Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Tiểu luận: Nhận thức và nhu cầu của sinh viên về vấn đề giáo dục giới tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.61 KB, 41 trang )

1




Tiểu luận

Nhận thức và nhu cầu của sinh viên
về vấn đề giáo dục giới tính

2

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC T HUẬT NGỮ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC CÁC BẢNG 4
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ 5
PHẦN MỞ ĐẦU 7
1. Lý do chọn đề tài: 7
2. Câu hỏi nghiên cứu: 8
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn: 8
3.1.Ý nghĩa khoa học: 8
3.2.Ý nghĩa thực tiễn: 8
4. Mục đích nghiên cứu: 8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu: 8
6. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu. 8
6.1. Đối tượng nghiên cứu: 8
6.2. Khách thể nghiên cứu: 8
6.3. Phạm vi nghiên cứu: 9
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: 9
7.1. Phương pháp luận: 9
7.1.1. Phương pháp luận chung 9


7.1.2. Phương pháp luận chuyên biệt. 9
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể. 9
7.2.1. Phương pháp định lượng: 9
7.2.2 Phương pháp định tính: 10
7.2.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu: 10
7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu: 11
8. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết. 11
3

8.1. Giả thuyết nghiên cứu: 11
8.2. Khung lý thuyết: 11
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH 12
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ T HỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NHẬN THỨC VÀ NHU CẦU CỦA SINH
VIÊN ĐHKHXH và NV VỀ GDGT 12
1.1 . Cơ sở Triết học: 12
1.2.Lý thuyết áp dụng. 12
1.3.Khái niệm công cụ: 12
1.3.1.Giáo dục: 12
1.3.2.Giới tính: 13
1.3.3.Giáo dục giới tính: 13
1.3.4.Nhu cầu: 14
1.3.5.Nhận thức: 14
Chương 2. T HỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ NHẬN THỨC VÀ NHU CẦU CỦA SINH VIÊN ĐHKHXH và
NV VỀ VẤN ĐỀ GDGT. 16
2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu: 16
2.2.Tổng quan đề tài nghiên cứu: 16
2.3.Nhận thức của sinh viên ĐH KHXH và NV về vấn đề GDGT hiện nay. 19
2.3.1 Nhận thức của sinh viên ĐH KHXH và NV về kiến thức QHTD AT 19
2.3.2. Kiến thức của SV về con đường lây nhiễm HIV/AIDS 22
PHẦN KẾT LUẬN 27

Phiếu Trưng Cầu Ý Kiến 29
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU 1 31
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 2 33
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 3 35
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 4 37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
Bảng phân công và đánh giá công việc của các thành viên nhóm 8. 41
4




DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
1. VTN-TN: Vị thành niên- Thanh niên.
2. KHHGĐ: Kế Hoạch Hóa Gia Đình.
3. TD: tình dục.
4. QHTD: Quan hệ tình dục.
5. QHTD AT: Quan hệ tình dục an toàn.
6. GDGT: Giáo dục giới tính.
7. HS,SV: Học sinh, sinh viên.
8. ĐH KHXH và NV: Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
9. SKSS: Sức khỏe sinh sản.
10. CLB: câu lạc bộ.














5


DANH MỤC CÁC BẢNG

2.1. Bảng số liệu thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ kiến thức về QHTD AT giữa sinh viên các khóa thuộc
trường KHXH & NV (đơn vị %) 21
2.2. Bảng số liệu thể hiện nhu cầu tham gia các CLB, tổ, đội, nhóm cung cấp các kiến thức GDGT, CS
SKSS giữa sinh viên các khóa trong nhà trường (đơn vị %) 24



















6


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

2.1. Biểu đồ thể hiện cơ cấu số người biết đến khái niệm GDGT, CS SKSS 19
2.2. Biểu đồ thể hiện mức độ nhận thức đầy đủ kiến thức về QHTD AT. 20
2.3. Biểu đồ thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ kiến thức về QHTD AT giữa nam sinh viên và nữ sinh viên
trường KHXH &NV (đơn vị %) 21
2.4. Biểu đồ thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ về con đường lây lan HIV/AIDS của sinh viên trường
KHXH &NV. 22
2.5. Biểu đồ thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ về con đường lây lan HIV/AIDS giữa sinh viên các khóa
(đơn vị %) 23
2.6. Biểu đồ thế hiện tương quan nam- nữ về mức độ hiểu biết các con đường lây nhiễm HIV/ AIDS giữa
sinh viên các khoa (đơn vị %). 23
2.7. Biểu đồ thể hiện nhu cầu tham gia các CLB, tổ, đội, nhóm có liên quan đến kiến thức GDGT, CS
SKSS trong nhà trường. 24
2.8. Biểu đồ thể hiện nhu cầu tham gia các CLB, tổ, đội, nhóm cung cấp kiến thức GDGT,SKSS giữa SV
các khóa trong nhà trường. 25
2.9. Biểu đồ thể hiện nhu cầu đưa GDGT và CS SKSS trở thành 1 môn học chính thức trong nhà trường
(đơn vị %). 26
2.10. Biểu đồ thể hiện mức độ tác động của các yếu tố môi trường xã hội đến nhận thức và nhu cầu của
sinh viên trường KHXH & NV về GDGT, CS SKSS (đơn vị %). 26










