Bút pháp chính luận mẫu mực trong TUN NGƠN ĐỘC LẬP
của Hồ Chí Minh.
Tun ngơn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh tự tay soạn thảo và tuyên
đọc tại Lễ mừng Quốc khánh đầu tiên, ngày 2 tháng 9 năm 1945, tuyên bố
chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độc lập, tự
do của dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Nội dung tư tưởng chính của bản Tuyên ngôn là nêu cao khát vọng độc
lập cháy bỏng của toàn dân tộc, khẳng định quyền độc lập chân chính, xứng
đáng của dân tộc ta, khẳng định ý chí sắt đá của tồn dân ta quyết tâm bảo vệ
vững chắc nền tự do độc lập ấy.
Tư tưởng chủ đề nói trên đã được làm nổi bật bằng một bút pháp chính
luận mẫu mực: hệ thống lí lẽ sắc bén, đanh thép; sự lập luận chặt chẽ; chứng
cứ xác thực, không thể bắt bẻ được; văn phong ngắn gọn, súc tích, hùng hồn,
có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc.
Phân tích Tun ngơn độc lập, điều cốt yếu nhất là phải nêu bật được
nghệ thuật lập luận thể hiện tư duy chính luận mạch lạc, chặt chẽ, nhãn quan
chính trị sắc bén và sáng tạo, phù hợp với hồn cảnh lịch sử của dân tộc và tình
hình chính trị thế giới lúc đó đối với nền độc lập của nước nhà. Từ mạch ngầm
tư tưởng- nghệ thuật của tác phẩm, có thể thấy bố cục của bản Tun ngơn
bao gồm những luận điểm chính như sau:
Luận điểm 1: Cơ sở nền độc lập của Việt Nam là những quyền lợi cơ bản
của con người và quyền độc lập, tự quyết của các dân tộc.
Luận điểm 2: Nền độc lập của Việt Nam được khẳng định đồng thời trên
hai phương diện cơ bản nhất: phương diện đạo lí và phương diện pháp lí.
Luận điểm 3: Chính nghĩa sáng ngời của Cách mạng tháng Tám, cuộc đấu
tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam.
Luận điểm 4: Tuyên ngôn về nền độc lập của Việt Nam.
Những quyền lợi cơ bản của con người: Nguyên lí tư tưởng, cơ sở nền
độc lập của nhân dân Việt Nam.
Với mọi văn bản chính luận, dù kiểu dạng có khác nhau đến mấy thì phần
mở đầu cũng đều thực hiện một chức năng chung, đó là nêu lên những căn cứ
làm ngun lí tư tưởng, cơ sở cho sự lập luận – cơ sở cho vấn đề được bàn
luận đến trong tác phẩm. Lần giở lại những áng văn bất hủ của cha ông, những
bản tuyên ngôn về nền độc lập dân tộc trong suốt quá trình lịch sử hào hùng
bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước càng cho thấy tầm quan trọng to lớn của
những nguyên lí tư tưởng đã được đề cập. Với bài thơ Thần thời Lí Thường Kiệt
thì đó là vấn đề chủ quyền thiêng liêng đối với tồn bộ non sơng, tồn bộ bờ
cõi, lãnh thổ của đất nước:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời…
Đến Bình Ngơ đại cáo, ngun lí tư tưởng đó đã được mở rộng đến trình
độ rất sâu sắc và tồn diện; bởi vì cùng với chủ quyền lãnh thổ, Nguyễn Trãi còn
đề cập đến các vấn đề như nhân nghĩa (mà nhân nghĩa với Nguyễn Trãi là yên
dân, trừ bạo), văn hiến và lịch sử,…
Trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn về nền độc lập của dân tộc Việt
Nam, nguyên lí tư tưởng làm cơ sở cho sự lập luận được Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu lên trước hết là những quyền lợi cơ bản và thiêng liêng nhất của con
người. Bằng cách dẫn ra những lời văn bất hủ ghi trong bản Tuyên ngôn độc lập
của nước Mĩ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo
hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.” và trong
bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải ln ln được tự do
và bình đẳng về quyền lợi.”, tác giả đã chỉ rõ những quyền lợi cơ bản và thiêng
liêng nhất của con người đó là quyền bất khả xâm phạm và quyền bình đẳng,
tư do trong việc mưu cầu sung sướng, hạnh phúc. Điều quan trọng hơn là, từ
quyền lợi của con người, Hồ Chủ tịch đã phát triển, nâng lên thành quyền độc
lập, tự quyết của các dân tộc. Đó là một sự suy luận hết sức sáng tạo, nhạy bén
và hồn tồn hợp lí. Người viết tiếp: Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do. Tác dụng lập luận và sức thuyết phục mạnh
mẽ của những lời trích dẫn này trước hết bởi đó là những chân lí của lịch sử,
đã được cả thế giới thừa nhận. Như chính tác giả cho thấy, đó là “những lời bất
hủ”, là “những lẽ phải không ai chối cãi được” và đã được ghi trong những văn
kiện nổi tiếng của nhân loại.
