Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Đề tài: Chính sách xóa đói giảm nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.75 KB, 53 trang )

Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

1



Tiểu luận

Chính sách xóa đói giảm nghèo
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

2

MỞ ĐẦU
Hơn 1 tỷ người trên thế giới ngày nay, một nửa trong số đó là phụ nữ, sống trong điều
kiện không thể chấp nhận được, họ đói nghèo, chủ yếu ở các nước đang phát triển. Đói
nghèo có nhiều nguyên nhân khác nhau.
Nghèo đói là một vấn đề phức tạp và đa chiều, có nguồn gốc xét từ cấp độ quốc gia
đến quốc tế. Toàn cầu hóa của nền kinh tế của thế giới dẫn đến phụ thuộc lẫn nhau sâu sắc
hơn giữa các quốc gia và cơ hội cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững và phát triển, cũng như
rủi ro và không chắc chắn cho tương lai của nền kinh tế thế giới. Ngoài ra, tất cả các loại
xung đột, di chuyển của con người và suy thoái môi trường đã làm suy yếu năng lực của
Chính phủ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của các quần thể của họ. Biến đổi trong nền kinh
tế thế giới đang thay đổi sâu sắc các thông số phát triển xã hội ở tất cả các nước. Một xu
hướng quan trọng đã được đói nghèo gia tăng của phụ nữ, mức độ thay đổi từ vùng này đến
vùng kia. Bất bình đẳng giới trong việc chia sẻ quyền lực kinh tế cũng là một yếu tố quan
trọng góp phần xóa đói giảm nghèo của phụ nữ. Di cư và hậu quả thay đổi trong cấu trúc gia
đình đã đặt thêm gánh nặng đối với phụ nữ. Chính sách kinh tế vĩ mô cần phải xem xét lại và
tái lập để giải quyết các xu hướng như vậy.Các chính sách này tập trung gần như độc quyền
trên các khu vực chính thức. Họ cũng có xu hướng cản trở những sáng kiến của phụ nữ và
không xem xét các tác động khác biệt giữa phụ nữ và nam giới. Việc áp dụng phân tích giới


cho một loạt các chính sách và các chương trình do đó quan trọng đối với chiến lược xóa đói
giảm nghèo. Để xóa đói giảm nghèo và đạt được sự phát triển bền vững, phụ nữ và nam giới
phải tham gia đầy đủ và bình đẳng trong việc xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô và xã
hội và chiến lược xóa đói giảm nghèo.Xóa đói giảm nghèo không có thể được thực hiện
thông qua các chương trình chống đói nghèo một mình nhưng sẽ đòi hỏi sự tham gia dân chủ
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

3

và những thay đổi trong cơ cấu kinh tế để đảm bảo truy cập cho tất cả phụ nữ với các nguồn
lực, cơ hội và dịch vụ công.
Nghèo có biểu hiện khác nhau, bao gồm thiếu thu nhập và các nguồn lực sản xuất đủ
để đảm bảo sinh kế bền vững; đói và suy dinh dưỡng, ốm đau, giới hạn hoặc thiếu tiếp cận
với giáo dục và các dịch vụ cơ bản khác; tăng tỷ lệ mắc và tử vong do bệnh tật, vô gia cư và
nhà ở không đầy đủ; không an toàn môi trường và xã hội phân biệt đối xử và loại trừ. Nó
cũng đặc trưng bởi thiếu sự tham gia của trong việc đưa ra quyết định và trong cuộc sống
dân sự, xã hội và văn hóa. Nó xảy ra trong tất cả các quốc gia nghèo đói hàng loạt ở nhiều
nước phát triển và túi nghèo giữa sự giàu có ở các nước đang phát triển. Nghèo đói có thể
được gây ra bởi một cuộc suy thoái kinh tế mà kết quả mất sinh kế, thiên tai hoặc xung đột.
Trong thập kỷ qua số lượng phụ nữ sống trong cảnh nghèo đói đã tăng lên không
tương xứng với số lượng nam giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Nữ giới đói nghèo
đã gần đây cũng trở thành một vấn đề đáng kể ở các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi
như là một hậu quả ngắn hạn của quá trình chuyển đổi chính trị, kinh tế và xã hội.Ngoài các
yếu tố kinh tế, sự cứng nhắc của vai trò giới tính xã hội được gán và truy cập hạn chế của
phụ nữ quyền lực, giáo dục, đào tạo và các nguồn lực sản xuất cũng như các yếu tố mới nổi
khác có thể dẫn đến mất an toàn cho các gia đình cũng chịu trách nhiệm.





Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

4

1. Nghèo đói mang gương mặt phụ nữ
“Nghèo đói mang gương mặt phụ nữ” - Đó là lời của một đại biểu quốc tế tham dự
Hội nghị thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu tại Hà Nội. Đây là “diễn đàn cho những phụ nữ của
thế kỷ XXI chia sẻ kinh nghiệm chiến lược và giải pháp với mục tiêu chung là thúc đẩy sự
tiến bộ của phụ nữ toàn cầu” như sự khẳng định của bà chủ tịch Irene Natividat về chủ đề
chính của hội nghị.
Phụ nữ phải chịu một gánh nặng không cân xứng của nghèo đói trên thế giới. Thống
kê chỉ ra rằng phụ nữ có nhiều khả năng nghèo hơn nam giới và có nguy cơ đói vì bị phân
biệt đối xử có hệ thống mà họ phải đối mặt trong lĩnh vực giáo dục, việc làm, chăm sóc y tế
và kiểm soát tài sản. Ý nghĩa đói nghèo thể hiện ở ngay cả những quyền căn bản của con
người như: tiếp cận với nguồn nước sạch, vệ sinh, chăm sóc y tế và công việc phù hợp. Là
người nghèo cũng có thể có nghĩa là họ không được bảo vệ khỏi bạo lực và không có vai trò
trong việc đưa ra quyết định.
Theo một số ước tính, phụ nữ chiếm 70% số người nghèo trên thế giới. Họ thường
được trả lương ít hơn nam giới cho công việc, với khoảng cách mức lương chênh lệch trung
bình trong năm 2008 là 17%. Phụ nữ phải đối mặt với sự phân biệt đối xử liên tục khi họ nộp
đơn xin tín dụng cho doanh nghiệp hoặc tự tạo việc làm và thường tập trung trong công việc
không an toàn, không ổn định và mức lương thấp.
Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay là có khả năng ảnh hưởng đến phụ nữ đặc biệt
nghiêm trọng. Tổ chức Lao động quốc tế ước tính rằng sự suy thoái kinh tế có thể dẫn đến
22 triệu phụ nữ thất nghiệp trong năm 2009, gây nguy hiểm cho các thành tựu đạt được trong
những thập kỷ cuối cùng trong trao quyền cho phụ nữ.
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