7


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Tại Việt Nam, tỷ lệ nạo hút thai trong vị thành niên- thanh niên( VTN- TN) và
nguy cơ lây nhiễm HIV cùng các bệnh lây truyền qua đường tình dục có xu hướng ngày
càng gia tăng.Theo thống kê mới của hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam( KHHGĐ)
Việt Nam là 1 trong 3 nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới. Tỷ lệ nạo phá thai
trung bình ở nước ta: 1,2 – 1,6 ca triệu/năm; Là 1 trong 5 nước dẫn đầu thế giới, đáng chú
ý là tỷ lệ các ca nạo hút thai ở độ tuổi từ 15- 19, trong đó 60- 70% là học sinh, sinh viên.
Theo thống kê của bệnh viện Phụ Sản Trung ương, Bác sĩ Nguyễn Thị Hồng
Minh(Giám đốc Trung tâm tư vấn sức khỏe sinh sản và KHHGĐ) cung cấp tính trong
năm 2009, bệnh viện đã giải quyết 5000 trường hợp thai nhi từ 5- 12 tuần tuổi bằng
phương pháp hút chân không. Trong đó, 28% là số ca bệnh nhân dưới 24 tuổi, bác sĩ cho
biết thêm có tới 3% số ca VTN có tiền sử từ 2 lần. Cũng trong năm 2009, Bệnh Viện Phụ
Sản Hà Nội đã giải quyết 17 241 trường hợp, trong đó có 31, 3% bệnh nhân dưới 24 tuổi
với 5403 ca. Chỉ tính riêng trong 3 tháng đầu năm 2010 ở đây đã tiến hành thủ thuật cho
60/ 1730 ca dưới 19 tuổi. Tuy nhiên theo một số bác sĩ tư vấn và theo dõi, con số này
thực tế còn có thể lớn hơn vì các em thường đội tuổi lên để không phải nhờ người bảo
lãnh.
Theo số liệu chính thức về điều tra quốc gia về TN và VTN thì có tới, 7,6 % số
VTN-TN có quan hệ tình dục( QHTD) trước hôn nhân. Tuổi QHTD trung bình đầu tiên
của TN Việt Nam là 19, 6 tuổi. 66, 7% con trai chấp nhận QHTD trước hôn nhân. Năm
2009, báo cáo tình hình nhiễm HIV/AIDS có tới 144.483 người nhiễm HIV. Số người

nhiễm HIV chủ yếu ở 2 thành phố: Hà Nộivà Tp.HCM. Số tuổi nhiễm HIV/AIDS ở Hà
Nội ngày càng được trẻ hóa: 75% tổng số người có tuổi đời dưới 30 tuổi mà con đường
lây nhiễm chủ yếu là QHTD khôngan toàn.
Gõ từ khóa “có cần thiết phải GDGT cho trẻ” trên trang Google có đến gần 5,1
triệu kết quả cho thấy sự quan trọng, cấp thiết của GDGT hiện nay. Cũng trên trang này
có hơn 8, 2 triệu kết quả thể hiện các ý kiến, góp ý về độ tuổi bắt đầu thực hiện việc
GDGT.
Rõ ràng GDGT là vấn đề đang được quan tâm, và có tầm quan trọng đối với lứa
tuổi học sinh, sinh viên hiện nay. Vì vậy, nhóm chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài:
“nhận thức và nhu cầu của sinh viên về vấn đề giáo dục giới tính” (nghiên cứu trường
hợp tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn).
8


2. Câu hỏi nghiên cứu:
Sinh viên Nhân văn có nhận thức và nhu cầu như thế nào về vấn đề GDGT?
Yếu tố nào có tác động lớn nhất đến nhận thức và nhu cầu của SV về GDGT?
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
3.1.Ý nghĩa khoa học:
Vận dụng một số khái niệm, phương pháp nghiên cứu nhận thức, nhu cầu của sinh
viên về GDGT. Kết quả của nghiên cứu có thể bổ sung, hoàn chỉnh hoặc làm sáng tỏ
những luận điểm của lý thuyết đã sử dụng trong đề tài này.
3.2.Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài làm rõ thực trạng về nhận thức của sinh viên trong việc GDGT hiện nay tại
địa bàn nghiên cứu và tác động của những nhận thức đó tới nhu cầu và hành vi của các
đối tượng nghiên cứu.
Trên cơ sở phân tích nhận thức của sinh viên về GDGT ta thấy được việc GDGT
góp phần quan trọng và ảnh hưởng rất nhiều tới hành vi, cách ứng xử của HS-SV. Hoạt
động giáo dục giới tính giúp cho trẻ VTN- TN, đặc biệt sinh viên, có nhận thức đúng đắn
về vấn đề giới tính, QHTD, tình yêu,tình bạn,

4. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu nhận thức và nhu cầu của SV về GDGT. Từ đó lý giải hiện trạng nhận
thức về GDGT của sinh viên ĐH KHXH và NV hiện nay. Từ đó có những biện pháp
nhằm nâng cao nhận thức của SV về GDGT. Để đạt được mục đích này, chúng tôi xin
đưa một số nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài như sau.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:.
Tìm hiểu nhận thức của sinh viên về vấn đề GDGT.
Nhu cầu của sinh viên về GDGT.
Tìm hiểu các yếu tố tác động đến GDGT.


6. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu.
6.1. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng nhận thức, nhu cầu của sinh viên về GDGT.
6.2. Khách thể nghiên cứu:
9

Sinh viên trường Đại học KHXH và NV- ĐHQG Hà Nội.
6.3. Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: ĐH KHXH và NV.
Thời gian: tháng 10/ 2012.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
7.1. Phương pháp luận:
7.1.1. Phương pháp luận chung.
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng Marxist về CNDVBC. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng thể hiện với tính cách là phương pháp luận khoa học để nhận thức và
giải thích các hiện tượng và các quá trình của đời sống xã hội trong mối liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau có tính quy luật giữa chúng, đi tìm nguồn gốc của các quá trình xã hội ở
trong những mâu thuẫn biện chứng khách quan nội tại của chúng.
Do vậy khi nghiên cứu nhận thức của sinh viên về vấn đề GDGT, trường hợp sinh

viên trường ĐH KHXH và NV, cũng cần xem xét trên nhiều khía cạnh, đặt đối tượng
nghiên cứu trong mối quan hệ với các yếu tố khác. Để biết được hiệu quả của giáo dục
giới tính, những nhận thức và nhu cầu về GDGT trong sinh viên, cần phải xem xét thực
trạng của vấn đề giới tính và giáo dục giới tính trong phạm vi đối tượng trên.
7.1.2. Phương pháp luận chuyên biệt.
Đề tài đã sử dụng lý thuyết: lựa chọn hành vi hợp lý của Peter Blau.
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể.
7.2.1. Phương pháp định lượng:
Sử dụng phương pháp thu thập thông tin bằng phiếu trưng cầu ý kiến:
Nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp điều tra khảo sát qua bảng hỏi với kích
thước mẫu là 120, nghiên cứu được tiến hành đối với sinh viên thuộc trường ĐH KHXH
và NV- ĐHQG Hà Nội. Tìm hiểu nhận thức và nhu cầu của sinh viên về GDGT. Hơn nữa
10

tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên hiện nay và ảnh hưởng như
thế nào đến nhận thức về giới tính của SV( chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống).
Cơ cấu mẫu:

7.2.2 Phương pháp định tính:
7.2.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu:
Đề tài đã sử dụng phương pháp phân tích tài liệu những và những thông tin thu
thập được từ phiếu trưng cầu ý kiến, phỏng vấn sâu.
Trước hết là nghiên cứu “ Báo cáo kết qủa cuộc khảo sát tìm hiểu kiens thức, thái
độ và SKSS tuổi VTN”do Khuất Thu Hồng thực hiện theo yêu cầu của UNFPA và sở
Giáo dục Khánh Hòa.
Đề tài nghiên cứu “hành vi tình dục và kiến thức TDAT của học sinh THPT trên
địa bàn Hà Nội hiện nay” (nghiên cứu trường hợp tại trường PTTH Phan Đình Phùng-
Quận Ba Đình- Hà Nội). Nguyễn Thanh Vân. Luận văn Thạc Sỹ Xã hội học.2008.
Cuốn sách “ Giáo dục giới tính cho thanh thiểu niên” của Nguyễn Thành Công
(Nxb trẻ, năm 1997).

Bài viết : “giáo dục giới tính cho vị thành niên- nhìn từ một điểm trường”của
Ngọc Duyệt.
Đề tài: “tìm hiểu nhận thức về giáo dục giới tính tại cấp trung học cơ sở ở khu vực
nông thôn” (trường hợp nghiên cứu là Trường Hợp Hòa- Tam Dương –Vĩnh Phúc).

11

7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phương pháp này được thực hiện để thu thập thông tin định tính, nhằm làm phong
phú thêm cho những thông tin định lượng. Đặc biệt phương pháp này tập trung vào
những ý kiến của thầy cô giáo và ý kiến của đối tượng sinh viên về vai trò của gia đình,
nhà trường, các phương tiện truyền thông đại chúng trong GDGT. Phỏng vấn sâu được
tiến hành với số lượng là 5 mẫu. Qua đó quan sát thái độ cử chỉ của người được phỏng
vấn khi trả lời vấn đề nghiên cứu và giúp tìm hiểu rõ hơn, sâu hơn về nhận thức và nhu
cầu của sinh viên về vấn đề GDGT. Trong phỏng vấn sâu, chúng tôi sử dụng phương
pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện.
8. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết.
8.1. Giả thuyết nghiên cứu:
Phần lớn sinh viên chưa có nhận thức đầy đủ về GDGT.
Đa số sinh viên đều có nhu cầu tìm hiểu các kiến thức về GDGT.
Truyền thông đại chúng là yếu tố có tác động lớn nhất đến đến nhận thức và nhu cầu của
SV về GDGT.
8.2. Khung lý thuyết:
Điều kiện kinh tế- văn hóa- xã hội



12



PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NHẬN THỨC VÀ
NHU CẦU CỦA SINH VIÊN ĐHKHXH và NV VỀ GDGT.

1.1 . Cơ sở Triết học:
Phương pháp luận Marxist về CNDVBC: xem xét, lý giải các hiện tượng của đời
sống xã hội trong mối quan hệ phụ thuộc, tác động qua lại lẫn nhau. Nghĩa là khi xem xét
về nhận thức, thái độ và nhu cầu của SV về GDGT cần xem xét trong mối quan hệ với
các yếu tố khác: điều kiện KT, VH, XH….
1.2.Lý thuyết áp dụng.
Sử dụng lý thuyết Lựa chọn hành vi hợp lí vào đề tài nghiên cứu.
Lý thuyết này cho rằng, con người luôn hành động một cách có chủ đích, có suy
nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa
và chi phí tối thiểu. Hành động có xu hướng lặp lại nếu nó từng được thưởng trong quá
khứ, ngược lại không có xu hướng lặp lại những gì được phát hiện không có phần
thưởng. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, việc áp dụng các định đề cũng có phần hạn
chế, định đề được áp dụng để giải thích đó là sự lựa chọn giữa phần thưởng và chi phí.
Áp dụng lý thuyết vào đề tài nghiên cứu: Cá nhân luôn luôn có sự tính toán giữa
phần thưởng và chi phí. Mỗi một cá nhân khi lựa chọn một hành động luôn có sự tính
toán giữa chi phí mình bỏ ra và phần thưởng mình đạt được. Họ luôn hướng đến việc
thực hiện hành động sao cho đạt được phần thưởng tối đa và chi phí tối thiểu. Bởi vậy,
nếu cá nhân ý thức rõ ràng về những lợi ích của việc GDGT cao hơn so với những “chi
phí” mà họ phải bỏ ra để có được những kiến thức đó thì sẽ có sự thay đổi trong nhận
thức của họ về GDGT. Từ đó sẽ có những thay đổi trong hành động để có được những
kiến thức về GDGT. Và ngược lại, khi cá nhân thấy rằng lợi ích của việc GDGT ít hơn
những “chi phí” mà họ phải bỏ ra thì họ sẽ có xu hướng bàng quan với vấn đề GDGT.
1.3.Khái niệm công cụ:
1.3.1.Giáo dục:
Giáo dục là quá trình truyền lại kinh nghiệm từ thế hệ trước cho thế hệ sau, thế hệ

