MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................4
NỘI DUNG...................................................................................................................6
I.
CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN.............................................................................6
1.
Khái niệm tư tưởng............................................................................................6
2.
Khái niệm TTHCM...........................................................................................6
II.
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TTHCM......................................................................7
1.
Cơ sở khách quan..............................................................................................7
1.1.
Bối cảnh lịch sử hình thành TTHCM...............................................................7
1.2.
Những tiền đề tư tưởng - lí luận......................................................................13
2.
Nhân tố chủ quan.............................................................................................18
3.
Đánh giá cơ sở hình thành TTHCM...............................................................19
III. NGUỒN GỐC QUYẾT ĐỊNH BẢN CHẤT CÁCH MẠNG VÀ KHOA HỌC
CỦA TTHCM.............................................................................................................19
1.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, của các đảng cộng sản và công nhân trong đấu tranh xóa bỏ
mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa .......19
2.
Q trình tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh: từ những nhận thức ban đầu đi
lên nhận thức lí tính...................................................................................................20
3.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại"..........22
4.
Sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam......................24
KẾT LUẬN.................................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................29
1
LỜI MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam ta đã từng trải qua biết bao trận đổ máu, áp bức bóc lột tàn ác
của thế lực kẻ thù, giặc ngoại xâm. Đã từng bao người anh hùng đứng lên lãnh đạo,
tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị, nhưng đều thất bại. Việt
Nam lúc bấy giờ tưởng chừng mãi mãi chỉ là thuộc địa, nô lệ khi bao giờ “ngoi ngóc”
khỏi bọn thực dân phong kiến. Thế rồi chúng ta đã được sống trong hồ bình, được
độc lập tự do như ngày hôm nay, thật tự hào khi nhớ đến Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị
lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta đã có cơng lao vô cùng to lớn. Người đã vạch ra con
đường đúng đắn, Người không chỉ khai thông bế tắc trong đường lối giải phóng dân
tộc, mà cịn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề
trọng yếu nhất của Cách mạng nước ta. Chính đường lối Cách mạng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Người đã tạo nên sức mạnh tổng hợp và phát huy tác
dụng, đưa tới những thắng lợi rực rỡ của cách mạng nước ta.
Dưới ánh sáng Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã hoàn thành sự
nghiệp Cách mạng dân tộc, dân chủ. Đảng cộng sản Việt Nam, từ đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ II (1951) đã ln khẳng định vai trị, ý nghĩa, tác dụng của đường lối
chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách,... Hồ Chí Minh đối với cách
mạng Việt Nam.
Sau gần 30 năm đổi mới, nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thế và
lực được nâng cao. Tuy nhiên những thành tựu đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng. Chính vì thế, tồn Đảng, tồn dân cần tiếp tục nghiên cứu và quán triệt sâu sắc,
vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh, ln kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền dựng nước và giữ nước, thực hiện chính sách đối ngoại
hồ bình, tự chủ, hợp tác và phát triển, góp phần hình thành một trật tự thế giới mới
cơng bằng và bình đẳng...
Để có thể vận dụng đúng đắn Tư tưởng Hồ Chí Minh vào cơng cuộc đổi mới và
phát triển đất nước thì chúng ta cần phải hiểu rõ Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì và cơ sở
hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh như thế nào? Và nguồn gốc nào quyết định bản chất
Cách mạng và Khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh?
2
NỘI DUNG
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TTHCM
I.
1. Các khái niệm cơ bản
I.1.
Khái niệm tư tưởng
Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của con
người với thế giới chung quanh. Là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận
điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan và phương pháp luận)
nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình
thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn nhất định và
trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực
I.2.
Khái niệm TTHCM
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa
dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh
khơng phải là một tập hợp đơn giản những ý tưởng, những suy nghĩ cụ thể của Hồ Chí
Minh trong những hồn cảnh cụ thể, mà là một hệ thống những quan điểm, quan niệm
về con đường cách mạng Việt Nam được hình thành trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống văn hoá, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hoá nhân
loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
3
2. Cơ sở khách quan
2.1 Bối cảnh lịch sử hình thành TTHCM
Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX: Đây là thời kì Việt Nam
khủng hoảng về đường lối cứu nước
- Việt Nam từ một nước phong kiến trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến:
Đêm 31/8/1858, thực dân Pháp lần đầu nổ súng xâm lược Việt Nam. Tháng
6/1884, triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt, thừa nhận thừa nhận và chấp
nhận nền bảo hộ của nước Pháp. Nước Pháp sẽ thay mặt nước An Nam trong mọi quan
hệ đối ngoại. Người An Nam sống ở nước ngoài sẽ đặt dưới sự bảo hộ của nước Pháp,
từ đó Pháp thiết lập sự thống trị ở tồn Việt Nam.
+ Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương.
Chúng dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp,
khủng bố mọi sự chống đối; dùng chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành ba kỳ với
ba chế độ thống trị khác nhau. Thực dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn
và giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân
dân ta mất nước trở thành nơ lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vơ cùng khổ cực.
+ Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần
thứ nhất (1897 - 1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó lấy Việt
Nam là trọng điểm.
Tư bản Pháp bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập các đồn điền cao su, cà
phê, chè...) và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sắt, thiếc, vàng...) để thu lợi nhuận
nhiều và nhanh. Tư bản Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường sắt,
phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến; độc quyền ngoại thương. Ngân hàng Đơng
Dương của Pháp độc quyền tài chính, đặt ra hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế
thân; thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi.
Kết quả là nền kinh tế nước ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản
chủ nghĩa nhưng là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp.
+ Về văn hoá, thực dân Pháp thực hiện chính sách nơ dịch văn hố; xố bỏ hệ
thống giáo dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Pháp mở nhà
tù, trại giam nhiều hơn trường học; khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ
bạc, rượu chè, hạn chế xuất bản sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc.
Kết quả là hơn 90% nhân dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thơng tin tiến bộ từ
4
bên ngoài.
