nghiệp (2526050 tỷ
đồng), doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 43% (2.723.008 tỷ đồng) và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 17.1% (1086769 tỷ đồng). Trung bình vốn
của từng doanh nghiệp là rất nhỏ, bình quân 30.8 tỷ đồng. Trong năm 2008, cả
nước có 49918 doanh nghiệp đăng kí mới với tổng số vốn đăng kí đạt 1.507909 tỷ
đồng, đạt 132% về số lượng và 131.2% về vốn đăng kí so với năm trước. Qua 9
năm thi hành Luật doanh nghiệp, đã có 170.758 doanh nghiệp đăng kí mới với tổng
số vốn điều lệ đăng kí đạt 421,75 ngàn tỷ đồng. Đồng thời các doanh nghiệp cũng
đăng kí bổ sung 207.43 ngàn tỷ đồng vốn. Qua đó ta có thể thấy số vốn tự có của
các doanh nghiệp tư nhân ngày càng được gia tăng. Trong khi đó, các doanh nghiệp
có vốn đầu tư của nhà nước đang được cổ phần hóa, giảm tỉ lệ vốn đầu tư của nhà
nước và bán lại các cổ phần cho chính công nhân viên trong doanh nghiệp. Điều đó
sẽ làm tăng sự gắn kết giữa các công nhân viên và doanh nghiệp, tạo động lực để họ
có thể lao động tốt hơn và có nhiều đóng góp hơn cho doanh nghiệp.
2.1.2 Thực trạng nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
Tín dụng ngân hàng là hình thức huy động vốn chủ yếu của các doanh nghiệp
nước ta. Các tổ chức tín dụng, đặc biệt là tổ chức tín dụng nhà nước hoạt động chủ
yếu vẫn là huy động và cho vay với các hình thức tín dụng truyền thống, chiếm 75-
80% thị phần cũng như tài sản của hệ thống ngân hàng.
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang phát triển lên một cấp độ mới, nền kinh tế hội
nhập. Điều đó đang đặt ra cho các chủ thể kinh doanh của nền kinh tế phải đối mặt
với những thách thức mới. Đó là làm thế nào để có thể tồn tại, đứng vững và phát
triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh như
vậy, hoạt động tín dụng ngân hàng nổi lên như một mắt xích trọng yếu trong hoạt
động của nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng có một vai trò quan trọng, với vị
trí là trung gian tài chính của nền kinh tế, thông qua các nguồn lực xã hội được phân
17
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
bổ sử dụng một cách hợp lí và có hiệu quả. Thông qua việc cung ứng nguồn vốn, tín
dụng ngân hàng có tác động rất lớn tới quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Đặc
biệt đang lúc chúng ta đẩy nhanh lại quá trình xắp xếp lại và cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước thì vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng lại càng quan trọng
hơn, nhất là trong bối cảnh hiện tại khu vực mà vốn của ngân hàng thương mại
chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tài sản của doanh nghiệp nhà nước, có trường hợp vốn
tín dụng ngân hàng chiếm tới 80% tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân đang có xu hướng được các ngân hàng
quan tâm. Năm 1995, khu vực kinh tế tư nhâm chỉ mới nhận được vốn từ hệ thống
ngân hàng là 18.198 tỷ đồng. Năm 1999, lưu lượng vốn đại được là 44.873 tủ đồng,
tăng 146% so với 1995; trong khi đó tín dụng cho doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng
73%. Đến năm 1997,1998,1999 tỷ trọng vốn tín dụng cho khu vực kinh tế từ nhân
trong tổng số vốn tín dụng cho các khu vực kinh tế khoảng 46% và từ năm 2000-
2003, tỉ ttọng này đã tăng lên đáng kể (năm 2000: 55,7%; năm 2001: 57,8%; năm
2002: 61,3%; năm 2003: 64,5%).