sau lĩnh hội những kinh nghiệm để tham gia vào cuộc sống lao động và các hoạt động xã
13

hội nhằm duy trì và phát triển xã hội loài người. Tuy nhiên, thế hệ sau không phải chỉ
lĩnh hội toàn bộ những kinh nghiệm của thế hệ trước để lại mà còn bổ sung, làm phong
phú thêm những kinh nghiệm của loài người – đó là quy luật của sự tiến bộ xã hội- là
hiện tượng đặc trưng của xã hội loài người.
Theo Nguyễn Sinh Huy và Nguyễn Văn Lê ( Giáo dục học đại cương, NXB Giáo
dục,1999) Giáo dục theo nghĩa hẹp: “bao gồm quá trình hoạt động nhằm tạo ra cơ sở
khoa học của thế giới quan, lý tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực của con
người, kể cả việc phát triển nâng cao thể lực. Quá trình này được xem là một bộ phận của
quá trình giáo dục tổng thể, kết quả không chỉ xem xét về ý thức mà căn cứ trên hành vi,
thói quen, hiểu biết của trình độ phát triển (cao hay thấp) của trình độ có giáo dục của
mỗi người” [5.Tr11].
1.3.2.Giới tính:
Giới tính là một thuật ngữ khoa học bắt nguồn từ môn Sinh vật học dùng để chỉ sự
khác biệt về sinh học giữa nam và nữ. Đó là sự khác biệt phổ thông và không thể thay đổi
được (Mọi người đàn ông đều có những đặc điểm chung về giới tình và mọi người phụ
nữ đều có những đặc điểm chung về giới tính).
Con người sinh ra đã có những đặc điểm về giới tính và đặc điểm này tồn tại trong
suốt cuộc đời. Giới tính là sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ. Mỗi người đều mang
một giới tính, nghĩa là khi sinh ra đã mang giới tính là nam hay nữ. Những quy định này
đều dựa trên một số tố chất đặc thù khiến ta có thể phân biệt được giới tính của mỗi giới
1.3.3.Giáo dục giới tính:
Giáo dục giới tính là một bộ phận hữu cơ của giáo dục đời sống gia đình, giúp thế
hệ trẻ: Có những hiểu biết cơ bản về các đặc điểm giới tính, về quá trình sinh sản ở
người, về các bệnh lây lan do quan hệ tình dục bừa bãi. Có ý thức và biết đánh giá đúng
đắn hành vi của mình và của người khác trong mối quan hệ với người khác giới, xây
dựng đúng đắn tình bạn, tình yêu chân chính. Chuẩn bị về mặt tâm lý và thực tiễn cho
cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, tư cách làm cha, làm mẹ trong tương lai. (Từ điển Bách

khoa Việt Nam 2, NXB từ điển Bách khoa Hà Nội, 2002).
14

Như vậy, Giáo dục giới tính nhằm giáo dục mối quan hệ nhân văn và có trách
nhiệm giữa nam và nữ trên các khía cạnh sinh học, sức khỏe sinh sản và tình dục. GDGT
là một khoa học liên ngành (tâm lý, y học, xã hội học).
Giáo dục giới tính là sự chuẩn bị cho thanh thiếu niên những hiểu biết để bước vào
đời để biết ứng xử với nhau một cách tôn trọng và có trách nhiệm và cũng để biết tự bảo
vệ sức khỏe sinh sản.
1.3.4.Nhu cầu:
Theo từ điển xã hội học Oxford: nhu cầu là cái gì đó được cho là cần thiết, đặc biệt
khi nó được cho là thiết yếu cho sự sinh tồn của một con người, tổ chức hay bất kì thứ gì
khác. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi trong các khoa học xã hội, với sự chú ý đặc
biệt dành cho cái gọi là những nhu cầu con người. Nhu cầu thường được đối lập với
muốn, hay ước muốn, nhu cầu nói đến những thứ cần thiết, còn muốn nói đến những thứ
người ta ao ước muốn có.
Các nhà xã hội học, đặc biệt là những nhà chức năng luận, cũng thường dùng thuật
ngữ nhu cầu khi nghiên cứu sự vận hành của xã hội. Chẳng hạn, Talcott Parsons giải
thích những tiền đề chức năng của hệ thống xã hội- những cái cần thiết cho sự tồn tại của
xã hội- sự hẫu thuẫn về mặt động cơ thúc đẩy thích hợp cho bản thân hệ thống. Theo
mạch tư duy tương tự, những nhà Marxist nói đến những nhu cầu của chủ nghĩa tư bản,
nhắc nhiều nhất đến những nhu cầu cho sản xuất, tái sản xuất và hợp pháp hóa hệ thống.

