Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tiểu luận: Nghèo và chính sách xóa đói giảm nghèo ở nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.61 KB, 21 trang )

1









Tiểu luận


NGHÈO VÀ CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO Ở NÔNG THÔN
2



Vấn đề nghèo và các chính sách xóa đói giảm nghèo ở nông thôn hiện nay
là một vấn đề đang được xã hội quan tâm, chú ý. Ở mỗi một quốc gia, thì vấn đề
này lại mang một màu sắc riêng, đặc trung cho quốc gia đó. Nghiên cứu về vấn đề
này đã có rất nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau, thể hiện những cái nhìn
đa chiều. Vậy nghèo đói được hiểu như thế nào, chính sách xóa đói giảm nghèo ở
nông thôn hiện nay ra sao, cần phải làm gì để những chính sách này hoạt động có
hiệu quả hơn
I. Khái niệm
:
Không có một định nghĩa duy nhất về nghèo, và do đó cũng không có một
phương pháp hoàn hảo để đo được nó. Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều
phương diện : thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tao thu nhập, thiếu tài sản để


đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn, và dễ bị tổn thương trước những đột
biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và những khó khăn đến những
người có khả năng giải quyết, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định, không
được người khác tôn trọng , đó là những khía cạnh của nghèo.
Trong từ điển Tiếng việt, khái niệm “giàu” dùng để chỉ những cá nhân,
những hộ gia đình có nhiều tiền, nhiều tài sản so với mức bình thường. Còn
“nghèo” là tình trạng không có hoặc có rất ít tiền bạc, của cải dùng để duy trì mức
tối thiểu nhu cầu đời sống vật chất, trái với “giàu”.
Theo tổ chức Liên Hợp Quốc, nghèo đói được hiểu theo 2 nghĩa “ nghèo
tuyệt đối” và “nghèo tương đối”. Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận
dân cư không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống
như nhu cầu ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục. Nghèo tương đối là tình trạng của
bộ phận dân cư có mức sống dưới trung bình của cộng đồng nơi địa phương đang
xét.
Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển.
Robert McNamara, khi còn là giám đốc Ngân hàng Thế giới, đã đưa ra khái niệm
nghèo tuyệt đối. Ông định nghĩa như sau : “ Nghèo ở mức độ tuyệt đối là sống ở
ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người
phải đấu tranh để sinh tồn trong trong sự thiếu thốn tồi tệ, trong tình trạng bỏ bê
và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn
của giới tri thức chúng ta.”
3

Ngân hàng thế giới xem thu nhập 1USD/ngày theo sức mua tương đương của địa
phương để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt
đối.
Bảng số liệu : Tỷ lệ nghèo theo ngưỡng “1 đô – la/ ngày”

Chỉ tiêu trung
bình đầu người

(theo đôla
PPP/tháng)
Tỷ lệ dân số sống dưới mức
1$ PPP/ngày 2$ PPP/ngày
1990 41,7 50,8 87,0
1993

48,9

39,9

80,5

1996

63,7

23,6

69,4

1998 68,5 16,4 65,4
1999 68,0 16,9 65,9
2000 71,3 15,2 63,5
2001 73,8 14,6 61,8
2002 78,7 13,6 58,2
2003 82,0 12,0 55,8
2004 85,5 10,6 53,4
(Nguồn: Ngân hàng thế giới, khu vực Châu Á Thái Bình Dương)
Chú thích : $ PPT : đô la theo sức mua tương đương

( Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 - Bảng 1.6 - Trang 14)
Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa
vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc
cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người
thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định só với sự sung túc của xã hội đó.
Một cách định nghĩa khác về khái niệm nghèo dựa trên tình trạng sống như
: cơ hội đào tạo, mức sống, quyền tự quyết định, ổn định về luật lệ, khả năng ảnh
hưởng đến những quyết định chính trị và nhiều khía cạnh khác.
Chương tình phát triển của Liên Hợp Quốc cũng đưa ra chỉ số phát triển
con người – HDI, theo đó các chỉ số HDI bao gồm : tuổi thọ dự tính vào lúc mới
sinh, trình độ học vấn, sức mua thựuc trên đầu người và nhiều chỉ thị khác.
Trong “ Báo cáo phát triển thế giới 2000” Ngân hàng Thế giới đã đưa ra bên cạnh
các yếu tố quyết định khách quan cho sự nghèo là những yếu tố chủ quan như
phẩm chất và tự trọng
II.Nguyên nhân dẫn đến nghèo
1.Chiến tranh
4