Hiện nay dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước của ngân hàng thương mại ở Hà
Nội đang giảm khá rõ rệt cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng dư nợ cho vay các
thành phần kinh tế. Nếu thời điểm cuối năm 2005, dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà
nước(cả trung ương và địa phương) của hệ thông ngân hàng Hà Nội là 42.170 tỷ
đồng, chiếm tỷ trọng 47,6% tổng dự nợ thì đến nay, số dư nợ này còn khoảng
41.500 tỷ đồng và chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 41% tổng dư nợ. Trong báo cáo hoạt
động ngân hàng 6 tháng đầu năm 2010, hầu hết các doanh nghiệp được quan tâm
hiện nay đều là thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Không có ngân hàng nào đặt ưu tiên
tín dụng vào doanh nghiệp nhà nước trong thời gian này.
Đây là một điểm đáng chú ý nếu như chúng ta nhớ rằng chỉ cách dây một vài
năm, doanh nghiệp nhà nước vẫn là đối tượng khách hàng cạnh tranh của các ngân
hàng. Lúc đó dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm đến 70%-80% tổng dư
nợ cho vay của các chi nhánh ngân hàng thương mại. Nhưng từ năm 2004 đến nay,
tình hình đã khác, ước tính 80% lượng vốn cung ứng cho doanh nghiệp cung ứng
cho doanh nghiệp vừa và nhỏ là từ kênh ngân hàng. Nhưng theo định hướng của
Chính phủ, đến năm nay-2010, cả nước sẽ có 500.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đi
cùng với con số này là một lượng vốn lớn cần đáp ứng. Trong các năm qua, lượng
vốn mà các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay chiếm
bình quân 40% tổng dư nợ, Theo đại diên các ngân hàng, đây là tủ lệ cao nhất từ
18
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
trước tới nay, thậm chí có những trường hợp chiếm từ 50%-60% tổng dư nợ như
ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tốc độ tăng trưởng tín dụng dành cho
khối doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm gần đây cũng đã cho thấy những
tín hiệu khả quan: năm 2003 là 37,1%, năm 2004 là 20,18%, năm 2005 là 22%. Tuy
nhiên trong điều tra về thực trạng doanh nghiệp vưa fvà nhỏ do cục phát triển doanh
nghiệp (Bộ kế hoạch&đầu tư) công bố mới đây cho thấy chỉ có 32,38% số doanh
nghiệp cho biết có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn nhà nước(chủ yếu từ ngân
hàng thương mại), 35,24% doanh nghiệp khó tiếp cận và 32,38% số doanh nghiệp
không tiếp cận được. Như vậy khả năng tiếp cận vốn ngân hàng thương mại của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn có nhiều hạn chế.
Ở Việt Nam hiện nay, theo thống kê có tới 80,5% số doanh nghiệp huy động vốn
từ các nguồn mua bán chịu, sử dụng vốn của đối tác. Tuy nhiên, những giao dịch đó
chỉ mới được ghi lại một cách đơn giản trên sổ nợ của người bán; ngay cả khi mua
bán trả chậm, các bên cũng chỉ lập văn bản thỏa thuận với nội dung đơn giản về thời
gian và số tiền trả chậm. Vì vậy, các khoản nợ đã không được xác nhận về mặt pháp
lí và khó chứng minh khi nảy sinh tranh chấp; dẫn đến nguy cơ nợ nần dây dưa,
thậm chí mất trắng tiền tỷ của các tiểu thương ở chợ đầu mối…Mặc dù quan hệ tín
dụng thương mại mua bán chịu giữa các doanh nghiệp, tiểu thương đã tồn tại như
một quan hệ thực tế khách quan trong nền kinh tế Việt Nam, nhưng phải tới
1/7/2006 thì luật các công cụ chuyện nhượng mới có hiệu lực, quan hệ này mới
chính thức được pháp luật thùa nhận. Đây được xem như một đông lực thúc đẩy sự
phát triển thị trường mua bán nợ nói triêng và thị trường tiền tệ nói chung.