1.3.5.Nhận thức:
Theo nghĩa triết học, nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực ở
trong tư duy của con người, được quy định bởi những quy luật phát triển xã hội và không
thể tách rời với thực tiễn. Mục tiêu của nhận thức là đạt đến chân lý khách quan. Quá
trình nhận thức: thu thập kiến thức, hình thành khái niệm về hiện tượng thực tế giúp con
người hiểu biết về thế giới xung quanh. Quá trình nhận thức là để tích lũy kinh nghiệm từ
đó cải tạo thế giới.

Như vậy, nhận thức là sự phản biện biện chứng thế giới khách quan vào trong bộ
óc của con người, là quá trình xâm nhập ý chí con người vào hiện thực làm cho hiện thực
15

chịu sự chi phối của chủ thể và quá trình nhận thức chính là quá trình con người làm
phong phú thêm tri thức bằng những tri thức mới.
Nhận thức nảy sinh, bộc lộ và phát triển trong sự tương tác giữa chủ thể nhận thức và
khách thể nhận thức trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan.
Chủ thể nhận thức là con người, nhận thức của con người bị chi phối bởi các yếu
tố: nhu cầu lợi ích, truyền thống văn hóa dân tộc, điều kiện kinh tế- xã hội, các tri thức
được truyền lại từ thế hệ trước đối với các cá nhân, đặc điểm tâm sinh lý, trình độ phát
triển cụ thể của mỗi cá nhân về mặt sinh học,
Khách thể nhận thức: là đối tượng mà nhận thức hướng vào, khách thể nhận thức
không đồng nhất với thế giới vật chất vì khách thể nhận thức không những chỉ hướng vào
thế giới vật chất mà còn hướng vào thế giới tinh thần.
Khách thể nhận thức của nghiên cứu này là các hoạt động giáo dục giới tính bao
gồm: nội dung GDGT, công tác tuyên truyền giáo dục, giữa chủ thể nhận thức và khách
thể nhận thức có mối quan hệ biện chứng không thể tách rời trong quá trình nhận thức.
Khách thể nhận thức được phản ánh mang đậm tính cá nhân thông qua cảm giác, tri giác,
trí nhớ, tư duy, tư tưởng, làm cho chủ thể nhận thức có thái độ, tình cảm đối với khách
thể nhận thức và hành động tương ứng. Hoạt động xã hội và nhận thức có mối quan hệ
biện chứng. Cội nguồn của nhận thức là tính tích cực hoạt động, hiệu quả hoạt động phụ
thuộc vào nhận thức. V.I Leenin đã viết: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng
đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực
tại khách quan”.
Như vậy, theo cách hiểu của nhóm chúng tôi, khái niệm Nhận thức là sự phản ánh
thế giới xung quanh, “nhận thức là biết được, hiểu được, ý thức được” thế giới xung
quanh thông qua các hoạt động thực tiễn đó con người tiến hành các hoạt động thực tiễn,
thông qua đó nâng cao hiểu biết của mình.
16


Chương 2. THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ NHẬN THỨC VÀ NHU CẦU CỦA SINH
VIÊN ĐHKHXH và NV VỀ VẤN ĐỀ GDGT.
2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu:
Tổ chức tiền thân của trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội là trường Đại học văn khoa Hà Nội (sắc lệnh số 45 do chủ tịch Hồ Chí
Minh kí 10- 10- 1945). Tiếp đó là trường Đại học tổng hợp Hà Nội ( 5-6-1956). Ngày
10-12-1993 Thủ tướng Chính Phủ ban hành nghị đinh 97/CP thành lập Đại học quốc gia
Hà Nội trong đó có trường Đại Học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Hằng năm nhà trường
tiếp nhận một lượng lớn sinh viên trong cả nước, năm 2012 tổng số sinh viên là 13.959
sinh viên, trong đó có 5472 sinh viên hệ chính quy, 4571 sinh viên không chính quy,
3057 học viên cao học, 297 nghiên cứu sinh, 562 sinh viên nước ngoài (26 sinh viên đại
học, 21 học viên cao học, 8 nghiên cứu sinh và 507 sinh viên học tiếng việt), đa số là nữ
sinh viên. Với đội ngũ cán bộ đông đảo các nhà khoa học trong đó có 332 giảng viên
chính thức và 156 thỉnh giảng.
Nhà trường thường xuyên tổ chức nhiều hội thảo với sự tham gia của các trường Đại học
và các nước bạn trên thế giới: kí thỏa thuận hợp tác với Đại học kinh tế Budapest, Đại
học tổng hợp Bungaria… Ngoài ra sinh viên trong trường thường xuyên tổ chức nhiều
hoạt động, thông qua các tổ, đội, nhóm: Đội Tuyên truyền sức khỏe sinh sản, CLB hoa
đá, Đội xung kích…
2.2.Tổng quan đề tài nghiên cứu:
Với lối sống hiện nay, một bộ phận không nhỏ vị thành niên, thanh niên đã có
QHTD trước hôn nhân, tăng tình trạng nạo phá thai… những vấn đề này đe dọa trực tiếp
đến SKSS của lớp trẻ Việt Nam. Đã có rất nhiều những nghiên cứu cũng như những đề
tài liên quan đến vấn đề TD và SKSS của thế hệ trẻ.
“ Báo cáo kết qủa cuộc khảo sát tìm hiểu kiến thức, thái độ và SKSS tuổi VTN”do Khuất
Thu Hồng thực hiện theo yêu cầu của UNFPA và sở Giáo dục Khánh Hòa. Cuộc khảo sát
được thực hiện tại sáu trường THCS và THPT, thời gian thu thập thông tin từ 4-1999 đến
17