Chiến tranh được xét là một trong những nguyên nhân gây ra nghèo
đói.Chiến tranh có thể gây ra những thiệt hại sau:
+, Phá hủy cơ sở hạ tầng xã hội, kinh tế, xã hội.
+, Thiệt hại nghiêm trọng về nguồn nhân lực xã hội (người chết,
thương tật trong chiến tranh.)
+,Nguồn kinh phí khổng lồ bỏ ra phục vụ chiến tranh, đầu tư quân sự
+, Cuộc sống người dân bất ổn định.
Những thiệt hại này đương nhiên sẽ để lại hậu quả lâu dài. Một nền
kinh tế sau chiến tranh phải mất rất nhiều thời gian mới có thể phục hồi. Thêm
vào đó chính sách xã hội bị bỏ quên do tập trung đầu tư vào chiến tranh khiến cho
chất lượng cuộc sống của người dân kém. Vì vậy, số người nghèo gia tăng, nạn
đói xảy ra là không thể tránh khỏi.

Ví dụ: Hậu quả của chất độc da cam/dioxin ảnh hưởng đến môi trường và
sức khỏe của người Việt Nam.
2.Cơ cấu chính trị
Chế độ độc tài, quyền lực và lợi ích chỉ tập trung trong tay một số ít người
dẫn đến những chính sách chính phủ đề ra chỉ phục vụ cho mục đích của họ.
Trong khi đó lợi ích của người dân lại không được chú ý hoặc không có. Điều này
đã dẫn đến khả năng cải thiện đời sống của người dân thấp.
Điển hình như ta có thể kể ra đó là Philippin duới chế độ đôc tài của tổng
thống Ferdinand Marcos, đã khéo dùng thủ đoạn mị dân như tô vẽ thành tích
chống Nhật trong thế chiến thứ II, tạo cho mình hình ảnh một anh hùng võ nghệ
cao cường , dũng lược hơn người, có vợ từng là hoa hậu, để thu hút quần chúng.
Để kéo dài vô hạn định thời gian tại chức thay vì hai nhiệm kỳ 4 năm như hiến
pháp quy định , Marcos ban hành lệnh giới nghiêm năm 1971, rồi quân luật năm
1972. những năm cuối đời của Marcos đã là những năm cực kỳ đen tối cho
Philippin: loạn quân hồi giáo,, loạn quân cộng sản, cướp bóc, đàn áp, thủ tiêu,
biểu tình, bạo động…. trong bối cảnh tham nhũng cục kỳ trắng trợn, kinh tế
Philippin hoàn toàn suy sụp và nợ nước ngoài chồng chất. Hoa kỳ và các định chế
tiền tệ quốc tế thấy không còn tiếp tục ủng hộ Marcos được nữa, các áp lục càng
ngày càng tăng cao đòi M arcos từ chức, giới giàu có cũng cảm thấy quyền lơi của
họ không còn đi đôi với chế độ Marcos nữa. Marcos đắc cử tổng thống là do sự hỗ
trợ của giai cấp giàu có. Rõ ràng ở đây không có quyền lợi của người nghèo.
5

3.Cơ cấu kinh tế
Phân bố thu nhập không cân bằng, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia
tăng. Trong điều kiện kinh tế thị trường, khoảng cách này càng lớn, và dẫn đến
một thực trạng là người giàu ngày càng giàu hơn và người nghèo ngày càng nghèo
đi.
Tham nhũng phá hoại nền kinh tế, cản trở đà tăng trưởng . Vật chất của
hiện tại bị cướp đoạt dẫn đến đời sống của người nghèo ngày càng khó khăn.

Việc sử dụng các viện trợ hay những khoản vay quốc tế để cải thiện nền
kinh tế không hiệu quả dẫn đến phụ thuộc kinh tế, nợ nhiều. Hậu quả do người
dân gánh chịu mà phần lớn là người nghèo.Kinh tế trì trệ đồng nghĩa với việc chất
lượng cuộc sống không phát triển và phải gánh thêm những khoản nợ quốc gia.
4.Tụt hậu về giáo dục và công nghệ
Một nền giáo dục lạc hậu dẫn đến chất lượng giáo dục thấp. Con người
được đào tạo ra không có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường
đang ngày càng phát triển.
Nghiêm trọng hơn tụt hậu giáo dục ít nhiều liên quan đến tụt hậu về công
nghệ. Bởi trình độ thấp kém thì việc phát triển công nghệ hay tiếp thu công nghệ
hiện đại là rất khó khăn . Trong khi đó như ta đã biết giáo dục và công nghệ là
chìa khóa cho sự phát triển đi lên của một quốc gia. Không nắm được chiếc chìa
khóa này thì nền kinh tế không thể phát triển, một quốc gia như vậy là 1 quốc gia
nghèo.Người dân không thể giau có lên được. Người nghèo tăng
5. Thiên tai, bệnh tật
Thiên tai là hiệu ứng của một tai biến tự nhiên như lũ lụt,bão, động đất, hạn
hán, phun trào núi lửa, sóng thần…có thể ảnh hưởng tới môi trường,dẫn tới những
thiệt hại về cơ sở vật chất hạ tầng, thiệt hại về tài chính, môi trường và con người.
Nó gây ra tổn thất lớn cho nền kinh tế quốc gia cũng như đời sống của con người.
Để khôi phục lại những hậu quả do nó gây ra tốn rất nhiều công sức và tiền của.
Với gánh nặng đó con người khó có thể phát triển. Tình trạng nghèo lại diễn ra.
Cộng đồng có tỷ lệ bệnh tật cao dẫn đến sự thiếu vắng lao động cao, năng
suất giảm sút và nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng kém phát triển. Nó còn gây ra sự
khổ cực, đau buồn và chết chóc.Không ai có thể phủ nhận hậu quả do đại dịch
HIV/AIDS gây ra cho cộng đồng. Ngày 11/07/2004, phát biểu khai mạc hội nghị
quốc tế về đại dịch HIV/AIDS lần thư 15 tại Băng Cốc (Thái Lan), Tổng thư ký
Tổ chức lao động quốc tế (ILO), ông Hoan Xô – ma – vi –a cảnh báo số người
6