2.1.3 Thực trạng nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu doanh nghiệp
Huy động vốn từ việc phát hành cổ phiếu mới là một biện pháp đang được rất
nhiều doanh nghiệp quan tâm hiện nay. Rất nhiều doanh nghiệp nhà nước trong tiến
trình cổ phần hóa đã phát hành thêm cổ phiếu mới để thu hút vốn đầu tư từ bên
ngoài. Các doanh nghiệp cổ phần khác cũng coi đây là một nguồn vốn vô cùng to
lớn. Một số doanh nghiệp đã tăng được vốn chủ sở hữu lên đáng kể khi sử dụng
phương pháp phát hành thêm cổ phiếu này. Theo như ghi nhận, nửa đầu năm 2010,
rất nhiều doanh nghiệp đã lựa chọn phương thức phát hành thêm cổ phiếu để huy
động vốn. Một vài điển hình như: Tập đoàn Hoà Phát (HPG) chia cổ phiếu thưởng
cho cổ đông với tỷ lệ 10:4. Hiện nay, tập đoàn này có 132 triệu cổ phiếu niêm yết,
tương đương với số vốn điều lệ 1.320 tỷ đồng, sau khi chia cổ phiếu thưởng và hoàn
19
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
thành thủ tục niêm yết, sẽ có thêm 52,8 triệu cổ phiếu sẵn sàng cho giao dịch trên
thị trường chứng khoán. Doanh nghiệp cổ phần Hoá An (DHA) chia cổ phiếu
thưởng cho cổ đông với tỷ lệ 10:3, với số cổ phiếu phát hành thêm là 3,4 triệu cổ
phiếu, nâng tổng số cổ phiếu lưu hành trên thị trường lên khoảng 10 triệu. Bên cạnh
đó DHA cũng bán cổ phiếu mới tăng vốn cho cổ đông theo tỷ lệ 10: 2, tương ứng
với 2,0 triệu cổ phiếu, với giá bán 40.000 đồng/cổ phiếu, tương đương số tiền là 80
tỷ đồng.Doanh nghiệp cổ phần khoáng sản Bình Định (BMC) phát hành thêm cổ
phiếu mới cho cổ đông với tỷ lệ được mua là 2:1, với giá 20.000 đồng/cổ phiếu.
Doanh nghiệp cổ phần thương mại xuất nhập khẩu Thủ Đức phát hành 5,0 triệu cổ
phiếu, tương ứng 50 tỷ đồng để tăng vốn lên 100 tỷ đồng và chia cổ tức năm 2007
bằng cổ phiếu với tỷ lệ 10%. Doanh nghiệp xi măng Bỉm Sơn (BCC) phát hành 10
triệu cổ phiếu, trong đó bán cho cổ đông với tỷ lệ 20:1, với giá bán 20.000 đồng/cổ
phiếu; và chào bán rộng rãi ra công chúng theo phương thức đấu thầu với giá khởi
điểm là 35.000 đồng/cổ phiếu. Doanh nghiệp cổ phần dược Hậu Giang phát hành 10
triệu cổ phiếu thưởng cho cổ đông, thời điểm thực hiện là 17/12/2007. Doanh
nghiệp cổ phần Sông Đà 3 phát hành 6 triệu cổ phiếu bằng chia cổ tức, cổ phiếu và
đấu giá. Bên cạnh đó thì hàng loạt doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn cũng phát hành
cổ phiếu bằng nhiều kênh khác nhau trong đợt này. Đó là chưa kể một số DN bán
đấu giá phần vốn Nhà nước: Doanh nghiệp cổ phần bến xe tàu phà Cần Thơ và
Doanh nghiệp cổ phần năng lượng kho ngoại quan Cawaco Hàng loạt doanh
nghiệp khác IPO và hàng loạt doanh nghiệp khác phát hành cổ phiếu mới tăng vốn
điều lệ, như Doanh nghiệp TNHH một thành viên chế tạo máy TKV Tổng số vốn
của 2 kênh này dự kiến thu hút cũng lên tới 7.000–10.000 tỷ đồng. Điều này có thể
được lí giải bởi những lí do sau đây:
Thứ nhất, DN thực sự cần vốn để thực hiện các dự án mới và mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh. Mặt khác, đối với các dự án rủi ro cao và kết quả lợi nhuận
không thực sự tốt thì DN cũng có xu hướng dùng vốn cổ phần nhiều hơn so với
dùng vốn nợ nhằm tăng tính an toàn về tài chính.