- Các mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam ngày càng gay gắt:
+ Sự thay đối tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam:
Giai cấp địa chủ, đa số là địa chủ nhỏ và vừa có tinh thần yêu nước, căm ghét,
vừa có tinh thần dân tộc chống Pháp, số đại địa chủ, tay sai, chỗ dựa của thực dân
Pháp là đối tượng của cách mạng.
Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, bị đế quốc, địa chủ, phong kiến bóc
lột, cuộc sống cực khổ nên rất tích cực chống đế quốc và phong kiến.
Tầng lớp tiểu tư sản gồm người buôn bán nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh, sinh
viên... phát triển khá nhanh. Họ nhạy cảm trước thời cuộc, đời sống rất bấp bênh nên
hăng hái đấu tranh và là lực lượng quan trọng của cách mạng.
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của
thực dân Pháp. Một bộ phận tư sản mại bản có quyền lợi gắn với Pháp, trở thành tay
sai của chúng. Bộ phận tư sản còn lại, thế lực kinh tế nhỏ bé, bị tư sản nước ngoài chèn
ép nên có tinh thần dân tộc, dân chủ, có thể đi với cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
của thực dân Pháp (1897 - 1914) và phát triển khá nhanh. Năm 1914 khoảng 10 vạn,
đến năm 1929 tăng lên 22 vạn. Giai cấp công nhân Việt Nam tuy số lượng ít, ra đời
muộn so với cơng nhân nhiều nước nhưng mang đầy đủ đặc điểm chung của giai cấp
cơng nhân quốc tế là có tính chất tiên tiến, triệt để cách mạng, tính kỷ luật và tính chất
quốc tế, cùng với được tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin
=> Trở thành lực lượng các mạng độc lập, có tư duy tiến bộ
=> Trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng sau này.
Trong xã hội Việt Nam nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản thứ
nhất đồng thời là mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp. Mâu thuẫn cơ bản thứ hai giữa nhân dân Việt Nam, đa số là nông dân
với địa chủ phong kiến.
Hai mâu thuẫn này gắn bó, tác động lẫn nhau đòi hỏi đồng thời giải quyết. Độc
lập dân tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam nhưng
độc lập dân tộc là yêu cầu cơ bản, chủ yếu nhất vì phản ánh nguyện vọng bức thiết của
cả dân tộc Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.
-
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc dấy lên mạnh mẽ nhưng đều thất bại
5
+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến:
Tiêu biểu nhất là phong trào cần Vương do vua Hàm Nghi phát động. Phong
trào cần Vương diễn ra từ năm 1885 đến năm 1896 với hàng loạt các cuộc khởi nghĩa
vũ trang.
Nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo
(1885 - 1896); cuộc khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành và Đinh Cơng Tráng tổ chức
(1885 - 1886); cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật đứng đầu (1885 1892). Kéo dài và quyết liệt nhất là phong trào nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa
Thám lãnh đạo (1884 - 1913)...
Các cuộc khởi nghĩa vũ trang đó tiếp tục khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí
bất khuất chống xâm lược của dân tộc ta và làm cho thực dân Pháp tổn thất nặng nề,
không ổn định thống trị hàng chục năm trời.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh
hướng phong kiến do thiếu đường lối đúng đắn. Giai cấp phong kiến đã không đủ sức
lãnh đạo phong trào yêu nước Việt Nam đi đến thành công.
+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản:
Đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng các cuộc cách mạng tư sản bên ngoài, phong
trào yêu nước Việt Nam diễn ra sơi nổi theo hai khuynh hướng chính:
Khuynh hướng bạo động vũ trang do Phan Bội Châu lãnh đạo. Ơng tổ chức
phong trào Đơng Du (1906 - 1908) chủ trương nhờ Nhật Bản giúp đỡ. Phong trào du
học diễn ra gần hai năm, Pháp - Nhật Bản thoả hiệp trục xuất Phan Bội Châu và du học
sinh Việt Nam. Phong trào Đông Du thất bại.
Sau khi cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) thắng lợi, Phan Bội Châu về
Trung Quốc thành lập Việt Nam Quang phục Hội, chủ trương vũ trang chống Pháp ở
trong nước, khôi phục độc lập dân tộc.
Khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh (1782 - 1926) tổ chức.
Những năm 1906 - 1908, ông chủ trương cải cách dân chủ nâng cao dân trí, cổ vũ tinh
thần, cải thiện đời sống nhân dân bằng con đường bất bạo động, công khai khai hố cải
cách, chấn hưng văn hóa, cơng nghệ, chống mê tín dị đoan.
Các phong trào khác như phong trào dạy học theo lối mới ở Trường Đông Kinh
Nghĩa Thục, Hà Nội (1907); phong trào biểu tình chống thuế ở Trung Kỳ (1908);
phong trào đấu tranh của Đảng Lập Hiến (1923), Đảng Thanh Niên (1926). Mạnh mẽ
6
nhất là phong trào của Việt Nam quốc dân Đảng (1929- 1930).
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản phản ánh tinh thần
dân tộc của một bộ phận trí thức, tư sản Việt Nam nhưng tất cả đều thất bại. Nguyên
nhân thất bại chính là do thiếu đường lối đúng đắn. Địa vị kinh tế, chính trị non yếu
của giai cấp tư sản Việt Nam đã không đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Kết quả, các cuộc kháng chiến của ta đều bị dập tắt trong bể máu, các cuộc
kháng chiến thất bại chủ yếu do kháng chiến nổ ra cịn mang tính tự phát, thiếu đường
lối đúng đắn, thiếu sự lãnh đạo.
Đây là thời kì Việt Nam chìm trong khủng hoảng, khơng có đường lối cứu
nước, nhân dân bị áp bức bóc lột một cách nặng nề, triều đình nhà Nguyễn nhu nhược
đầu hàng Pháp.
Ngày 5/6/1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành với hai bàn tay
trắng quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc.
Bối cảnh thời đại
- Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, trở thành kẻ thù
chung của dân tộc thuộc địa và giai cấp công nhân thế giới
+ Nguyên nhân
Do tiến bộ của khoa học - kĩ thuật sản xuất công nghiệp của các nước
Âu-Mĩ tăng nhanh dẫn đến tích tụ tư bản. Đây là thời kỳ "Cá lớn nuốt cá bé".