5


Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt
động kinh tế, là quốc gia đạt được sự thay đổi khá lớn về xóa bỏ khoảng cách giới trong 20
năm qua ở khu vực Đông Á.Trong lĩnh vực kinh tế tài chính đã có sự tham gia của cả nam và
nữ vào cơ quan quản lý, lãnh đạo, trong hoạt động kinh tế, trong các ngành nghề kinh
doanh. Việc làm cho phụ nữ đã được quan tâm và đạt được những kết quả khích lệ. Tỷ lệ
thất nghiệp của lao động nữ trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị giảm xuống còn
5,29%. Tuy nhiên với nhiều nguyên nhân khác nhau, bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
vẫn còn những hạn chế. Chênh lệch về tỷ lệ nam nữ tham gia hoạt động kinh tế, tham gia
quản lý, lãnh đạo ở các cấp trong hoạt động kinh tế còn khá cao (phụ nữ chưa bằng 1/3 nam
giới). Tỷ lệ nữ là lao động phổ thông và công nhân chưa qua đào tạo cao hơn nam giới 1,5
lần. Lao động nữ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chỉ bằng 42% so với lao động nam
giới. Thu nhập bình quân của lao động nữ bằng khoảng 79% so với lao động nam. Công việc
gia đình là công việc không được trả công và phần lớn đều do phụ nữ đảm nhận.
Phụ nữ ít có cơ hội được cống hiến, tham gia vào việc hoạch định chính sách, những
quan điểm của phụ nữ ít được xem xét đến trong quá trình hoạch định chính sách. Ở nhiều
quốc gia, các nhà hoạch định chính sách (chủ yếu là nam giới) rất do dự khi phải xử lý
những vấn đề liên quan đến phụ nữ, khi đó những quyền lợi của phụ nữ sẽ không được quan
tâm một cách thích đáng.
Phụ nữ nghèo hơn nam giới trong tất cả các nhóm chủng tộc và sắc tộc:
Trong các số liệu ta có thể thấy tỷ lệ phụ nữ nghèo xét trong các chủng tộc, sắc tộc
luôn cao hơn tỷ lệ nam giới nghèo. Như vậy dù ở bất kỳ quốc gia, lục địa nào người phụ nữ
luôn bị xét là nhóm yếu thế so với nam giới.
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

6


Biểu đồ 1. Tỷ lệ nghèo đói của phụ nữ so với nam giới






Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

7


Biểu đồ 2. Tỷ lệ nghèo giữa nam và nữ
Theo biểu đồi ta có thể nhận thấy phụ nữ cao tuổi nghèo hơn nam giới cao tuổi và tỷ
lệ này chênh nhau khá lớn khi ở tuổi 75: 13 % phụ nữ là người nghèo so với 6% của nam
giới.
1.1. Nghèo đói phân theo giới
Đói nghèo là một vấn đề mang tinh cất toàn cầu. Nó không chỉ là môt thực tế đang
diễn ra ở nước ta mà còn là một tồn tại phổ biến trong khu vực và trên toàn thế giới. Ngay cả
những nước phát triển cao vẫn còn một bộ phận dân cư sống ở mức nghèo khổ.
Phát biểu tại Diễn đàn “Bình đẳng giới và giảm nghèo bền vững”, Chủ nhiệm Uỷ ban
Các vấn đề xã hội Trương Thị Mai ngoài việc điểm lại những thành tích, nỗ lực trong công
cuộc xoá đói giảm nghèo cũng như bình đẳng giới cũng đã cho rằng: “Phụ nữ thường phải
gánh chịu ảnh hưởng của nghèo đói nhiều hơn nam giới và chính họ là những người nghèo
nhất trong số những người nghèo" (Ngày 2/6/2008, Diễn đàn Bình đẳng giới và Giảm nghèo
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

8

bền vững tại Hà Nội, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội). Và đặc biệt trong nhóm nghèo
đó phụ nữ lại chính là những người chiếm đa số 70% trong số 1,3 tỷ người nghèo trên thế
giới là phụ nữ.
1


Theo các nhà nghiên cứu xã hội thì phụ nữ thường phải gánh chịu những ảnh hưởng
của nghèo đói nhiều hơn so với nam giới, và dường như hình ảnh phụ nữ đa phần được gắn
liền với nghèo đói bởi đa phần những thế hệ phụ nữ nông thôn đều có cùng một điểm chung:
ít học, lấy chồng sớm, đẻ nhều, sức khỏe kém, công việc bấp bênh, thu nhập thấp, không có
tiếng nói trong gia đình và xã hội.
1.2. Phụ nữ nghèo đói phân theo khu vực
Nhóm hộ nghèo ở VN đa số là phụ nữ người dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa
thuộc biên giới hải đảo, vùng miền núi. Nông dân ở vùng nông thôn, nhất là những vùng đất
canh tác ít, hay gặp thiên tai.
- Ở nông thôn với trên 70% dân số có ít nhất trên 20 triệu phụ nữ nghèo ít có điều kiện
tiếp cận với các tiện nghi, phúc lợi xã hội và đang vất vả trong sản xuất nông nghiệp, buôn
bán hàng rong, thậm chí phải đi ở đợ.
2


1

(Trích trong bài báo: “Khi người nghèo là phụ nữ, của báo Phụ nữ Đà Nẵng, ra ngày
Thứ sáu, 2 - 12 - 2011).
2

(Trích trong bài báo: “Khi người nghèo là phụ nữ, của báo Phụ nữ Đà Nẵng, ra ngày
Thứ sáu, 2 - 12 - 2011).

Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

9


- Ở thành thị, phụ nữ nghèo chính là những người sống trong các ngôi nhà "ổ chuột",

trong những dãy nhà trọ nhỏ hẹp hay ở khu vực ngoại thành.
Lao động nữ chiếm tỷ trọng cao hơn nam trong dòng di cư nhưng lại chịu vị thế bất
lợi. Quan sát chỗ ở và điều kiện sinh hoạt của các khu lao động tập trung ở thành phố ta thấy
rõ những vấn đề bức xúc đối với sức khỏe và phẩm giá của những phụ nữ nông dân vừa rời
làng quê ra tỉnh lao động kiếm sống.
→ Phụ nữ nghèo ở nông thôn nhiều hơn ở thành thị do ở nông thôn ít việc làm để
kiếm tiền hơn, chủ yếu là làm nông nghiệp nên một số đông phụ nữ đã phải bỏ ra thành phố
thuê nhà trọ ở để đi làm thuê, bán hàng rong kiếm sống. Cuộc sống của họ rất vất vả, khó có
thể thoát khỏi được cảnh nghèo đói. Vì thế mà từ xưa đến nay, phụ nữ nông thôn luôn bị gắn
với hình ảnh nghèo đói, cực khổ.
1.3. Phụ nữ nghèo đói phân theo trình độ học vấn
Phụ nữ thường ít được đến trường học hơn so với nam giới cho nên trình độ học vấn
của họ thấp, họ không biết là mình có thể làm được việc gì khác không ngoài nông nghiệp.
Vì vậy mà những phụ nữ nghèo thường chủ yếu là những người có trình độ học vấn thấp, ít
được học hành và không có sự hiểu biết rộng.
Theo PGS.TS Nguyễn Bích Hà, tỷ lệ lao động nữ có trình độ cao trong tương quan so
với nam giới hiện nay là thấp.
Phân tích về vấn đề nữ quyền và giáo dục, PGS.TS Trần Lê Bảo - Trường ĐH Sư
phạm Hà Nội cho biết: “Trong 20 năm qua cho dù khoảng cách giữa nam và nữ có giảm đi
một nửa, song những bất bình đẳng vẫn tồn tại dai dẳng như một thách thức nhân loại, trong
880 triệu người mù chữ trên thế giới có gần 2/3 là phụ nữ; trong số 130 triệu trẻ em không
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

10

được đến trường tiểu học có 60% là em gái. Phần lớn phụ nữ và em gái này sống ở nông
thôn. Trong chương trình giáo dục cũng như sách giáo khoa ở nhiều nước vẫn còn những
quan niệm thành kiến với phụ nữ, không đề cập đến những thành tựu của phụ nữ hay những
vấn đề đặt ra hàng ngày đối với phụ nữ. Thậm chí người ta cho rằng “nghèo khổ mang
gương mặt phụ nữ - thầm lặng”.

3

1.4. Phụ nữ nghèo đói phân theo nghề nghiệp
- Những người phụ nữ nghèo ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa chủ
yếu là làm trong các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, làm nghề thủ công…
- Những người phụ nữ nghèo ở các khu đô thị thì chủ yếu là họ làm nghề bán hàng
rong, thu mua đồng nát, nhặt rác, ngồi bán hàng nhỏ lẻ ở các chợ, hay đi làm thuê cho người
khác…
Theo PGS.TS Nguyễn Bích Hà, cho đến năm 2011 thì phụ nữ Việt Nam chiếm 50,8%
dân số, 51,4% lực lượng lao động trong cả nước. Trong lao động nông nghiệp, phụ nữ chiếm
gần 80%, trong ngành giáo dục phụ nữ chiếm 71,6%, trong ngành y tế chiếm 67%, công
nghiệp nhẹ 65%, phục vụ công công cộng 52,1%, ngoại giao 33,7%, trong hoạt động nghiên
cứu khoa học phụ nữ chiếm 33%.
4

→ Như vậy ta thấy rằng số phụ nữ làm nông nghiệp là rất lớn (chiếm gần 80%), còn
trong những công việc chính trị, lĩnh vực nghiên cứu thì phụ nữ lại làm rất ít, mà những phụ

3

(Trích trong bài “Giáo dục là một phương tiện hữu hiệu để giải phóng phụ nữ” của báo
Dantri.com.vn, ra ngày Thứ Hai, 09/05/2011).
4

(Trích trong báo: Dantri.com.vn, ra ngày 09/05/2011).

Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

11


nữ nghèo đói chủ yếu là tập trung ở nhóm làm nghề nông nghiệp. Vì vậy Nhà nước ta cần
phải có những biện pháp làm cân bằng tỷ lệ lao động trong các ngành nghề theo giới tính, để
số phụ nữ làm nghề nông giảm đi, còn ở những ngành nghề khác thì tăng lên. Có như vậy thì
tình trạng phụ nữ nghèo mới có thể giảm đi nhiều được.
2. Nguyên nhân khiến cho phụ nữ chiếm đa số trong những người nghèo đói
2.1. Hạn chế về khả năng tiếp cận và quyền sở hữu các tài liệu sản xuất
5

Tài liệu sản xuất có thể được thể hiện ra nhiều gốc độ như: đồ dung lao động của phụ
nữ, các tài vật trong quá trình lao động và sản xuất của họ.
Ví dụ, trong sản xuất nông nghiệp phụ nữ sức khỏe yếu không thể tự mình điều khiển
và sử dụng các loại máy như máy cày, máy cấy, máy cắt như đàn ông. Chính điều này đã
làm cho cuộc sống của phụ nữ nghèo nay càng khó có điều kiện để có cơ hội thoát nghèo.
Thiếu đất đai cũng ảnh hưởng đến việc đảm bảo an ninh lương thực của người nghèo
cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng với giá trị
cao hơn. Đa số phụ nữ nghèo lựa chọn phương án tự cung tự cấp, họ vẫn giữ các phương
thức truyền thống nên các giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp,
các cơ hội thực hiện các phương án sản xuất mang lại lợi nhuận cao hơn. Do vẫn theo
phương pháp sản xuất truyền thống nên giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật
nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn
của sự nghèo khó.