Thứ hai, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc vay vốn với lãi suất chấp nhận
được từ ngân hàng trong thời gian qua đã làm cho kênh huy động vốn cổ phần được
ưu tiên hơn. Thực tế trong khoảng 4-5 tháng đầu năm, lãi suất cho vay của ngân
hàng luôn duy trì ở mức cao, khoảng 17-18%. Để chấp nhận được mức lãi suất này
thì doanh nghiệp phải có được tốc độ tăng trưởng lợi nhuận khoảng 25-30%, điều
20
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
này là rất khó thực hiện đối với doanh nghiệp. Chính vì vậy mà tăng trưởng tín
dụng tính đến thời điểm tháng 8/2010 mới đạt 15%.
Thứ ba, cũng có những doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu chỉ để đảm bảo tỷ
lệ cân đối giữa vốn nợ và vốn chủ sở hữu. Khi doanh nghiệp đang có mức tỉ lệ nợ
cao, việc phát hành thêm sẽ làm giảm tỉ lệ này. Điều này giúp cho doanh nghiệp
luôn ở trong trạng thái tài chính lành mạnh, giảm thiểu rủi ro thanh khoản cũng như
nguy cơ vỡ nợ từ nguồn vốn vay.
Thứ tư, khi thị trường định giá cổ phiếu của nó cao hơn giá trị nội tại. Phát hành
thêm trong trường hợp này sẽ tạo ra lợi nhuận tài chính cho Cty, và thực chất là
tăng phần lợi nhuận cho nhà đầu tư hiện hữu.
Theo đánh giá của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, quy mô thị trường chứng
khoán Việt Nam 10 năm qua đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng
bước đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng. Trong suốt thời kỳ
từ 2002 -2005, mức vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới 1% GDP. Quy mô thị
trường đã nhảy vọt mạnh mẽ lên 22,7% vào năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên
43% năm 2007. Trước những biến động của thị trường tài chính thế giới và những
khó khăn của nền kinh tế trong nước, mức vốn hóa của thị trường đã sụt giảm vào
năm 2008. Năm 2009, khi nền kinh tế phục hồi, chỉ số chứng khoán cũng đã tăng
trở lại. Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu tính đến thời điểm cuối năm 2009 đã đạt
37,71% GDP, ước tính đến cuối năm 2010 sẽ đạt khoảng 40 - 50% GDP. Dự kiến
với việc tái cấu trúc thị trường chứng khoán, trong tương lai 10 năm tới, giá trị vốn
hóa của thị trường sẽ còn tăng mạnh, dự kiến khoảng 70% GDP.
2.1.4 Thực trạng phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Nhìn chung, thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta hiện nay chưua phát
triển. Tổ chức phát hành chủ yếu mới chỉ là các ngân hàng thương mại. Số doanh
nghiệp phát hành trái phiếu rất ít, tập trung ở những doanh nghiệp nhà nước có quy
mô lớn. Dư nợ trái phiếu chỉ chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong cơ cấu GDP (khoảng
11%).Thêm vào đóm khung pháp lí quản lí việc phát hành tría phiếu vẫn còn thiếu
toàn diện, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc huy động
vốn. Nghị định 144/2003/NĐCP tuy đã được ban hành từ năm 2003 nhưng chi đến
nay vẫn chưa thực sự được áp dụng nhiều vào thực tế do: Tiêu chuẩn xác định việc
phát hành trái phiếu ra công chúng tuy đã được định lượng nhưng khó vận dụng và
không phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, khả năng phát hành trái phiếu của
21
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
các doanh nghiệp bị hạn chế do việc phát hành trái phiếu phải bắt buộc thực hiện
theo phương thức bảo lãnh phát hành thông qua các doanh nghiệp chứng khoán,
trong khi mức bảo lãnh phát hành của các công tuy chứng khoán lại bị giới hạn…
Vừa qua, chính phủ ban hành nghị định 52/2006/NĐCP về phát hành trái phiếu
doanh nghiệp đã mở ra một kênh mới để huy động vốn cho doanh nghiệp. Về
phương diện chính sách, Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư được quốc hội thông
qua năm 2005 đã cho phép các doanh nghiệp được phát hành trái phiếu để huy động
vốn từ thị trường. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta mới chỉ có quy định về việc phát
hành trái phiếu ra công chúng. Vì vậy, việc ta đời của nghị định 52/2006/NĐCP là
một bước kiện toàn hệ thống chính sách quản lí của Nhà nước, đảm bảo cho hệ
thống chính sách toàn diện hơn, hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện
công khai, minh bạch hơn. Được phép của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đã là đơn vị đầu
tiên phát hành trái phiếu dài hạn với tên gọi trái phiếu Agribank với 2 thời hạn ban
đầu là 10 năm và 15 năm. Thời hạn phát hành trái phiếu Agribank tối đa là 60 ngày.