Các ngành kinh tế chuyển từ tự do cạnh tranh sang tổ chức độc quyền
dưới nhiều hình thức: Các-ten, Xanh-đi-ca, Tờ-rớt.
+ Xuất hiện nhiều mâu thuẫn:
Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trong việc tranh chấp thuộc địa gay
gắt dẫn đến các cuộc chiến tranh để phân chia thuộc địa.
Mâu thuẫn giữa nhân dân thuộc địa với đế quốc; giữa giai cấp tư sản với
nhân dân lao động giữa các nước tư bản.
Mâu thuẫn trên đã dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
+ Các nước đế quốc luôn mâu thuẫn gay gắt với nhau.
Các cường quốc đế quốc đấu tranh với nhau để phân chia và phân chia
lại lãnh thổ thế giới.
Từ sau năm 1880, những cuộc xâm chiếm thuộc địa bắt đầu phát triển
7
mạnh.
Đến cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, các nước đế quốc đã hoàn thành phân
chia lãnh thổ thế giới và bước vào đấu tranh gay gắt để phân chia lại.
Cụ thể: Năm 1914: 6 đế quốc gồm Anh, Nga, Pháp, Đức, Mĩ, Nhật
chiếm 65 triệu Km2 thuộc địa với 523,4 triệu dân. Số dân thuộc địa Anh gấp 12 lần
thuộc địa Nga, bằng 7 lần của Pháp. Pháp nhiều hơn số dân thuộc địa của 3 nước Đức,
Mĩ, Nhật cộng lại.
Các cường quốc đấu tranh để phân chia lại lãnh thổ thế giới.
- Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga mở ra thời đại cách mạng chống đế
quốc, giải phóng dân tộc
Cách mạng Tháng Mười Nga là một sự kiện lịch sử đánh dấu sự ra đời của nhà
nước Nga Xô viết. Cách mạng Tháng Mười nổ ra vào ngày 24 tháng 10 năm 1917
(theo lịch Julius), do Vladimir Ilyich Lenin và Ðảng Bolshevik lãnh đạo
Ngay sau khi cách mạng vừa thắng lợi, ngày 2/11/1917 (theo lịch Nga cũ),
Chính phủ Xơ viết đã tun bố bản Tun ngôn về quyền của các dân tộc nước Nga,
tuyên bố khẳng định những nguyên tắc căn bản của Chính quyền Xô viết đối với các
vấn đề dân tộc, khẳng định quyền bình đẳng của các dân tộc và cho phép các dân tộc
có quyền tự quyết.
+ Bình đẳng và chủ quyền của các dân tộc.
+ Quyền của các dân tộc nước Nga được tự quyết một cách tự do.
+ Xóa bỏ tất cả các đặc quyền và hạn chế về dân tộc và tôn giáo – dân tộc.
+ Các dân tộc thiểu số và các nhóm dân chúng sống trên lãnh thổ Nga được phát
triển tự do.
Với những người cộng sản và các phong trào giải phóng dân tộc chịu ảnh hưởng
của cuộc cách mạng này, Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, do giai cấp vô sản tiến hành, thắng lợi của cuộc cách mạng đã hình thành nhà
nước chun chính vơ sản đầu tiên trên thế giới, đưa nước Nga đi theo con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Mười đã giải phóng các dân tộc thiểu số trên
Đế quốc Nga khỏi thân phận phụ thuộc, bị chế độ Sa hồng áp bức, bóc lột. Sau cuộc
cách mạng này, hàng loạt nhà nước của các dân tộc bị áp bức trên lãnh thổ nước Nga
ra đời. Ngoài ra, Cách mạng Tháng Mười Nga còn cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân quốc tế và nhân dân các nước thuộc địa, mở ra con đường
8
cải biến chủ nghĩa tư bản và giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Trên phạm vi thế giới, Cách mạng Tháng Mười là một trong những sự kiện có
ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ XX. Nó đánh dấu việc ra đời của Nhà nước Liên Xô,
một nhà nước ủng hộ cơng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa.
Vào thời bấy giờ, hầu hết các nước châu Á, châu Phi đều bị các nước thực dân phương
Tây xâm chiếm và biến thành thuộc địa. Trong suốt hàng trăm năm, các phong trào đòi
độc lập ở các nước này đều bị dập tắt do trang bị thơ sơ, lại khơng có lực lượng quốc
tế nào ủng hộ. Sau khi ra đời, Liên Xô đã hỗ trợ rất nhiều về vật chất và ngoại giao để
giúp các nước này giành độc lập. Nhiều nước ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La
-tinh vùng lên đấu tranh đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đến những năm
1970 thì hệ thống thuộc địa của thực dân phương Tây đã bị tan rã sau 300 năm tồn tại.
Năm 1927, trong cuốn sách sách giáo khoa lý luận chính trị đầu tiên của cách
mạng Việt Nam - "Đường kách mệnh", nhà cách mạng Việt Nam Nguyễn Ái
Quốc (1890 - 1969) giới thiệu tính chất và kinh nghiệm những cuộc cách mạng đã diễn
ra trong lịch sử thế giới. Đặc biệt, đối với cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, ơng coi
đó là con đường giải phóng cho dân tộc khỏi ách thực dân:
Chỉ có đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười - con đường duy nhất đúng
đắn - Cách mạng Việt Nam mới giành được độc lập, tự do thực sự... Cách mệnh Nga
dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành cơng thì phải lấy dân chúng (cơng
nơng) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
Năm mươi năm sau cuộc Cách mạng Tháng Mười, Hồ Chí Minh nhớ lại:
“ Càng nhớ lại những ngày tủi nhục mất nước, nhớ lại mỗi bước đường đấu tranh
cách mạng đầy hy sinh gian khổ mà cũng đầy thắng lợi vẻ vang thì giai cấp cơng
nhân và nhân dân Việt Nam càng thấm thía cơng ơn to lớn của Lê-nin và Cách mạng
Tháng Mười”
Với việc Cách mạng Tháng 10 nổ ra và sự thành lập Nhà nước Xô viết, lịch sử
thế giới lần đầu tiên xuất hiện một kiểu Nhà nước mới, cùng những chính sách hướng
đến lợi ích của người lao động và cơng bằng xã hội: quyền bình đẳng của phụ nữ, cấm
phân biệt chủng tộc, quyền làm việc 8 giờ/ngày, chống sa thải lao động vô cớ, trợ cấp
cho người già và người tàn tật, giáo dục và y tế miễn phí... Đây là những chính sách
mà các nước phương Tây cùng thời kỳ chưa hề có. Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước
Xô viết đã tạo ra áp lực khiến các nước tư bản phương Tây tư bản phải tự cải cách, mở
9
rộng các quyền lợi của người lao động và phúc lợi xã hội. Ngày nay, nhiều chính sách
của Nhà nước Xô viết đã được các nhà nước hiện đại tiếp thu, trở thành giá trị phổ
quát ngay cả ở các nước phương Tây vốn từng muốn dập tắt cuộc Cách mạng.