tháng 5. Đối tượng là học sinh lớp 8 đến lớp 12 (gồm 360 em) và 350 cha mẹ của các em
học sinh. 60 giáo viên bộ môn đã từng tham gia giảng dạy giáo dục giới tính và SKSS
cùng đại diện ban giám hiệu, Giáo viên chủ nhiệm và giáo viên phụ trách Đoàn, Đội.
Chọn mẫu ngẫu nhiều tầng theo chủ định, nguyên tắc chọn mẫu ngẫu nhiên được thực
hiện ở giai đoạn cuối. Công cụ khảo sát là bộ bảng hỏi được thiết kế riêng cho từng nhóm
đối tượng. Nghiên cứu đã đưa ra những thông tin cơ bản về kiến thức, thái độ, thực trạng
và hành vi liên quan đến SKSS của một bộ phận học sinh, phu huynh và của giáo viên ở
Tỉnh Khánh Hòa.
Một nghiên cứu nữa về “ Khảo sát đánh giá về kiến thức, thái độ và thực hành của
Thanh niên Hải Phòng với các vấn đề liên quan đến SKSS” của Trần Thị Trung Chiến và
cộng sự. Nghiên cứu này được thực hiện tại 20 xã/ phường thuộc thành phố Hải Phòng
với đối tượng thanh thiếu niên từ 15-24 tuổi. Phương pháp định lượng được sử dụng là
chủ yếu. Theo kết quả nghiên cứu, nhìn chung nhận thức của thanh thiếu niên vẫn chưa
đầy đủ, còn nhiều thiếu hụt về kiến thức về hiểu biết sinh lý, biện pháp tránh thai, QHTD
và các bệnh lây lan qua đường tình dục.
Đề tài nghiên cứu “hành vi tình dục và kiến thức tình dục an toàn của học sinh
THPT trên địa bàn Hà Nội hiện nay” (nghiên cứu trường hợp tại trường PTTH Phan
Đình Phùng- Quận Ba Đình- Hà Nội). Nguyễn Thanh Vân, Luận văn Thạc Sỹ Xã hội
học, 2008. Kết quả cho thấy đa số các em học sinh đều cho rằng QHTD trước hôn nhân là
không thể chấp nhận được (57,4%), chỉ có 28,4% có thể chấp nhận được hành vi này và
13,2% cho rằng đó là chuyện bình thường trong xã hội. Đa số các em đã có kiến thức và
hiểu biết tốt về thế nào là QHTD an toàn. Có tới 56,9% tỉ lệ học sinh lựa chọn câu trả lời
tổng hợp đó là tình dục an toàn là TD không dẫn đến mang thai ngoài ý muốn, hay dẫn
đến lây nhiễm các bệnh qua đường TD như lậu, giang mai, HIV/AIDS và có xử dụng các
biện pháp tránh thai. Tuy nhiên con số này cũng chỉ mang tính tương đối bởi tâm lý
chung của học sinh phổ thông trung học là sợ trả lời sai và trả lời không đúng do vậy các
em có xu hướng lựa chọn nhưng câu trả lời tổng hợp.
18

Cuốn sách “ giáo dục giới tính cho thanh thiểu niên” của Nguyễn Thành Công

(Nxb trẻ, năm 1997) cung cấp những kiến thức căn bản, chỉ dẫn thông tin cần thiết, nhằm
giúp cho các bạn trẻ trải qua các giai đoạn phát triển và giáo dục họ có được lối sống tình
dục lành mạnh trong tương lai, cách phòng chống sự lạm dụng tình dục, giải quyết những
xung đột ở lứa tuổi vị thành niên. Qua những thông tin trong cuốn sách này giúp ta nhận
thức rõ vai trò của giáo dục giới tính trong việc góp phần hình thành nhân cách của thanh
thiểu niên.
Qua bài viết : “giáo dục giới tính cho vị thành niên- nhìn từ một điểm trường”của
Ngọc Duyệt. Tác giả đã chỉ ra vai trò quan trọng của giáo dục giới tính. Trong bài viết
này tác giả đã tiến hành khảo sát tại một trường Trung Học Phổ Thông ở Bắc Ninh và kết
quả thu được là đa số học sinh không quan tâm đến vấn đề giáo dục giới tính: có 72,23%
mới chỉ nghe nói về quan hệ tình dục, 26,77% là chưa nghe nói. Không có kiến thức về
biện pháp tránh thai ở học sinh nam là 17,31%, học sinh nữ là 31,88%. Không có kiến
thức về các bệnh lây truyền qua đường tình dục nam là 28,81%, nữ là 38,41%. Nhu cầu
cần biết về kiến thức về giáo dục giới tính nam là 94,12% nữ là 95,42% mong muốn
được tiếp cận các thông tin về giáo dục giới tính.
Tên đề tài: “tìm hiểu nhận thức về giáo dục giới tính tại cấp trung học cơ sở ở khu
vực nông thôn” (trường hợp nghiên cứu là Trường Hợp Hòa- Tam Dương –Vĩnh Phúc)
trong bài viết này tác giả cũng đề cập đến đặc điểm tâm sinh lý của vị thành niên và thực
trạng đáng lo ngại về nạo phá thai ở lứa tuổi này ở Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu là
điều tra bảng hỏi Anket, phương pháp thu thập thông tin thứ cấp và sơ cấp (phỏng vấn
sâu và thảo luận nhóm) với 20 mẫu điều tra ngẫu nhiên ở mỗi lớp học từ lớp 6 đến lớp 9.
Kết quả thu được: thực trạng nhận thức về giới tính: 60 phiếu hỏi đưa ra thì 60% trong đó
đã được tiếp xúc với những thông tin về giáo dục giới tính. Tuy nhiên mối quan tâm về
giáo dục giới tính thì có sự khác nhau: 35,5% chọn về phát triển thể chất tâm sinh lý, 9%
chọn quan hệ giữa con trai và con gái có thể có thai, 6% chọn tác động xấu của việc nạo
phá thai tới sức khỏe, 5% chọn những hành vi thủ dâm, 3% chia đều cho hai phương án là
các bệnh lây lan qua đường tình dục và biện pháp tránh thai. Về nhu cầu được trang bị
19