Ngày phát hành trái phiếu là ngày 10/10 hằng năm. Trái phiếu Agribank được phát
hành bằng đồng Việt Nam với khối lượng 3000 tỷ qua hình thức ghi sổ. Việc phát
hành trái phiếu Agribank là bước đi đúng hướng của Agribank nhằm đa dạng hóa
các hình thức huy động vốn, tăng thêm nguồn vốn dài hạn đầu tư cho các dự án
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tăng cường năng lực tài chính
của mình. Tại cuộc Hội thảo Phát hành trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam được
vụ Tài chính Ngân hàng - Bộ Tài chính tổ chức vào trung tuần tháng 8/2007, ông
Trương Hùng Long - Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính Ngân hàng cho rằng thị trường
trái phiếu Việt Nam đang trong giai đoạn sơ khai. Cơ cấu trái phiếu doanh nghiệp
trong thị trường trái phiếu Việt Nam còn rất khiêm tốn (chỉ chừng 10%, trong số đó
chủ yếu là các tổng doanh nghiệp lớn như Vinaconex, EVN, Vinashin, Sông Đà…),
trái phiếu chính quyền địa phương chiếm khoảng 10% trong khi trái phiếu chính
phủ chiếm đa số (80-83%). Các nhà đầu tư chủ yếu mua và giữ trái phiếu tới khi
đáo hạn, các dịch vụ liên quan hầu như chưa có… Mặc dù từ năm 2006, thị trường
đã có bước phát triển mới với Nghị định số 52/2006/NĐ-CP mở rộng chủ thể phát
hành (bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước còn có các doanh nghiệp trách nhiệm
hữu hạn, doanh nghiệp cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) nhưng
dư nợ trái phiếu doanh nghiệp/GDP mới chiếm khoảng 2%. Một quan chức của
22
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
Citibank nhận định, thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam còn hạn chế do
độ tin cậy của phần lớn các doanh nghiệp đối với nhà đầu tư chưa cao, các trái
phiếu chưa được định hạn. Đối với thị trường nhỏ, các nhà đầu tư thường băn khoăn
về tính thanh khoản. Nếu như trái phiếu chính phủ có mức rủi ro thanh toán thấp,
tạo được sự tin cậy thì các nhà đầu tư lại tỏ ra khá dè dặt với trái phiếu doanh
nghiệp. Thị trường trái phiếu Việt Nam chưa phong phú do số nhà phát hành nhỏ,
số lượng trái phiếu phát hành còn thấp nên nhà đầu tư có rất ít lựa chọn. Nhìn
chung, sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trong thị trường trái phiếu Việt
Nam rất lớn (đơn cử trường hợp của Vinashin, Lilama…). Cũng theo chuyên gia
của Citibank, trong bối cảnh thị trường trái phiếu Việt Nam còn sơ khai như hiện
nay, một trong những việc cần làm là nâng cao nhận thức về trái phiếu doanh
nghiệp đối với các nhà quản lý tài chính trong các doanh nghiệp cũng như nhận
thức của các nhà đầu tư. Để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, trước hết
phải nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu chính phủ. Chỉ khi nào phát triển
được thị trường trái phiếu chính phủ khi đó mới có thể khuyến khích sự tham gia
của các nhà đầu tư đối với trái phiếu doanh nghiệp. Điều này còn có tác động tích
cực tới cổ phiếu của chính các doanh nghiệp đó. Do vậy, thị trường trái phiếu chính
phủ vẫn phải là bước khởi đầu.