- Sự ra đời của quốc tế cộng sản gắn kết với phong trào cơng nhân với phong
trào giải phóng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung
+ Quốc tế cộng sản định hướng cho Việt Nam con đường cứu nước giải phóng
dân tộc.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho truyền bá chủ nghĩa Mác-lênin vào phong trào
công nhân và phong trào yêu nước của Việt Nam.
+ Quốc tế cộng sản tạo điều kiện thuận lợi và môi trường cho Nguyễn Ái Quốc
nghiên cứu, khảo sát thực tế chủ nghĩa Mác-lênin và vận dụng vào cách mạng Việt
Nam.
+ Quốc tế cộng sản đào tạo nhiều cán bộ nòng cốt của Đảng, những người nắm
giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng.
2.2.
Những tiền đề tư tưởng - lí luận
Giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam: Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời
đã hình thành nên những giá trị truyền thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc
Việt Nam
- Tinh thần yêu nước:
Được thể hiện thông qua các cuộc kháng chiến bền bỉ và liên tục trong hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước, nó đã trở thành giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Là tư tưởng, tình cảm cao quý và thiếng liêng nhất, cội nguồn của trí tuệ
sáng tạo và lòng dũng cảm của người Việt Nam cũng là chuẩn mực đạo đức cơ bản của
dân tộc.
- Ý chí quật cường, đấu tranh bất khuất:
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt nam đã bị biết bao
thế lực ln nhăm nhe nhịm ngó, nhưng nhân dân ta vẫn kiên cường bất chấp đứng
lên để bảo về độc lập dân tộc, cái giá phải trả cho sự kiên cường này chính bằng máu
và nước mắt của biết bao con người Việt Nam đã ngã xuống, những cuộc khởi nghĩa bị
dìm trong bể máu. Tuy nhiên ý chí kiên cường bất khuất khơng chịu áp bức bóc lột
Việt Nam đã tạo động lực mạnh mẽ giúp nhân dân ta đứng lên khởi nghĩa giành lại
chính quyền giải phóng đất nước khỏi ách đơ hộ ngoại xâm.
10
- Tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái
Trong các giá trị truyền thống Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống
đoàn kết, tương thân, tương ái là những nét hết sức đặc sắc. Truyền thống này hình
thành một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hồn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt
với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Người Việt Nam gắn bó với nhau trong tình làng,
nghĩa xóm. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình,
đồng sức, đồng lòng, đồng minh). Người thường nhấn mạnh, nhân dân ta đã từ lâu
sống với nhau có tình có nghĩa. Tình nghĩa ấy được Người nâng lên cao đẹp hơn, trở
thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Ngay cả
khi tiếp thu lý luận Mác-Lênin đỉnh cao của trí tuệ nhân loại cũng phải trên nền tảng
của giá trị truyền thống. Người nhấn mạnh: Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống
với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu kinh sách mà sống khơng có tình
nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được…Tư tưởng đại nhân, đại nghĩa ở
Hồ Chí Minh là phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của con
người, là cứu nước, độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, tạo mọi điều kiện cho con
người phát triển. Trong văn hóa đạo đức Việt Nam, chữ “Nghĩa” có ý nghĩa là lẽ phải,
ngay thẳng. Nguyễn Trãi đã từng nói: Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc,
nên “công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”, Hồ Chí Minh lấy chữ nghĩa để phân rõ bạn
thù. Ai làm điều gì có lợi cho nhân dân, cho Tổ quốc đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì
có hại cho nhân dân và Tổ quốc đều là kẻ thù.
- Ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn và thử thách
Trước hết đó là chủ nghĩa u nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước
và giữ nước. Đây là một trong những tài sản có giá trị nhất trong hành trang của Hồ
Chí Minh lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Nó là cơ sở xuất phát, là động lực,
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam đã có q trình lịch sử hàng ngàn năm với nội dung phong phú và sâu
sắc như: yêu nước gắn liền với yêu quê hương, yêu con người Việt Nam, yêu truyền
thống văn hóa quý giá. Thời kỳ phong kiến, yêu nước có nội dung trung quân ái quốc,
lợi ích giai cấp thống trị phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động trong sự nghiệp
chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.
- Thông minh, sáng tạo, khiêm tốn tiếp thu văn hóa nhận loại
Tinh hoa văn hóa nhận loại: Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa
11
phương Đông với các thành tựu hiện đại của văn minh phương Tây - đó chính là nét
đặc sắc trong q trình hình thành tư tưởng, nhân cách, văn hóa Hồ Chí Minh
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, với tư chất thơng minh tuyệt vời, từ
nhỏ, Hồ Chí Minh đã được giáo dục Hán học và đã tiếp thu nền văn hóa phương Tây
tại trường Quốc học Huế. Khi bôn ba khắp năm châu, bốn bể, Người vừa hoạt động
cách mạng, vừa học hỏi không ngừng. Người đã thông thạo các ngôn ngữ tiêu biểu cho
nền văn minh của nhân loại, am tường các nền văn hóa Đơng, Tây, kim, cổ. Khi tiếp
thu các nền văn hóa, Người bao giờ cũng phân tích các yếu tố giá trị tồn nhân loại và
vĩnh cửu. Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng tinh thần văn hóa nhân loại. Người
là tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa giữa các nền văn hóa và tỏa ra một nền văn hóa
của tương lai.