5

2
Chiến lược về tăng trưởng và xóa đói gi ảm nghèo (Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt tại văn bản số 2685/VPCP
– QHQT ngày 21 tháng 5 năm 2002)
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

12


Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản
xuất khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động vật, thực vật; nhiều yếu tố đầu vào sản xuất
như: điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón….đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập
tính trên đơn vị giá trị sản phẩm.
Theo đó người nghèo mà đặc biệt phụ nữ càng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín
dụng. Sự hạn chế nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đối mới sản
xuất, áp dụng khoa học, công nghệ, giống mới… Mặc dù trong khuôn khổ của các dự án tín
dụng đã tăng lên rất nhiều, song vẫn còn khá nhiều người nghèo phải dựa vào tín chấp với cá
khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khă năng hoàn trả vốn. Mặt khác, đa số người
không có kế hoạch sản xuất cụ thể hoặc sử dụng các nguồn vốn vay không đúng mục đích,
do vậy họ có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn và cuối cùng làm cho họ càng nghèo hơn.
2.2. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định
6

Phụ nữ nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc
làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và
do vậy không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh
nghèo khó. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến quyết định đến các quyết định
có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái….không những của thế hệ hiện tại
mà cả thế hệ trong tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng
đến khả năng đến trường của các em có gia đình nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo
thông qua giáo dục ngày càng trở nên khó khăn nhất và việc giảm nghèo thông qua giáo dục
ngày càng khó khăn hơn. “Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo về trình độ


2
Chiến lược về tăng trưởng và xóa đói gi ảm nghèo (Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt tại văn bản số 2685/VPCP
– QHQT ngày 21 tháng 5 năm 2002)
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5


13

học vấn của người nghèo cho thấy khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở
hoặc thấp hơn. Kết quả của cuộc điều tra cho thấy trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa
bao giờ đi học chiếm 12% tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; trung học cơ sở chiếm 37%. Chi
phí cho giáo dục đối với người nghèo còn lớn, chất lượng giáo dục mà phụ nữ nghèo tiếp cận
được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm
xuống khi trình độ giáo dục tăng lên. 80% số người nghèo làm các công việc trong nông
nghiệp có mức thu nhập rất thấp.”
7
. Trình độ học vấn thấp hạn chế khă năng kiếm việc làm
trong khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập
cao và ổn định hơn.
2.3. Sức khỏe kém và thiếu sức lao động
8

Tuy phụ nữ là người có sức khỏe dẻo dai hơn nam giới nhưng về thể trạng thì nam
giới hơn hẳn phụ nữ. Phụ nữ thường xuyên mắc các bệnh về xương và cơ vì vậy hạn chế rất
lớn trong việc tham gia lao động sản xuất cũng như trong đời sống hằng ngày.
Ví dụ: Theo điều tra chương trình nghiên cứu loãng xương viện nghiên cứu y khoa
Australia cho biết: Số ca gãy xương hông nam giới là 30% còn 70% là nữ giới.
Ví dụ trên có thể giải thích rằng phụ nữ là đối tượng dễ mắc bệnh gãy xương hơn gấp
2 lần so với nam giới vì xương nam giới cứng hơn và mật độ cao hơn là những yếu tố về mặt
sinh học quyết định sự khác biệt về tình trạng sức khỏe cũng như sức lao động của nữ giới.

7
, 6 Chiến lược về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt tại văn bản số
2685/VPCP – QHQT ngày 21 tháng 5 năm 2002)
8

, 5, Báo cáo phát triển Việt Nam, “Nghèo” năm 2004
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

14

Một khi nữ giới bị mắc các bệnh về xương và cơ thì khả năng lao động rất khó khăn
chính vì vậy để thoát khỏi nghèo đói là một khoảng cách xa vời với nhóm đối tượng này.
Trong quá lao động phụ nữ bị hạn chế vì sức khỏe chính vì vậy trong quá trình lao
động phụ nữ bị hạn chế. Tất nhiên khi ở vào hoàn cảnh đó thì phụ nữ rất khó để có khả năng
sản xuất kém thì năng suất lao động bị hạn chế.
2.4. Bị hạn chế tham gia các hoạt động cộng đồng
9

Theo báo cáo cũng cho thấy một trong những nguyên nhân nghèo đói ở phụ nữ là do
họ hạn chế trong việc tham gia các công việc của cộng đồng. Người dân cho biết sự tham gia
trong các buổi họp thôn là rất hạn chế vì phụ nữ bận rộn với làm việc đồng hoặc ở nhà. Hoặc
nếu họ có tham gia thì họ ít phát biểu trong cuộc họp. Đa số các việc liên quan đến hang xóm
thì đa số đàn ông là người tham gia và trong những làn thâm gia đó hầu như đàn ông là
người chủ động để tham gia các hoạt động cộng đồng. Trong các hoạt động liên quan đến
cộng đồng như việc thôn xóm hay đình đám. Trong các buổi họp dòng họ hay thôn xóm
thường đa số đàn ông là người chủ chốt và quyết định các vấn đề đó, phụ nữ nghèo thường
chỉ làm theo và không có tiếng nói trong đó.
2.5. Phụ nữ dễ bị mắc các bệnh xã hội và khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế
thấp
10