đầy đủ kiến thức giáo dục giới tính là 88,3% đồng ý, trong đó 68,3% đông ý với nội dung

nên tự tìm hiểu, trao đổi thẳng thắn về các vấn để giới tính. Tỉ lệ đồng ý với nội dung
QHTD trước hôn nhân là điều tồi tệ trái với đạo đức, truyền thống văn hóa của người dân
Việt Nam được lựa chọn nhiều nhất với 46,7% so với 18,3% là không đồng ý. Đánh giá
về tầm quan trọng của nhà trường trong giáo dục giới tính: 86,7% là rất quan trọng,
11,7% là quan trọng, 3,3% là hoàn toàn không quan trọng.
2.3.Nhận thức của sinh viên ĐH KHXH và NV về vấn đề GDGT hiện nay.
2.3.1 Nhận thức của sinh viên ĐH KHXH và NV về kiến thức QHTD AT
Mức độ biết đến các khái niệm GDGT, CS SKSS của SV KHXH và NV
6%
94%
Biểu đồ thể hiện cơ cấu số người
biết đến khai niệm GDGT, CS SKSS
Chưa từng nghe đến
Đã từng nghe đến

2.1. Biểu đồ thể hiện cơ cấu số người biết đến khái niệm GDGT, CS SKSS.

Qua biểu đồ trên ta thấy đa số SV trường ĐH KHXH và NV bước đầu đã biết đến
các khái niệm: GDGT, SKSS,QHTD AT… thông qua các phương tiện truyền
thông đại chúng, các môi trường xã hội hóa: gia đình, bạn bè, nhà trường…
Qua phiếu trưng cầu ý kiến có tới 94,2% SV đã từng biết đến các khái niệm này và
chỉ co 5,8% chưa từng biết đến các khái niệm trên.
20

Nhận thức đầy
đủ kiến thức về
QHTD AT
15%
Nhận thức
chưa đầy đủ

kiến thức về
QHTD AT
85%
Biểu đồ thể hiện mức độ nhận
thức đầy đủ kiến thức về QHTD AT

2.2. Biểu đồ thể hiện mức độ nhận thức đầy đủ kiến thức về QHTD AT.

Qua biểu đồ trên ta thấy, tuy số SV biết đến khái niệm liên quan đến khái niệm
GDGT có tỉ lệ cao, song con số thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ về một trong
những khía cạnh của GDGT- QHTD AT lại rất hạn chế. Chỉ có 15.4% SV có
nhận thức đầy đủ, trong khi số SV có nhận thức không đầy đủ là 84,6%. Qua số
liệu trên ta thấy công tác GDGT vẫn chưa mang lại hiệu quả cao. Kiến thức về
GDGT của SV còn nhiều hạn chế.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến nhận thức chưa đầy đủ ở SV, một trong số đó
xuất phát từ: nhà trường và gia đình chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình
trong việc GDGT cho con em họ. Ngoài ra do bản thân mỗi cá nhân chưa có thái
độ tích cực trong việc tìm hiểu những kiến thức liên quan đến GDGT. Việc nhận
thức không đầy đủ về GDGT nói chung và QHTD AT nói riêng đã dẫn đến một số
hệ quả:
- Tỉ lệ nạo phá thai đặc biệt trong lứa tuổi VTN TN ngày càng có xu hướng gia
tăng.
- Gia tăng các bệnh qua đường tình dục.
Vì vậy ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và quá trình học tập của SV nói
riêng và ảnh hưởng đến quá trình phát triển của toàn xã hội nói chung.

21

2.1. Bảng số liệu thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ kiến thức về QHTD AT giữa sinh viên
các khóa thuộc trường KHXH & NV (đơn vị %).

Sinh viên các khóa

I

II

III

IV

T
ỉ lệ

11,1

15,4

16,7

19,0


Bảng số liệu thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ về khái niệm TDAT giữa SV các
khóa là không đồng đều. SV năm thứ 4 có hiểu biết đầy đủ hơn so với SV năm thứ
nhất, thứ 2 và thứ 3 với mức độ hiểu biết là 19,0%, trong khi SV năm nhất là
11,1%.



2.3. Biểu đồ thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ kiến thức về QHTD AT giữa nam

sinh viên và nữ sinh viên trường KHXH &NV (đơn vị %).

Qua biểu đồ ta thấy, tương quan nam nữ về mức độ hiểu biết đầy đủ kiến thức
QHTD AT giữa SV các năm. Nữ có nhận thức đầy đủ với tỉ lệ 17,9%, cao hơn so
với 12,5% số nam có nhận thức đầy đủ kiến thức về QHTD AT. Bên cạnh đó, có
đến 87,5% số nam SV có nhận thức không đầy đủ về kiến thức QHTD AT.
Qua số liệu trên ta thấy được mối tương quan trong nhận thức giữa nam và nữ về
kiến thức về QHTD AT. Cả SV nam và nữ đều chưa có hiểu biết đầy đủ về QHTD
22

AT. Có tới 87,5% nam SV có nhận thức không đầy đủ và 82,1% nữ SV có nhận
thức không đầy đủ về kiến thức QHTD AT.