Một câu hỏi được đặt ra là sự phát triển của thị trường trái phiếu có giúp cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc huy động vốn hay không? Bà Yoko Ogimoto,
cố vấn Viện Nghiên cứu Nomura cho biết thực trạng ở một nơi có thị trường trái
phiếu rất phát triển như ở Nhật Bản thì thị trường trái phiếu dành cho các doanh
nghiệp nhỏ vẫn hết sức khó khăn. Đối với các doanh nghiệp hạng vừa, tình hình có
khả quan hơn. Các cơ quan chức năng địa phương tạo ra thị trường giúp các doanh
nghiệp phát hành trái phiếu của mình. Các doanh nghiệp nhỏ có thể không phát
hành độc lập mà kết hợp với nhau, họ cũng có lợi thế với các thủ tục phát hành đơn
giản, không cần xin phép chính phủ. Song khó khăn chính đối với doanh nghiệp cỡ
nhỏ và vừa là lòng tin của các nhà đầu tư. So với các nước trong khu vực và trên thế
giới, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp/tổng dư nợ trái phiếu của Việt Nam mới đạt
11% trong khi con số tương ứng của Thái Lan là 33%, Malaysia: 50%, Hàn Quốc là
51%. Bộ Tài chính cũng đã đưa ra một số định hướng phát triển cho trái phiếu
doanh nghiệp như: khuyến khích doanh nghiệp huy động vốn trực tiếp trên thị
trường, hạn chế sự phụ thuộc quá mức vào việc cấp vốn qua kênh tín dụng; tiếp tục
23
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý. Tới đây, các cơ quan chức năng sẽ khuyến khích
việc đưa ra các sản phẩm mới; nghiên cứu các biện pháp nhằm nâng cao tính thanh
khoản của trái phiếu doanh nghiệp. Ngoài ra, việc hình thành và phát triển các tổ
chức cung cấp dịch vụ cho thị trường trái phiếu như tổ chức định mức tín nhiệm,
định giá trái phiếu; đẩy mạnh hợp tác khu vực và quốc tế… cũng đã được tính đến.
2.1.5 Thực trạng nguồn vốn từ lợi nhuận tái đầu tư
Việc huy động vốn từ lợi nhuận không chia để lại vẫn còn khá khiêm tốn. Thực
tế tại Việt Nam, do thị trường chứng khoán được thành lập rất muộn so với các
nước, các nhà đầu tư có kinh nghiệm và có trình độ cao rất ít, đa số vẫn là các nhà
đầu tư ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp cổ phần niêm yết không thanh toán cổ tức thì
lập tức sẽ có sự phản ứng trên thị trường, giá cổ phiếu sẽ giảm. Bởi thông thường
các nhà đầu tư sẽ cho rằng sự sụt giảm về lợi nhuận sẽ kéo theo sự sụt giảm về cổ
tức. Đó sẽ là tín hiệu xấu cho thấy trong tương lai doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó
khăn, khi đó các nhà đầu tư sẽ ồ ạt bán cổ phiếu đi, việc này sẽ khiến cho giá cổ
phiếu của doanh nghiệp sụt giảm. Vì vậy, doanh nghiệp vẫn phải dành phần lớn lợi
nhuận không chia để thực hiện việc chi trả cổ tức bằng tiền mặt cho các nhà đầu tư.
Do đó việc huy động vốn từ lợi nhuận không chia của các doanh nghiệp tại Việt
Nam vẫn đang bị xem nhẹ.