Phụ nữ là đối tượng dễ bị mắc các bệnh xã hội hơn so với nam giới. Điều này là một
nhân tố rất quan trọng để đánh giá nguyên nhân nghèo đói của phụ nữ. Bên cạnh đó thì khả



7, 8. Báo cáo Liên Hợp Quốc, hội nghị thế giới lần thứ tư về Phụ nữ Bắc Kinh, T rung Quốc tháng 9 năm 1995
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

15

năng tiếp cận với các dịch vụ y tế thấp liên quan đến các sức khỏe sinh sản, sinh đẻ, kế
hoạch hóa gia đình, các bệnh về đường tình dục, và các bệnh khác. Tỷ lệ phụ nữ đặt vòng
tránh thai thấp, tỷ lệ nam giới nhận thức đầy đủ trách nhiệm kế hoạch hóa gia đình và phòng
tránh thai chưa cao. Phụ nữ nghèo ở các vùng nông thôn rất ít để tiếp cận với các dịch vụ y tế
do nhận thức còn kém, nghèo khổ và những vấn đề khác khiến cho họ từ chối việc khám
cũng như phòng tránh các bệnh xã hội. Vì vậy điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình lao
động cũng như sản xuất của phụ nữ.
2.6. Phụ nữ trả lương ít hơn nam giới
11

Phụ nữ trả lương ít hơn nam giới ngay cả khi họ có trình độ tương đương và làm việc
nhiều thì phụ nữ kiếm được 70% những gì mà người đàn ông làm là khoảng cách về tiền
lương trung bình hang năm 22%. Phân biệt đối xử phần lớn nguyên nhân tạo ra khoảng cách
trong tiền lương. Ngay với trình độ tương tự phụ nữ cũng kiếm được ít hơn nam giới. Trong
năm 2010 thì công nhân nữ tuổi 25 đến 32 tuổi với bằng cử nhân được trả 14% ít hơn nam
giới.
2.7. Bạo lực tình dục cũng là nguyên nhân khiến phụ nữ nghèo đói
12

Bạo lực tình dục là một trong những nguyên nhân làm cho phụ nữ đói nghèo, trải qua
bạo lực gia đình hoặc tình dục có thể đẫn đến việc làm, sứ khỏe người nghèo, vô gia cư.
Người ta ước tính rằng nạn nhân của bạo lực nói chung mất gần 8 triệu ngày làm việc được
trả lương mỗi năm vì gây ra bạo lực chống lại họ bởi người chồng hiện tại hay trước đây.
Bạo lực cũng là nguyên nhân chính gây nên tình trạng vô gia cư. Đa số nạn nhân của phụ nữ




Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

16

nghèo bị bệnh phụ khoa hay các bệnh lây qua đường tình dục. Người bị bạo lực tình dục hay
bạo lực gia đình phần nào kìm hãm phụ nữ.
2.8. Những tác động của chính sách kinh tế vĩ mô và chính sách cải cách (tự do
hóa thương mại, cải cách của các doanh nghiệp nhà nước…) đến nghèo đói.
13

Tốc độ tăng trường kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một trong những
nhân tố ảnh hưởng lớn đến mức giảm nghèo. Việt Nam đạt đến được những thành tích giảm
nghèo đói rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên, quá trình phát triển và mở cửa của nền
kinh tế cũng có những tác động tiêu cực đến người nghèo. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ
đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thủy lợi, các trục
công nghiệp chính, chú trọng nhiều vào đầu tư các ngành công nghiệp thu hút lao động, chưa
chú ý khuyến khích kịp thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp
không đúng đối tượng làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị
trường những vùng sâu và vùng xa.
Cải cách các doanh nghiệp nhà nước và các khó khăn về tài chính của các doanh
nghiệp nhà nước đã dẫn tới việc mất đi gần 800.000 việc làm trong gia đoạn đầu tiến hành
cải cách doanh nghiệp. Nhiều công nhân bị mất việc đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc
tìm việc làm mới và bị rơi vào nghèo đói. Và phần lớn số người này là phụ nữ, người có
trình độ học vấn thấp,
2.9. Do tư tưởng trọng nam khinh nữ
14



13
Chiến lược về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt tại văn bản số 2685/VPCP
– QHQT ngày 21 tháng 5 năm 2002)
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

17

Tư tưởng này đã ăn sâu trong tâm lý của người dân đặc biệt là người dân các tỉnh
miền núi đã làm cho phụ nữ mất đi quyền quyết định các công việc trong gia đình cũng như
liên quan đến cộng đồng. Chính điều này đã làm ngăn cản phụ nữ với việc tham gia các
công việc cộng đồng. Hơn thế nữa do tâm lý tự ti, thiếu hiểu biết và sự tồn tại nhiều phong
tục tập quá của người dân đã làm cho khoảng cách phụ nữ và nam giới ngày càng xa. Tư
tưởng trọng nam khinh nữ này cũng bắt nguồn từ việc con gái đi lấy chồng không được
hưởng quyền thừa kế hay tài sản của bố mẹ ở các tỉnh miền núi. Chính điều này đã làm cho
phụ nữ không có điều kiện để có cơ hội xóa đói giảm nghèo và tình trạng nghèo ngày càng
gia tăng đó là một điều hiển nhiên. Tư tưởng này bắt nguồn từ truyền thống và quan điểm tư
tưởng của dân tộc. Đa số tư tưởng này đã tác động mạnh và ảnh hưởng nhiều đến sự phát
triển của phụ nữ.
2.10. Phụ nữ nghèo không đủ điều kiện tiếp cận pháp luật, chưa được bảo vệ
quyền lợi và lợi ích hợp pháp
15

Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người, người có hoàn cảnh đặc biệt và phụ nữ
nghèo thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết các vấn đề
vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực thi phức tạp,
người nghèo khó nắm bắt; mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư phân
bố không đồng đều cũng góp phần làm gia tăng tỷ lệ nghèo đặc biệt là phụ nữ. Luật pháp
thể hiện nhiều trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Khi phụ nữ nghèo không có điều
kiện tiếp cận pháp luật, nên ít khi hiểu và bảo vệ được quyền lợi và lợi ích hợp pháp.