- Tinh hoa văn hóa phương Đơng
+ Tư tưởng nho giáo
Tiếp thu văn hóa phương Đơng, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá
đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai
thác những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo.
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó
là trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp,
khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh lợi…Tuy
nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó và khun chúng ta
“nên học”. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra
truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về
điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ
trương ngu dân để dễ cai trị.
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để
phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
+ Tư tưởng phật giáo
Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái,
độ lượng, khoan dung - những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật.
Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như
thể thương thân - một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người mà dành cho cả
chim muông, cây cỏ.
12
Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện.
Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân
biệt đẳng cấp.
Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất nhật bất tác, nhất
nhật bất thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn), đề cao lao động, chống lười
biếng. Cuối cùng, Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu
tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên Thiền phái Trúc
lâm Việt Nam, chủ trương sống không xa rời, lẩn tránh mà gắn bó với đời sống của
nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân,
chống kẻ thù dân tộc.
Như thế, có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam đã đi vào đời sống
tinh thần dân tộc và nhân dân lao động. Gia đình Bác Hồ là gia đình nhà nho nghèo,
gần gũi với nơng dân, cũng thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
+ Chủ nghĩa tam dân của Tơn Trung Sơn
Ngồi ra, cịn có thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác nữa về các nhà tư tưởng
phương Đông như Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử…trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí
Minh. Cũng như sau này, khi đã trở thành người mác-xít, Nguyễn Ái Quốc vẫn tìm
hiểu thêm về Chủ nghĩa Tam dân của Tơn Trung Sơn và tìm thấy trong đó “những điều
thích hợp với điều kiện nước ta”. Các tiêu chí của chủ nghĩa Tam dân là dân tộc - độc
lập; dân quyền - tự do; dân sinh - hạnh phúc đã được Hồ Chí Minh rút gọn trong quốc
hiệu của Việt Nam “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Là người mác-xít tỉnh táo và sáng
suốt, Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa
phương Đơng để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng nước ta. Chủ nghĩa tam dân (dân
tộc, dân quyền, dân sinh) của Tôn Trung Sơn là một học thuyết nằm trong phạm trù
cách mạng tư sản khi phong trào duy tân nổi lên ở Nhật Bản, Trung Quốc và Việt
Nam. Ở Việt Nam, do ảnh hưởng chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, học thuyết
dân quyền với những nội dung dân sinh, dân trí, dân khí đã được các nhà ái quốc trong
phong trào Duy Tân đề xướng. Hồ Chí Minh ngưỡng mộ Tơn Dật Tiên không chỉ ở
chủ thuyết dân tộc, dân quyền, dân sinh, mà cịn tìm hiểu chủ trương "Liên Nga, liên
cộng, phù trợ công” này của ông. Tôn Dật Tiên đã phê phán đạo đức học của Hán và
Tống Nho, đồng thời xây dựng lý tưởng đạo đức thiên hạ vị công.
13
Sự gặp gỡ giữa tư tưởng của Tôn Trung Sơn với Hồ Chí Minh là gặp ở quan
điểm về chủ nghĩa dân tộc. Trong chủ nghĩa tam dân, Tôn Trung Sơn quan tâm sâu sắc
đến quyền lợi dân tộc. Ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh cũng đã nhận định: "Chủ
nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Cùng với chủ nghĩa dân tộc, Người
cũng rất quan tâm tới xây dựng một nền đạo đức mới vượt qua học thuyết đạo đức của
Khổng Tử. Song, trong tư tưởng của Người, chủ nghĩa dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa quốc tế. Người viết: "Khi chủ nghĩa dân tộc… thắng lợi, thì… nhất định chủ
nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”
Hồ Chí Minh đã nói tới độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào, hạnh phúc cho
nhân dân. Ở Người, đặc điểm nổi bật là tin tưởng sắt đá vào sức mạnh của nhân dân.
Phạm trù nhân dân đã tạo nên sức sống và sự sáng tạo to lớn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Người viết: "Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng
gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Tin tưởng vào sức mạnh của nhân
dân với ý nghĩa nhân dân là người có thể cách mạng tới cùng thì khơng thể giống với
tư tưởng dân sinh của Tôn Văn.
- Tinh hoa văn hóa phương Tây
+ Tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của các nhà khai sáng Pháp
Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở NewYork, làm thuê và
thường đến thăm khu ở của người da đen. Trong các bài viết sau này, Người thường
nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con người được ghi
lại trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Người đã tiếp thu giá trị của tư tưởng
nhân quyền với nội dung là quyền tự do cá nhân thiêng liêng trong bản tuyên ngôn
này. Sau này Người đã phát triển nó thành quyền sống, quyền độc lập, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả các dân tộc. Nội dung nhân quyền được Người
nâng lên một tầm cỡ mới trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam năm 1945.
Cuối năm 1917, Người từ Anh sang Pháp và quyết định sống và hoạt động ở thủ
đơ nước Pháp có ý nghĩa lịch sử rất lớn, mở ra một thời kỳ mới trong cuộc đời mình.
Là thủ đơ của nước Pháp, Pari cũng đồng thời là trung tâm văn hóa - nghệ thuật
của châu Âu. Các trào lưu triết học và các trường phái nghệ thuật nổi tiếng thế giới
phần lớn đều được hình thành và ra mắt tại đây. Sống ở giữa nơi hợp lưu của các dịng
văn hóa thế giới, Người đã có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri
thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ của nước Pháp.
14
Đến với quê hương của lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, Hồ Chí Minh được
tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng: Von-te, Rút-xô, Môngtét-xki-ơ,…những lý luận gia của đại cách mạng Pháp 1789, như Tinh thần pháp luật
của Mông-tét-xki-ơ, Khế ước xã hội của Rút-xô, v.v…tư tưởng dân chủ của các nhà
khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của Người. Ngồi ra, Người cịn hấp thụ được
tư tưởng dân chủ và hình thành được phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống
thực tiễn. Rõ ràng là, ở Pháp, Người đã có thể hoạt động và đấu tranh cách mạng một
cách tương đối tự do, thuận lợi hơn ở trên đất nước mình, dưới chế độ thuộc địa.
Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dìu dắt trực
tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp như M. Ca-sanh, P.V. Cu-tuyari-ê, G. Mơng-mút-xơ…mà Hồ Chí Minh đã từng bước trưởng thành. Con người ấy,
trên hành trình cứu nước, đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại,
Đông và Tây, vừa thâu thái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà
suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.
- Bên cạnh đó, Người cũng tiếp thu giá trị của bản Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của đại cách mạng Pháp, các giá trị về quyền sống, quyền tự mưu cầu hạnh
phúc của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776.
Tiếp thu những tư tưởng tiến bộ trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới này,
Sau này trong bản Tuyên ngộn độc lập năm 1945, Người cũng sử dụng chính những lí
lẽ của Mỹ - Pháp trong hai bản tuyên ngôn này để chứng minh rằng: dân tộc Việt Nam
cũng có quyền được độc lập tự do, có quyền bình đẳng như người Pháp và Mỹ.
3. Nhân tố chủ quan
Chủ quan là hoạt động của con người nói chung, của những tập đoàn xã hội, giai
cấp, đảng phái và của từng con người. Nó xuất phát từ bản thân mỗi chủ thể, là điều
kiện tiên quyết trong mỗi hành động của con người. Yếu tố chủ quan trong hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm ở hai đặc điểm chính.
Khả năng tư duy và trí tuệ HCM
Trong suốt những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới để
học tập, nghiên cứu, Người không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong phú
thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình thành nên những cơ sở quan trọng để tạo
dựng nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người về sau. Hồ
Chí Minh khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và các cuộc đấu
15
tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, đem lý luận
chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nhờ đó mà lý luận
Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học.
Phẩm chất đạo đức, năng lực hoạt động thực tiễn
Biểu hiện trước hết là ở tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán
tinh tường, sáng suốt. Là Người có bản lĩnh kiên định, ln tin vào nhân dân, khiêm tốn
bình dị; nhạy bén với cái mới, có đầu óc thực tiễn. Người ln khổ cơng học tập để chiếm
lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hịa của những điều kiện
khách quan và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân
loại. Từ thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hóa sắc sảo,
tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành
kim chỉ nam trong mọi hành động, là tư tưởng Việt Nam hiện đại.
4. Đánh giá cơ sở hình thành TTHCM
Nếu như khơng có giá trị truyền thống dân tộc thì HCM sẽ khơng có nền tảng để
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong những tiền đề tư tưởng lí luận, tiền đề giá trị
dân tộc là tiền đề gốc, đầu tiên; Tinh hoa văn hóa nhân loại là tiền đề quan trọng để
làm nên tư duy của HCM; Trong giá trị nhân loại đó thì chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vai
trị quyết định.
II. NGUỒN GỐC QUYẾT ĐỊNH BẢN CHẤT CÁCH MẠNG VÀ KHOA
HỌC CỦA TTHCM
Có 4 nguồn gốc tạo nên con người HCM đó là giá trị dân tộc, tinh hoa văn hóa
nhân loại và phẩm chất cá nhân. Trong 4 nguồn gốc này thì chủ nghĩa Mác – Lênin là
nguồn gốc quyết định bản chất cách mạng và khoa học của TTHCM.
1.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới
quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, của các đảng cộng sản và cơng nhân trong đấu tranh
xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
- Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối với
Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng có nghĩa là đến với con đường cách mạng
16
vơ sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân chính, triệt để:
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vơ sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc;
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách
mạng thế giới".
- Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có
bước nhảy vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp
dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa yêu nước
lên một trình độ mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
- Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln khẳng định: Chủ
nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất,
"muốn cách mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ nghĩa MácLênin". Đối với Người, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận khoa học để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ xa
rời chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều và chủ
nghĩa xét lại.
- Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên nền tảng
những tri thức văn hóa tinh túy đã được chắt lọc, hấp thụ một vốn chính trị, hiểu biết
phong phú, tích lũy qua một thực tiến đấu tranh vì một mục tiêu cứu nước, giải phóng
dân tộc. Bản lĩnh trí tuệ đó đã nâng cao khả năng độc lập tự chủ sáng tạo ở Hồ Chí
Minh khi vận dụng những ngun lí cách mạng thời đại vào hồn cảnh, điều kiện cụ
thể ở Việt Nam.
2. Quá trình tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh: từ những nhận thức ban đầu đi
lên nhận thức lí tính
-
Thứ nhất, khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh với một vốn tri thức
chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo, Người đã nhận ra rằng, các phong trào yêu
nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tựu trung chỉ xoay quanh hai đường lối quân chủ
hay dân chủ, hai phương pháp cách mạng hay cải lương. Cả hai đường lối và hai
phương pháp ấy đều không thỏa mãn được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện
chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một lực lượng quốc tế.
Trong 10 năm đầu (1911-1920) của q trình bơn ba tìm đường cứu
nước, Người đã hồn thiện cho mình một vốn văn hóa, chính trị và vốn sống thực tiễn
17
phong phú, tạo thành một bản lĩnh trí tuệ mà không một nhà cách mạng trẻ tuổi Việt
Nam nào vào thời ấy có thể so sánh được. Cái bản lĩnh ấy đã giúp Người tiếp thu, vận
dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam một cách trung thành mà khơng
sao chép.
- Thứ hai, khác với các nhà trí thức tư sản phương Tây, khi đến với Chủ nghĩa
Mác-Lênin là đến với một học thuyết nhằm giải quyết những vấn đề về tư duy hơn là
hành động, Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin là để tìm kim chỉ nam cho
sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Người tâm sự “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ cách
mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tơi kính yêu Lênin vì Lênin là một
người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình. Tơi tham gia Đảng Xã hội Pháp
là vì các “ơng bà” ấy đã đồng tình với tơi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp
bức. Cịn như Đảng là gì, cơng đồn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì
thì tơi chưa hiểu. Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa
cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III.”