2.2 Đánh giá thực trạng
2.2.1 Thành tựu đạt được
Mức vốn đăng kí bình quân của doanh nghiệp ngày một tăng. Nếu như trong thời
kì 1991-1999, vốn đăng kí bình qân một doanh nghiệp là gần 0,57 tỷ đồng thì đến
năm 2002 đã là 1,8 tỷ đồng. Luật doanh nghiệp được đưa vào thực hiện đã mang lại
một số thành tựu to lớn sau đây:
Bước đầu đã thu hút được vốn từ việc hát hành cổ phiếu và trái phiếu doanh
nghiệp. Chính phủ đã ban hành những quy định rõ ràng hơn về việc phát hành cổ
phiếu&trái phiếu doanh nghiệp. Luật chứng khoán được Quốc hội thông qua và có
hiệu lực từ 1/1/2007 đã tạo khung hành lang pháp lí thuận lợi cho việc phát hành cổ
phiếu của các doanh nghiệp. Như nghị định 52/2006/NĐCP về phát hành trái phiếu
doanh nghiệp đã mở ra một kênh mới để huy động vốn cho doanh nghiệp, khuyến
khích các doanh nghiệp trực tiếp tham gia huy động vốn trên thị trường để phục vụ
mục tiêu đầu tư phát triển của doanh nghiệp, kể cả mục tiêu tăng quy mô vốn tự có.
Tín dụng ngân hàng vẫn là hình thức huy động vốn chủ yếu của cá doanh nghiệp
nước ta. Hoạt động chủ yếu của các Tổ chức Tín dụng vẫn là huy động và cho vay
24
Luận văn tốt nghiệp Đại học Ngoại Thương
với các hình thức tín dụng truyền thống, chiếm từ 75%-80% thị phần cũng như tài
sản của hệ thống ngân hàng. Một số ngân hàng có chiến lược rõ ràng hướng về khu
vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, mỗi ngân hàng đã dành một lượng vốn nhất định để
cho khu vực doanh nghiệp này vay. Một số ngân hàng cũng đang thay đổi chế dộ
cho vay đối với doanh nghiệp vừa& nhỏ, có sự linh hoạt hơn, thích hợp hơn với cơ
chế thị trường. Trong hai năm gần đây, số vốn mà các ngân hàng thương mại cho
các doanh nghiệp vừa&nhỏ vay chiếm bình quân 40% tổng dư nợ. Theo đại diện
các ngân hàng, đây là tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay; thậm chí có những trường hợp
chiếm từ 50-60% tổng dư nợ như ở ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Tính đến nay với hơn chục doanh nghiệp cho thuê tài chính, trên 500 nhân viên
chuyên nghiệp, vốn tự có trên 900 tỷ đồng và vốn đầu tư trên 3000 tỷ đồng, hoạt
động cho thuê tài chính đã đảm bảo nộp ngân sách, có lãi và góp phần hỗ trợ tích
cực trong việc cung cấp các giải pháp tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là khu
vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù ra đời chưa lâu nhưng hoạt động cho thuê tài
chính của chúng ta đã có những bước phát triển đáng kể. Cho thuê tài chính thực sự
là một kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, được đánh giá là khá hữu hiệu tạo
điều kiện thu hút vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, nhất là với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Quy mô hoạt động kinh doanh cho thuê tài chính phát triển khá
nhanh và tăng trưởng vượt bậc qua các năm.
Có một điều rất đáng khuyến khích là trong hoạt động kinh doanh của mình, các
doanh nghiệp cho thuê tài chính thường không có sự phân biệt đối xử với các thành
phần kinh tế khác nhau, đối tượng cho thuê tài chính chủ yếu là các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh; các doanh nghiệp đi thuê còn được hưởng lợi lích từ các thành
tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến; được hưởng các dịch vụ tư vấn miễn phí và những
thông tin cần thiết khác từ những nhà cung cấp dịch vụ.
Theo đánh giá chung thì hoạt động cho thuê tài chính trong thời gian qua đã dần
mở rộng quy mô với đối tượng cho thuê và thành phần khách hàng tham gia, doanh
số cho thuê ngày một tăng cao, chất lượng hoạt động cho thuê tài chính tương đối
tốt, tỉ lệ nợ quá hạn ở mức cho phép, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước… Tuy
nhiên, các doanh nghiệp cho thuê tài chính hiện nay nguồn vốn huy động còn ít,
hoạt động còn rải rác chủ yếu là ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Thêm vào
đó thị trường mua bán máy móc, thiết bị cũ chưa phát triển cũng như chưa tạo được
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam.
2.2.2 Tồn tại và nguyên nhân
25