Nhưng ý nghĩa của hai lời dẫn mở đầu bản Tuyên ngôn không chỉ có vậy.
Đặt vào hồn cảnh lịch sử đặc biệt thời điểm bản Tuyên ngôn ra đời, những lời
trích dẫn nói trên cịn có tác dụng đập lại luận điệu xảo trá của bọn đế quốc
đang lăm le xâm lược nước ta lúc ấy, theo kiểu “gậy ông đập lưng ông”. Như
mọi người đều biết, cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 vừa mới giành thắng
lợi chưa được bao lâu thì dân tộc ta lại đứng trước họa ngoại xâm. Theo hiệp
ước của các nước thắng trận, dưới danh nghĩa là quân Đồng minh vào tước khí
giới của phát xít Nhật, ở phía Bắc nước ta, 20 vạn quân Tưởng, theo sau là đế
quốc Mĩ đã kéo vào Hải Phòng, còn ở miền Nam, núp sau lưng quân Anh là
quân đội viễn chinh Pháp. Tại Hội nghị Đảng toàn quốc trong Tổng khởi nghĩa
(ngày 15/08/1945), Hồ Chủ tịch đã nhận định: Mâu thuẫn giữa Anh, Pháp, Mĩ
với Liên Xơ có thể làm cho Anh, Mĩ nhân nhượng với Pháp để cho Pháp quay
trở lại Đông Dương. Thực tế tình hình đã diễn ra đúng như vậy và để chuẩn bị
cho âm mưu xâm lược mới này, thực dân Pháp tun bố: Đơng Dương, trong
đó có Việt Nam vốn là thuộc địa của Pháp nhưng bị phát xít Nhật chiếm, nay
Nhật đã đầu hàng Đồng minh nên Pháp có quyền lấy lại Việt Nam. Ra đời trong
hoàn cảnh ấy, bản Tuyên ngôn không chỉ hướng tới quốc dân đồng bào mà còn
hướng tới nhân dân thế giới, đặc biệt là hướng vào bọn đế quốc lúc đó nhằm
bác bỏ luận điệu xâm lược xảo trá của chúng. Mà bác bỏ luận điệu xâm lược
của kẻ thù thì cịn gì đích đáng và thú vị hơn là dùng ngay lí lẽ của chính tổ tiên
họ nói về quyền tự do bình đẳng của mỗi con người và quyền độc lập tự quyết
của các dân tộc!
Bác bỏ lí lẽ của kẻ xâm lược cũng đồng thời là nhằm khẳng định quyền tự
do, độc lập chính đáng của dân tộc ta. Việc trích dẫn những ngun lí về quyền
bình đẳng của con người để làm cơ sở lập luận như vậy còn là một cách nói vừa
khéo léo vừa kiên quyết. Khéo léo vì nó thể hiện sự tơn trọng chân lí, tôn trọng
lẽ phải của dân tộc ta, cho dù chân lí và lẽ phải ấy do chính người Mĩ hay người
Pháp phát biểu. Kiên quyết vì đã nhắc nhở họ đừng phản bội lại những lí tưởng
cao cả của Cách mạng Dân tộc dân chủ, đừng làm vấy bẩn lá cờ nhân đạo và
chính nghĩa nếu họ vẫn quyết tâm xâm lược Việt Nam.
Việc mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản
tuyên ngôn nổi tiếng của hai cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử nhân loại như
thế thì cũng có nghĩa là đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau, ba cuộc cách
mạng và ba nền độc lập ngang hàng nhau. Mà đăng đối, bình đẳng, ngang hàng
nhau cũng phải bởi cuộc cách mạng tháng Tám của ta cũng giải quyết chính
những nhiệm vụ dân tộc dân chủ và nhân đạo của hai cuộc cách mạng ấy, phù
hợp với lí tưởng cao cả và chính nghĩa của lồi người. Một cách kín đáo hơn,
việc đưa hai lời dẫn trong bản Tuyên ngôn độc lập như vậy cịn có tác dụng
ngầm gợi lên niềm tự hào dân tộc theo cách của tác giả Bình Ngơ đại cáo khi
xưa đã làm: đặt các triều đại của nước ta với các triều đại của Bắc quốc trong
hai vế cân xứng, ngang hàng, đăng đối nhau khi mở đầu bài Cáo.