14
, 11 Chiến lược về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt tại văn bản số
2685/VPCP – QHQT ngày 21 tháng 5 năm 2002)

Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

18

3. Quan hệ giới và sự thiếu quyền quyết định.
3.1. Quan hệ giới và sự thiếu quyền quyết định trong gia đình
Quyền quyết định những công việc của gia đình đã được một số nghiên cứu sau làm
rõ, đó là:
Nguyễn Linh Khiếu, Vị thế của người phụ nữ trong một số vấn đề của gia đình, Viện
Xã Hội Học, 2002, đã cho cung cấp những số liệu điều tra cụ thể sau: Quyền quyết định
trong sản xuất kinh doanh được nhìn nhận dưới góc của vùng khảo sát có nhiều nét khác
biệt. Tỷ lệ người vợ đóng vai trò quyết định trong sản xuất kinh doanh ở các gia đình thành
phố chiếm tỉ lệ cao (40,7%) so với người chồng là (56,8%). Vai trò quyết định người phụ nữ
ở các gia đình đồng bằng là (28%) so với miền núi và trung du là (24%).
Những con số trên đã chỉ ra rằng, trong giai đoạn hiện nay phụ nữ đóng vai trò hết sức
quan trọng trong sản xuất kinh doanh là khá cao nhưng vị thế để đưa ra quyết định trong đó
vẫn chưa phải là phụ nữ. Tiếng nói quyết định của họ còn thuộc tỷ lệ thấp.
Nghiên cứu khẳng định, gia đình Việt Nam hiện nay mặc dù đã có nhiều thay đổi theo
hướng gia đình hiện đại nhưng nhìn chung vẫn là gia đình mang nhiều đặc trưng của đình
truyền thống Việt Nam, đó là sự ảnh hưởng của truyền thống văn hóa phụ hệ vẫn còn khá nổi
bật trong các quan hệ gia đình. Chính vì thế, mặc dù đã trở thành một người lao động chính
cùng với chồng tạo nên nguồn của cải nuôi sống gia đình nhưng người phụ nữ vẫn là người
chiếm vị trí độc tôn trong việc thực hiện các công việc nội trợ gia đình. Bởi vậy vị thế của
người phụ nữ luôn được đặt trong mối quan hệ với những chuẩn mực gia đình và xã hội quy
định.
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5


19

Trong nghiên cứu về vai trò trên như của Nguyễn Phương Thảo, Vai trò giới của cha
mẹ và nhận thức của con cái, Viện nghiên cứu gia đình và giới, Số 6, 2007, đã chỉ ra được
quyền quyết định trong gia đình cũng cho kết luận khá là tương đồng với nghiên cứu trên, đó
là: quyền quyết định của người chồng trong việc sản xuất các vấn đề liên quan đến mọi mặt
của đời sống gia đình, khi nam giới quyết định về kinh tế thì phụ nữ chỉ có quyền quyết định
đến các công việc chăm sóc con cái.
Nói chung, quyền quyết định thể hiện rõ nhất vị thế của người phụ nữ nhưng thực tế
thì quyền này đối với người phụ nữ Việt Nam vẫn còn mang nặng truyền thống nên chưa có
những quyết định lớn mà chủ yếu là nam giới hoặc những chủ hộ là nam giới quyết định.
16

Quyền quyết định liên quan đến tài sản là việc quản lý tiền và chi tiêu của vợ chồng
trong gia đình:
Việc quản lý các nguồn lực liên quan đến sản xuất phản ánh cơ cấu liên quan đến tài
sản trong gia đình. Quản lý các nguồn lực kinh tế gắn liền với vấn đề đưa ra các quyết định
như quyết định hướng làm ăn, phân công lao động, bán sản phẩm làm ra, và mua công cụ sản
xuất,… Nếu những quyết định đưa ra dựa trên dân chủ cùng bàn bạc thì chứng tỏ dấy hiệu
của sự bình đẳng và ngược lại. Có thể thấy chủ yếu các quyết định đưa ra có các hình thức
sau
17
:
- Vợ chồng cùng bàn bạc, cùng quyết định: việc lựa chọn đưa ra các quyết định
liên quan đến vấn đề kinh tế họ hiện nay chỉ khoảng trên 30% là có bàn bạc bình đẳng, còn

16
Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, Bộ văn hóa thể thao du lịch, Tổng cục thống kê, UNICEF và Viện gia đình
và giới. Hà Nội, tháng 6 năm 2008, tr. 80

17
Đặng Thanh Phúc- Nguyễn Phương Thảo, Thực trạng và nhận thức về bình đẳng giới của phụ nữ một xã miền núi, Tạp chí
Khoa học Phụ nữ, số 3 (46), 2001, Tr. 28
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

20

lại vẫn theo kiểu truyền thống (người đàn ông ra quyết định). Trên thực tế, một số loại hình
công việc quyết định truyền thống sang hình thức hai vợ chồng cùng quyết định. Chẳng hạn,
phân tích kết quả điều tra về việc phân công lao động trong gia đình trong những việc mà
trước đây thường coi là của đàn ông vì nó thể hiện quyền uy gia đình nhưng hiện nay hiện
nay, hình thức “cả hai vợ chồng cùng quyết định” đã chiếm ưu thế hơn 48% so với hình thức
“người chồng ra quyết định” 34% ( xem bảng 4)
- Vợ chồng cùng bàn bạc nhưng khi đưa ra quyết định sẽ là chồng hoặc vợ: là mô
hình thường áp dụng theo quan niệm “người đàn ông la nhiwngx việc lơn, người đàn bà làm
những việc nhỏ”. Những công việc lớn trong nông nghiệp ở Quân Khê mà người đàn ông
phải đảm nhiệm tương ứng với những phương hướng chiến lược làm ăn của cả gia đình
(50%). Đó là việc nên chồng cây gì nên nuôi con gì, đầu tư ra sao, . Về người vợ những
quyết định công việc được coi là nhỏ, là phụ, liên quan đến bếp núc, tiền nong, chợ búa. Vì
vậy việc bán những sản phẩm làm ra là việc của vợ.
Bảng 1: Quyết định các công việc liên quan đến sản xuất (%)