2.3.2. Kiến thức của SV về con đường lây nhiễm HIV/AIDS.


63%
37%
Hiểu biết đầy đủ Hiểu biết chưa đầy đủ

2.4. Biểu đồ thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ về con đường lây lan HIV/AIDS của
sinh viên trường KHXH &NV.

Số SV có hiểu biết đầy đủ về các con đường lây truyền HIV/AIDS có tỉ lệ cao hơn
so với số SV có nhận thức không đầy đủ về các con đường trên. Số SV nhận thức
đầy đủ chiếm 63,3% lí do của thực trạng trên là do qua các phương tiện thông tin
đại chúng, các môi trường như nhà trường, bạn bè…
Tuy nhiên tỉ lệ nhận thức không đầy đủ là 36.5%, con số này còn khá cao và nó
dẫn đến những hậu quả như tệ nạn xã hội ngày một gia tăng, đặc biệt là gia tăng
số người nhiễm HIV/AIDS, ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội.



23

66.7
61.5
66.7
57.1
33.3
38.5
33.3
42.9
Sinh viên năm I
Sinh viên năm II
Sinh viên năm III
Sinh viên năm IV
Chart Title
Tỉ lệ hiểu biết đầy đủ
Tỉ lệ hiểu biết không đầy đủ

2.5. Biểu đồ thể hiện mức độ hiểu biết đầy đủ về con đường lây lan HIV/AIDS giữa sinh
viên các khóa (đơn vị %)
Tỉ lệ hiểu biết về các con đường lây nhiễm HIV/AIDS giữa các khóa trong nhà
trường là không lớn. Đa số SV trong trường đã có những kiến thức cơ bản về kiến
thức HIV/AIDS: SV năm I có mức độ hiểu biết là 66,7%, SV năm II là 61,5%, SV
năm III là 66,7%, năm IV là 57,1%.

0%
20%
40%

60%
80%
100%
Nam Nữ
70.8
57.1
29.2
42.9
Hiểu biết đầy đủ
Hiểu biết chưa đầy đủ

2.6. Biểu đồ thế hiện tương quan nam- nữ về mức độ hiểu biết các con đường lây
nhiễm HIV/ AIDS giữa sinh viên các khoa (đơn vị %).

24

Nhận xét: Biểu đồ trên cho thấy mức độ hiểu biết của sinh viên nam về các con
đường lây nhiễm HIV/AIDS là cao hơn nữ giới, tới 1,2 lần. Tỉ lệ sinh viên nam
nhận thức chưa đầy đủ là 29,2% trong khi đó tỉ lệ sinh viên nữ nhận thức chưa đầy
đủ tới 42,9%.

Không có nhu
cầu
72%
Có nhu cầu
28%
Biểu đồ thể hiện nhu cầu tham
gia các CLB, tổ, đội, nhóm có
liên quan đến kiến thức
GDGT, CS SKSS trong nhà

trường.

2.7. Biểu đồ thể hiện nhu cầu tham gia các CLB, tổ, đội, nhóm có liên quan đến
kiến thức GDGT, CS SKSS trong nhà trường.
Nhận xét: Nhu cầu tham gia các tổ, đội nhóm liên quan đến GDGT và chăm sóc SKSS
vẫn còn thấp. Trong khi không có nhu cầu là 72.2%, thể hiện hoạt động GDGT chưa thu
hút sự quan tâm của các bạn trẻ. Đặt ra yêu cầu đối với các CLB kết hợp với việc tuyên
truyền để thu hút sự quan tâm vào các CLB về GDGT.
2.3. Bảng số liệu thể hiện nhu cầu tham gia các CLB, tổ, đội, nhóm cung cấp các
kiến thức GDGT, CS SKSS giữa sinh viên các khóa trong nhà trường (đơn vị
%)
Sinh viên khóa

I

II

III

IV

Có nhu c
ầu

33,3

30,6

26,9


19,0

Không có nhu c
ầu

66,7

69,2

73,1

81,0


25

0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Sinh viên năm I
Sinh viên năm II
Sinh viên năm III

Sinh viên năm IV

2.8. Biểu đồ thể hiện nhu cầu tham gia các CLB, tổ, đội, nhóm cung cấp kiến thức
GDGT,SKSS giữa SV các khóa trong nhà trường.
Nhận xét: Qua biểu đồ trên, ta có thể nhận nhận thấy nhu cầu tham gia vào các CLB, tổ
đội nhóm liên quan tới GDGT là có sự khác biệt giữa các năm. Xu thế giảm dần về nhu
cầu thể hiện ở tỉ lệ sinh viên năm nhất là 33.3% có nhu cầu tham gia. Tỉ lệ này giảm dần
qua SV các năm cao hơn: SV năm 2: 30.8%; SV năm 3 là 26.9%; SV năm 4 là 19.0%. Vì
vậy, nhu cầu này xuất phát từ những nguyên nhân trong đó chủ yếu do SV năm 4 là SV
năm cuối đại học phải tham gia vào nhiều hoạt động phục vụ cho việc tốt nghiệp và tìm
kiếm những định hướng cho tương lai. Vì thế mà không có nhiều thời gian quan tâm tới
việc tìm hiểu thông tin về GDGT và theo đó nhu cầu tham gia các CLB cũng giảm đi.

×