Khẳng định nền độc lập của Việt Nam trên cả phương diện: pháp lí và
đạo lí.
Vì kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất đang đe dọa nền độc lập non trẻ mà
dân tộc ta vừa mới giành được là thực dân Pháp nên cần phải tập trung chĩa
mũi nhọn vào chúng. Sau khi trích dẫn những nguyên lí làm cơ sở cho sự lập
luận, bản Tun ngơn tiếp tục xốy vào việc bác bỏ luận điệu xâm lược của
thực dân Pháp. Trong luận điệu đó, thực dân Pháp đã viện dẫn những căn cứ
pháp lí (Việt Nam là thuộc địa của Pháp – mà cơ sở pháp lí của nó là các Hiệp
ước cắt đất đầu hàng do triều đình nhà Nguyễn đã kí với chính phủ Pháp) và cả
căn cứ đạo lí (Pháp có cơng khai hóa, bảo hộ Việt Nam – nghĩa là về đạo lí và
nhân tình, nhân dân ta phải mang ơn chúng!?...) cho sự quay trở lại Đơng
Dương của chúng. Nhưng bằng những lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ, bằng những dẫn
chứng thực tế hùng hồn, đầy sức thuyết phục, tác giả bản Tuyên ngôn đã
chứng minh cho cả thế giới biết rằng, thực tế lịch sử cho thấy, thực dân Pháp
khơng hề có quan hệ đạo lí – nhân tình hay quan hệ pháp lí nào đối với nhân
dân Việt Nam. Khơng có quan hệ đạo lí, nhân tình bởi chúng là kẻ xâm lược phi
nghĩa. Trong suốt hơn 80 năm qua, dưới chiêu bài “bảo hộ” và “khai hóa”
nhưng thực chất chúng đã đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta, nô dịch dân
ta bằng một chính sách đơ hộ trái đạo lí và dã man nhất. Chúng thủ tiêu quyền
tự do dân chủ của nhân dân ta, chia nước ta thành ba miền Bắc, Trung, Nam để
dễ bề cai trị. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu. Chúng thi
hành chính sách ngu dân, đầu đọc nịi giống ta bằng rượu và thuốc phiện.
Chúng vơ vét, bóc lột dân ta đến tận xương tủy khiến cho hơn hai triệu đồng
bào miền Bắc bị chết đói. Đoạn văn vạch tội của giặc Pháp lời lẽ rào rào, ràn rạt,
có thể sánh với đoạn kể tội ác của bọn xâm lược Nguyên- Mông trong áng
“thiên cổ hùng văn” của Nguyễn Trãi khi xưa, khiến cho âm mưu kể công của
thực dân Pháp bị lật tẩy, khơng cịn ai có thể tin vào cái trị bảo hộ, khai hóa giả
hiệu của chúng nữa. Khơng cịn quan hệ pháp lí vì từ năm 1940, Pháp đã hai
lần dâng nước ta cho phát xít Nhật (bằng các văn bản pháp lí mà Pháp đã kí để
đầu hàng phát xít Nhật), cho nên, cả về văn bản pháp lí lẫn trên thực tế, Việt
Nam đã khơng cịn là thuộc địa của Pháp nữa và dân ta đã lấy lại nước Việt
Nam từ tay Nhật chứ khơng phải từ tay Pháp. Đó là những sự thật lịch sử đầy
sức thuyết phục; hơn nữa, đấy lại là những sự thật về chính nghĩa của nhân
dân ta nên nó có sức mạnh, một sức mạnh cịn cao hơn cả mọi thuật hùng
biện. Vì thế, trong bản Tuyên ngôn, Hồ Chủ tịch luôn nhắc đi nhắc lại hai chữ
“sự thật”, “sự thật là”,…và cuối cùng là một sự thật hùng hồn nhất: Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do,
độc lập. Trên cơ sở những chứng cứ và lí lẽ đó, bản Tun ngơn đi đến lời tuyên
bố thật dõng dạc, đường hoàng: Bởi thế cho nên, chúng tơi, Lâm thời Chính
phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho tồn dân Việt Nam, tun bố thốt li
hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về
nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Logic lập luận và dẫn dắt đến được kết luận như thế quả thật là vô cùng chặt
chẽ, sắc bén; đồng thời cũng hết sức hợp lí và sáng tạo trong bối cảnh tình hình
chính trị nhạy cảm của thế giới và Đơng Dương lúc đó. Đương nhiên, lập luận
và tuyên bố được như thế cũng hoàn tồn khơng phải là chuyện dễ dàng, nếu
khơng dựa trên những chứng cứ lịch sử xác thực, được dư luận và cơng pháp
quốc tế thừa nhận.