Tác phẩm của Lênin, “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” đã chỉ rõ
mối quan hệ gắn bó, thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản với sự
nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Nhờ nó, Người đã tìm thấy “con đường giải
phóng của chúng ta” và từ Lênin, Người đã trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn.
- Thứ ba, khi đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã tiếp thu phương pháp
nhận thức mac-xit, đồng thời theo lối “đắc ý, vong ngôn” của phương Đông. Người
vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù
hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ
khơng đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.
Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Chủ nghĩa Mác-Lênin, những
phạm trù của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của Chủ
nghĩa Mác-Lênin; đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh cịn là sự vận dụng sáng tạo, phát
triển và làm phong phú Chủ nghĩa Mác-Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên
giành độc lập, tự do và xây dựng xã hội mới.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là một nguồn gốc - nguồn gốc chủ yếu nhất,
của tư tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ - bộ phận cơ sở, nền tảng của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Khơng thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngồi hệ tư tưởng Mác Lênin, hay nói cách khác, khơng thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi nền tảng của nó
18
là chủ nghĩa Mác - Lênin. Cho nên, có thể nói, ở Việt Nam, giương cao tư tưởng Hồ
Chí Minh cũng là giương cao chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Muốn bảo vệ và quán triệt chủ
nghĩa Mác - Lênin một cách có hiệu quả, phải bảo vệ, quán triệt và giương cao tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đó là lịch sử mà cũng là lơ-gíc của vấn đề. Nó giúp chỉ ra sai lầm
của quan niệm đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại"
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự kế thừa,
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước,
tinh thần đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đơng và
phương Tây. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của mình đối với việc học tập, tiếp thu
những học thuyết của các lãnh tụ chính trị, xã hội, tơn giáo trong lịch sử. Người nói:
"Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có
ưu điểm là lịng nhân ái cao cả.”
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tơn
Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giê-su, C. Mác, Tơn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung
đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc cho lồi người, mưu hạnh phúc cho xã hội…"
Tơi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy".
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lênin, bắt nguồn
chủ yếu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng khơng hồn tồn đồng nhất với chủ nghĩa
Mác - Lênin, mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa truyền thống Việt
Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác - Lênin, trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Vậy sự vận dụng và phát triển sáng tạo đó như thế nào?
Ngay từ năm 1924, sau khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành một cán bộ
của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã vạch rõ sự khác
nhau giữa thực tiễn của các nước tư bản phát triển ở châu Âu mà C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lê-nin đã chỉ ra với thực tiễn Việt Nam - một nước thuộc địa, nửa phong
19
kiến, nơng nghiệp, lạc hậu ở phương Đơng. Do đó, cần bổ sung, phát triển chủ nghĩa
Mác về cơ sở lịch sử phương Đông. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ
gửi Quốc tế Cộng sản, Người viết: "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở
phương Tây... Dù sao thì cũng khơng thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa
Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình khơng thể có
được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử,
nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là tồn thể nhân
loại... Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học
phương Đơng. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô viết đảm nhiệm".
Việc tiếp thu, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh là
cả quá trình gắn với hoạt động thực tiễn, kết hợp lý luận với thực tiễn, xuất phát từ
những yêu cầu của thực tiễn. Người nhấn mạnh rằng, việc học tập, vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin, trước hết phải nắm vững "cái cốt lõi", "linh hồn sống" của nó là phương
pháp biện chứng; học tập "tinh thần, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ
nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết
cho tốt những vấn đề thực tế trong cơng tác cách mạng của chúng ta". Người cịn chỉ
rõ: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc
bao nhiêu sách mà sống khơng có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác Lênin".
Từ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận thể hiện tư duy độc lập, sáng tạo,
Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời của mình đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và tạo ra một hệ thống luận điểm mới, sáng
tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin nằm trong sự thống nhất hữu
cơ; cả hai đều là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân
ta. Chúng ta không thể lấy chủ nghĩa Mác - Lênin thay cho tư tưởng Hồ Chí Minh,
cũng như không thể hiểu và quán triệt, vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh nếu
khơng nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin.
20
4. Sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử
dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng
những vũ khí tư tưởng khác nhau. Tất cả các phong trào yêu nước mặc dù đã diễn ra
vô cùng anh dũng thế nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Vượt
qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà Cách mạng có xu hướng tư
sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa MácLênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vơ sản. Người đã vận dụng một cách sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam trong thời kì đấu tranh giải phóng
dân tộc cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị
Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về
cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở
Việt Nam.
C.Mác nghiên cứu CNTB trong điều kiện tự do cạnh tranh cho rằng: Cách mạng
vô sản sẽ nổ ra và giành thắng lợi ở những nước tư bản phát triển. Kế thừa và phát
triển lý luận của chủ nghĩa Mác trong thời đại CNTB chuyển sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, V.I.Lênin khẳng định: Cách mạng vơ sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một số
nước, thậm chí là một nước riêng lẻ của chủ nghĩa đế quốc (một mắt xích trong sợi dây
chuyền). Thời V.I.Lênin, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của
cách mạng vô sản và ông cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản ở chính quốc cần
phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa. Trên góc
độ của người thuộc địa, dân tộc bị áp bức, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc khơng cịn con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản.
Tuy nhiên, cuộc cách mạng vô sản ở đây không phải chỉ là cuộc đấu tranh giai
cấp mà là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân một
phạm trù của cách mạng vơ sản. Bởi vì mâu thuẫn chủ yếu của Việt Nam lúc bấy giờ là
mâu thuẩn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp. Điều này hồn tồn phù
hợp với tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Đây chính là sự vận dụng một
cách tài tình, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hồn cảnh cách mạng Việt Nam.
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách
21
mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc đề ra đường lối của cách
mạng Việt Nam.