Ngư

i quy
ế
t đ

nh


Ch

ng

V


C


2

Ngư

i khác



ng làm ăn
trong kinh tế
50

6,7

42,7

0,7

Phân công lao
động

34,2

16,7

48,3

1,3

Mua
bán v

t
tư sản xuất
32,2

30,8

36,3

0,7

Bán v

t ph

m
làm được
7,3

57,3


34,7

0,7

Trong các gia đình khác nhau về mức học vấn, mức sống, số thế hệ, vùng cư trú, hay
dân tộc thì những người đàn bà đều có mối quan tâm giống nhau đối với những công việc
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

21

được gọi là phụ này. Tuy nhiên, trên thực tế vai trò giới khong nhất thiết tuân theo môt cách
máy móc mà vẫn có sự chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau giữa người vợ và người chồng. Đó là một
trong những nhân tố nền tảng để gia đình cùng tiến bộ.
Người vợ thường là người giữ tay hòm chìa khóa và quản lý tiền trong gia đình, một
mặt họ có thể chắt chiu hơn so với đàn ông, mặt khác phụ nữ phải lo chi tiêu cho việc ăn
uống hàng ngày nên việc họ giữ tiền dường như là hợp lý.
Hình thức cả hai vợ chồng cùng quản lý tiền có xu hướng ngày càng mở rộng (30%).
Nếu xét theo nhóm tuổi quản lý tiền thì ở tuổi trẻ (> 30 tuổi) người chồng tham gia quản lý
tiền chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn so với lứa tuổi >40, nhưng đối với người vợ lại ngược lại tỷ lệ
thuận với độ tăng của nhóm tuổi
18
.
Bảng 2: Người quản lý tiền trong gia đình nhóm tuổi (%)
Ngư

i qu

n lý ti


n

> 30 tu

i

31
-

40 tu

i

40 tu

i

Ch

ng

18,2

12,3

3,8

V



48,5

56,9

65,4

C


hai

30,3

30,8

28,8

Việc người phụ nữ, người vợ quản lý tiền trong gia đình chiếm tỉ lệ cao không đồng
nghĩa với việc họ có quyền sử dụng số tiền đó một cách tự do theo ý mình. Các phỏng vấn
sâu của nghiên cứu này cho thấy, nhóm phụ nữ chỉ được tự quyết định những chi tiêu phục
vụ cho sinh hoạt hàng ngày như ăn uống, quàn áo và một phần nào vào việc học hành của
con cái. Những việc chi lớn như mua sắm đồ dùng đắt tiền, tổ chức đám cưới, đám tang hoặc
do người chồng tự quyết định hoặc được sự bàn bạc của hai vợ chồng.

18
Đặng T hanh Phúc- Nguyễn Phương Thảo, Thực trạng và nhận thức về bình đẳng giới của phụ nữ một xã miền núi, Tạp chí
Khoa học Phụ nữ, số 3 (46), 2001, Tr. 26 29
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

22


Có 48% người được hỏi cho rằng trách nhiệm đối với việc thiếu tiền chi dùng trong
gia đình thuộc về cả hai vợ chồng, 32% cho là người chồng phải lo và 19% cho biết là người
vợ phải tự xoay xở.
Chính sự khác nhau trong việc quyết định việc chi tiêu đã dẫn đến trách nhiệm khác
nhau của người chồng và người vợ trong gia đình, có nghĩa là người vợ sẽ gặp phải lo lắng
khi thiếu tiến chi tiêu tiền hàng ngày. Còn người chồng là phải quan tâm khi thiếu những
khoản tiền chi tiêu lớn như đám cưới đám tang, mua vật liệu vật dụng đắt tiền.
Tuy nhiên, một nghiên cứu ở một phạm vi ở nông thôn
19
cho thấy việc quyết định mọi
khoản chi tiêu lớn của gia đình đều do cả 2 cùng tham gia bàn bạc quyết định chiếm tỉ lệ khá
cao xấp xỉ. Với thông tin thu được có vẻ như là khác nhau ở hai nghiên cứu nhưng thực sự
nó hoàn toàn không mâu thuẫn vì địa bàn nghiên cứu của hai nghiên cứu là khác nhau.
Bảng 3: Người quyết định chi tiêu theo nhóm và vùng nghiên cứu
Ngư

i
quyết định
Nhóm

Điểm NC
Mua
sắm
Xây
dựng
nhà cửa
Ti

n

học cho
con cái
Đám
hiếu,
đám hỉ
Khác


Vợ
Đ

ng b

ng

16,5

16,8

23,3

20,4

22,9

TD
-

MN


14,7

12,7

43,1

26,9

39,3

Chung

15,1

13

32,1

22,9

28,5


Chồng
Đ

ng b

ng


34

32,2

20,7

86,5

17,9

TD
-

MN

34,5

34,5

13,3

22,8

7,1

Chung

19,7

30,3


15,1

16,8

10,3


19
Đỗ Thị Bình, Mấy vấn đề về vai trò giới trong gia đình nông thôn hiện nay (qua nghiên cứu trường hợp các xã miền Bắc),
Tạp chí Khoa học Phụ nữ, số 3, 2001, Tr. 22
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