Nêu cao chính nghĩa sáng ngời của Cách mạng tháng Tám – cuộc đấu
tranh chống phát xít giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Đồng thời với việc bác bỏ lí lẽ của kẻ thù và khẳng định quyền tự do, độc
lập chính đáng của dân tộc ta, bản Tun ngơn cịn nêu rõ chính nghĩa sáng
ngời của cuộc Cách mạng tháng Tám và vị trí tiên phong của nhân dân Việt Nam
trong sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, giải phóng dân tộc. Vẫn
bằng những lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ và súc tích, những dẫn chứng thực tế xác
thực, hùng hồn, Hồ Chủ tịch vạch rõ, kể từ khi phát xít Nhật nhảy vào Đơng
Dương, trong khi thực dân Pháp là kẻ phản bội Đồng minh, đầu hàng phát xít
Nhật thì nhân dân Việt Nam đã ln dũng cảm đứng về phía Đồng minh chống
phát xít và cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 chính là cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc có chính nghĩa ngời sáng. Nhân dân ta đã giành được độc lập từ
chính trong sự nghiệp đấu tranh anh dũng đó: Trước ngày 9 tháng 3, biết bao
lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân
Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa… Vậy là,
giữa Việt Nam và thực dân Pháp, ai có chính nghĩa, ai trung thành với Đồng
minh chống phát xít, ai phản bội lại Đồng minh tưởng đã quá rõ. Từ đó, bản
Tun ngơn có thể đi đến sự khẳng định đầy tính thuyết phục về quyền làm chủ
chân chính của nhân dân Việt Nam đối với toàn bộ non sơng đất nước của
mình, khẳng định vị trí xứng đáng của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế,
làm cho bọn đế quốc phải cứng họng. Bởi lẽ, các nước Đồng minh đã cơng
nhận những ngun tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu
Kim Sơn quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nơ lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc
đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó
phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Đó cũng đồng thời vừa là cơ
sở pháp lí vừa là chính nghĩa sáng ngời về nền độc lập của Việt Nam trong cơng
cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 mà chính bọn đế quốc cũng phải thừa
nhận. Do vậy mà sau này, khi muốn treo một chiêu bài hòng xâm lược nước ta,
chúng đành chỉ còn một cách là già mồm vu khống chứ khơng thể tìm ra được
một luận cứ ra trị, dù chỉ là hình thức.
Tun ngơn về nền độc lập của Việt Nam.
Nội dung của lời tuyên ngôn là tuyên bố về nền độc lập của Việt Nam và
nêu rõ ý chí sắt đá của tồn thể nhân dân Việt Nam quyết tâm bảo vệ, gìn giữ
nền độc lập mới giành được: Vì những lẽ trên, chúng tơi, Chính phủ Lâm thời
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập (…). Tồn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy. Với cách diễn đạt rõ ràng, đanh thép, lời tun ngơn
đã thâu tóm được tinh thần, tư tưởng và khát vọng độc lập cháy bỏng của
nhân dân ta thể hiện trong toàn bộ tác phẩm.
Tuyên ngôn độc lập quả là một tác phẩm không những có giá trị lịch sử
vơ cùng to lớn mà cịn có thể coi là một áng thiên cổ hùng văn trong nền văn
học nước nhà. Nét độc đáo và hấp dẫn của bản Tuyên ngôn không chỉ ở hệ
thống lập luận chặt chẽ, sắc sảo, ở những lí lẽ đanh thép và những chứng cớ
xác thực, hùng hồn, không ai bắt bẻ được mà còn ở chỗ, đằng sau nó là tầm tư
tưởng vĩ đại của một trí tuệ lớn và một nhân cách văn hóa lớn có thể đúc kết
một cách ngắn gọn mà sâu sắc, khúc chiết về chân lí và kinh nghiệm đấu tranh
của nhân loại bao nhiêu thế kỉ đối với nền độc lập tự do của nước nhà trong
cuộc Cách mạng tháng Tám…