Ngay trong Cương lĩnh 1930 do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo đã khẳng
định: Làm tư sản dân quyền, cách mạng và thổ địa cách mạng rồi đi tới xã hội cộng
sản. Điều đó có nghĩa là sau khi làm xong tư sản dân quyền cách mạng đánh đổ thực
dân Pháp xâm lược đem lại độc lập dân tộc. Làm thổ địa cách mạng là đánh đổ bọn
phong kiến, địa chủ đem lại ruộng đất cho dân cày (sau này cả hai cuộc cách mạng
cùng tiến hành song song ấy chúng ta gọi đó là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân) là đi lên CNXH tức là đi vào giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Đây là điều hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng không
ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc đề ra đường lối của cách mạng Việt Nam.
Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng liên minh
công - nông của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn tình hình của cách mạng Việt Nam.
Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nơng dân thì vấn đề giai cấp
cơng nhân liên minh với giai cấp nông dân là điều tất yếu. V.I.Lênin đặc biệt lưu ý
khối liên minh công, nông trong các giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội: "Ngun tắc
cao nhất của chun chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân
để giai cấp vơ sản có thể giữ được vai trị lãnh đạo và chính quyền nhà nước". Qua
khối liên minh này, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông dân, công nhân được
tập hợp về mục tiêu chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân
tộc. Đây là điều kiện để giai cấp cơng nhân giữ vai trị lãnh đạo, đó chính là tính tất
yếu về mặt chính trị - xã hội, là yếu tố tiên quyết.
Vận dụng tư tưởng trên của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong tác phẩm Đường Cách
Mệnh (viết năm 1927) cũng như việc soạn thảo Cương lĩnh năm 1930, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đều khẳng định: Cơng - nơng là gốc của cách mạng, trí thức, học trị là bầu
bạn của cách mạng.
Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về thời cơ
và tình thế cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình cách mạng Việt Nam.
Nếu như chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định về tình thế cách mạng: Giai cấp thống
trị khơng cịn thống trị như trước nữa. Giai cấp bị trị khơng cịn chịu sự thống trị như
trước nữa. Tầng lớp trung gian đã đứng về phía giai cấp bị trị. Thì tình thế và thời cơ
22
cách mạng Việt Nam tháng Tám năm 1945 đã được Người vận dụng một cách sáng tạo.
Nhật đầu hàng đồng minh ngày 15 tháng 8 năm 1945. Ngày 16-8-1945, Đại hội
Quốc dân họp tại Tân Trào, tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản
Đông Dương, lập Uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau
Đại hội Quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ
quyết định vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng lên đem sức ta
mà tự giải phóng cho ta”. “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải
đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Năm là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo quan điểm về vai
trò quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam mà trọng tâm chính là khối đại đồn kết dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về vai trò quần chúng nhân dân vào tình hình cách mạng giải phóng dân
tộc ở Việt Nam. Người khẳng định: Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là
những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra của cải vật chất cho
xã hội, quần chúng còn là những người sáng tác nữa.
Bằng thực tiễn của ba cuộc tổng diễn tập trong 15 năm mà đỉnh cao là cách
mạng Tháng Tám năm 1945 với cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, sức
mạnh vĩ đại ấy chính là sức mạnh của quần chúng nhân dân. Cuộc kháng chiến toàn
dân, tồn diện…để có một chiến thắng lừng lẫy Điện Biên Phủ năm 1954, chấn động
địa cầu đó cũng là thành quả cách mạng của quần chúng nhân dân; cuộc trường chinh
chống Mỹ 21 năm sau với chiến thắng vang dội của cuộc tổng tấn công và nổi dậy
mùa xuân năm 1975 đã đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, thành quả cách mạng
ấy quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định.
23
Sáu là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo vấn đề dân tộc
của chủ nghĩa Mác-Lênin vào cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 khẳng định
tinh thần độc lập dân tộc và bản chất nhân dân của cách mạng Việt Nam. Và Bản
Tuyên ngôn ấy được Người đọc trước hàng triệu quốc dân đồng bào khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Thơng qua lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ngày 19
tháng 12 năm 1946 và lời kêu gọi Toàn quốc chống Mỹ cứu nước năm 1967, một lần
nữa Người khẳng định tinh thần độc lập dân tộc và bản chất nhân dân của cách mạng
Việt Nam trong xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước ở miền Nam tiến tới thống nhất đất nước với khẩu hiệu: Khơng có gì q
hơn độc lập, tự do. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sơng có thể cạn,
núi có thể mịn, song chân lý ấy khơng bao giờ thay đổi. Đó chính là sự kế thừa và
phát huy tinh thần độc lập dân tộc.
Bảy là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về nhà
nước vô sản vào tình hình cách mạng Việt Nam, xây dựng nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo Người là “Trong bầu trời khơng có gì q
bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân”.
Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (1946) do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh
soạn thảo, ngay từ Điều 1 đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của tồn
thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng một Nhà nước của dân “Chính quyền từ xã đến
chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức
nên”. Nhà nước của dân, do dân phải là một nhà nước được tổ chức và hoạt động
trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật, thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tình hình thực tiễn của cách mạng Việt
Nam đã khẳng định trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng nhiệt huyết, hết lịng vì
nước, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng và toàn dân tộc ta một hệ
thống lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc, khơng chỉ góp phần to lớn và quyết định vào
thắng lợi của dân tộc trong những năm qua mà cịn có ý nghĩa chiến lược chỉ đạo lâu
dài cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta trong những năm tiếp theo.
24
KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hoà và phát triển những điều
kiện khách quan và chủ quan của tư tưởng văn hoá truyền thống của dân tộc, tinh hoa
văn hố nhân của phương Đơng và phương Tây với chủ nghĩa Mác-lênin làm nền tảng.
Cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hố sắc
sảo, tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở
thành tư tưởng Việt Nam hiện đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và
nhân dân Việt Nam trên con đường thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng văn minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất
cách mạng cho cán bộ, Đảng viên và toàn dân biết sống hợp đạo lý. Học tập tư tưởng
Hồ Chí Minh giúp nâng cao lịng tự hào về Người, về Đảng cộng sản, về Tổ quốc Việt
Nam, tự nguyện “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
Chúng ta phải biết coi trọng, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh như Đảng và
Nhà nước đã phát động.
25