23


Cả 2
Đ

ng b

ng

46,3

47,2

54,6

60,3


55,3

TD
-

MN

48,8

51

42,1

48,5

51,9

Chung

53,1

54,6

51,2

58

58,7



Người khác

Đ

ng
b

ng

3,2

3,7

0,9

2,8

3,9

TD
-

MN

1,9

1,8

1,3


1,8

1,6

Chung

2,1

2,4

1,7

2,3

2,5

Hơn nữa, nếu xét cụ thể thì một số công việc lớn như xây dựng nhà cửa hoặc mua sắm
tài sản lớn thì tỉ lệ người chồng quyết đình chiếm một vị trí tương đối cao so với người vợ.
Những khoản chi tiêu khác không lớn mà người vợ thường ó tỷ lệ quyết định nhiều hơn
người chồng như học hành của con là một ví dụ.
Rõ ràng, tâm lý truyền thống đã ảnh hưởng đến vai trò của người chồng trong những
quyết định liên quan đến tài sản bảo lưu trong không ít những gia đình hiện nay, tư tưởng
trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại trong văn hóa của ta. Do vậy, mối quan hệ bình đẳng
trong sở hữu tài sản của vợ và chồng vẫn còn có phần nghiêng về người chồng nhiều hơn,
trong khi bản thân người vợ lại thường chấp nhận vai trò là một người mẹ với con cái nhiều
hơn, đó cũng là thiên chức vốn có của người phụ nữ.
3.2. Quyền quyết định sử dụng đất
Luật Đất đai và Luật Hôn nhân và Gia đình đảm bảo cho phụ nữ và nam giới được
hưởng các quyền như nhau đối với đất đai (Xem thêm Điều 15).

Nghị định 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ quy định : các hộ gia đình đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trước đây mà chỉ ghi tên chủ hộ thì có quyền yêu cầu cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có ghi tên cả vợ và
chồng.
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

24

Trên thực tế, phụ nữ còn thụ động, ít có cơ hội tham gia vào quá trình giao đất một
phần là do chưa nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong vần đề đất đai,
mặt khác do phong tục, tập quán lâu đời của nông thôn Việt Nam, người chồng thường là
chủ hộ, nên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cũng như sổ địa chính của
địa phương đều chỉ đăng ký tên chủ hộ. Tình trạng này đã gây khó khăn cho phụ nữ khi họ
cần thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn, chia quyền sử dụng đất khi ly hôn, khi đi lấy
chồng hoặc nhận thừa kế quyền sử dụng đất khi người chồng qua đời.
Tính đến cuối năm 2002, cả nước đã cơ bản hoàn thành việc giao ruộng đất cho gần
12 triệu hộ nông dân sử dụng đất nông nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nông nghiệp cho 91,74% số hộ, chiếm khoảng 87,02% diện tích đất nông nghiệp. Số giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do phụ nữ đứng tên chiếm khoảng 10-12% do chủ hộ là nữ
độc thân hay góa chồng.
Một trong những cách chính để tiền tệ hóa tài sản là sử dụng đất để thế chấp vay vốn.
Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây cho thấy trong số những phụ nữ bị từ chối không được
vay vốn, 20% nói rằng lý do là vì họ không có vật thế chấp (Quỹ phát triển khu vực tư nhân
Mêkông 2006). Mặc dù phong tục truyền thống của Việt Nam thừa nhận cả phụ nữ và nam
giới đều được thừa kế đất đai nhưng trên thực tế, ít phụ nữ được đứng tên chủ sử dụng đất.
Mặc dù đất đai đã được cấp cho các hộ gia đình nông thôn từ năm 1988 nhưng đa số giấy
CNQSDĐ đều do nam giới đứng tên. Bản sửa đổi Luật đất đai năm 2003 quy định tất cả giấy
CNQSDĐ mới phải bao gồm têncủa cả hai vợ chồng. Cho dù đây là một bước đi đúng hướng
và sẽ đảm bảo rằng rất nhiều phụ nữ tiếp cận được với đất đai và vốn tín dụng nhưng Luật lại
không yêu cầu sửa đổi các giấy CNQSDĐ được cấp từ trước. Có 81% các hộ gia đình trong

điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2004 có giấy CNQSDĐ cho một phần đất đai của
Bài tập giữa kỳ môn Chính sách xóa đói giảm nghèo – Nhóm 5

25

họ. Bảng 7 dưới đây phân chia các loại giấy CNQSDĐ theo người đứng tên chủ sử dụng đất.
20

Đối với gia đình Việt Nam, dù ở nông thôn hay ở thành phố, nhà ở, đất đai (đất ở, đất
canh tác, đất lâm nghiệp) luôn có giá trị đặc biệt lớn và rất quan trọng trong khối tài sản
được coi là bất động sản của mỗi hộ gia đình. Trước đây theo truyền thống, phần lớn nam
giới là người đứng tên chủ sở hữu các tài sản thuộc về chủ hộ. Số liệu điều tra cơ bản về gia
đình Việt Nam cho biết, có 79,7% hộ gia đình ở đồng bằng và 82,1% hộ gia đình ở trung du
– miền núi do nam giới làm chủ hộ đang đứng tên chủ sở hữu nhà ở và đất ở. Còn tại thành
phố, do tỷ lệ phụ nữ được phân nhà dưới thời bao cấp cao, nên số phụ nữ đứng tên chủ sở
hữu nhà cao hơn ở nông thôn, tỷ lệ này là 19,2% và chỉ có 49,8% nam giới đứng tên trong
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở.
21

Bảng 4. Nếu chỉ có một người đứng tên chủ sử dụng đất trong giấy tờ, thường đó là
nam giới
Lo

i đ

t

Ch



s


d

ng đ

t

Ch


nam gi

i

Ch


ph


n


C


hai


Đ

t nông nghi

p hàng năm

66

19

15

Đ

t


60

22

18

Nguồn: NHTG, 2006 sử dụng số liệu của Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2004.

20
Đánh giá tình hình giới ở Việt Nam, 12/2006, tr. 45
21
TS. DOÃN HỒNG NHUNG – Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Pháp luật đất đai và quyền lợi của phụ nữ,
ngày cập

nhật: 6/9/2010

×