chết vì căn bệnh thế kỷ này sẽ lên đến 28 triệu vào năm 2005, và 48 triệu vào

năm 2010, rồi tăng tới 74 triệu năm 2015 nếu như không có những biện pháp hữu
hiệu ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh này.( theo Hà Nội mới)
6.Dân số phát triển quá nhanh
Cùng với việc dân số tăng nhanh, nhu cầu về tài nguyên, lương thực, nước
ngọt và đô thị hóa cũng tăng theo, đặt nhân loại trước nhiều thách thức cũng như
một loạt các vấn đề xã hội khác. Dân số tăng nhanh cũng đặt gánh nặng lên nền
kinh tế, các chính sách phúc lợi xã hội không được đảm bảo.
Để có đủ lương thực và nhiều nhu cầu khác cho số người ngày càng gia
tăng, nhiều diện tích rừng đã bị phá hủy: diện tích đất bạc màu gia tăng do bị khai
thá quá mức. Tổ chức Lương nông liên hợp quốc (FAO) và tổ chúc khác vừa cho
biết: Hơn 20% diện tích đất canh tác, 30% diện tích rừng và 10% diện tchs đồng
cỏ đang bị xuống cấp, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống khoảng 1,5 tỷ người, tức
là gần ¼ dân số toàn cầu.Báo cáo nhấn mạnh, bất chấp cam kết của các nước tham
gia Công ước chống sa mạc hóa của Liên hợp quốc, diện tích đất thoái hóa trên
toàn cầu vẫn tiép tục tăng lên, ngày càng nghiêm trọng hơn.
7. Tình trạng thất nghiệp
Thất nghiệp dẫn đến người lao đông không có thu nhập, không có khả
năng chi trả cho nhu cầu thiết yếu phục vụ cuộc sống, không đảm bảo được nhu
cầu khác như vui chơi, giải trí, học tập…để nâng cao trình độ góp phần phát triển
kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) (24/1/2010) cho biết tỷ lệ người
không có việc làm tăng mạnh tại khu vực Mỹ La Tinh và Caribe, ngoài ra, tỷ lệ
này cũng tăng cao tại châu Á, Trung Đông và tiểu vùng Sahara châu Phi. Theo
đó, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ La Tinh là 10%, Trung Đông và Bắc Phi là 18% còn
Đông Nam Á là 6,5%.
Theo ILO, hệ quả từ tỷ lệ thất nghiệp tăng cao là vô cùng lớn, theo đó
phải có ít nhất 1tỷ việc làm mới trong thập niên tới mới có thể đáp ứng mục tiêu
giảm 50% tỷ lệ cực nghèo vào năm 2015 của LHQ. Claire Harasty, tác giả của
báo cáo “Xu hướng việc làm toàn cầu” cho biết thêm, mục tiêu phát triẻn và giảm
nghèo thế kỷ của LHQ vào năm 2015 đang bị đe dọa. Tiếp đó, thông báo về tình

hình thất nghiệp có thể dẫn tới bất ổn xã hội tại khắp mọi nơi trên thế giới.
(Việt Báo theo VietNamNet số ra ngày 26/1/2010)
III. Vấn đề nghèo đói ở nông thôn Việt Nam hiện nay :
7

1. Những quan điểm nghiên cứu :
Nghiên cứu của Công ty ADUKI về "Vấn đề nghèo ở Việt Nam" đã
đề cập đến tính đa dạng của những định nghĩa khác nhau về cái nghèo đang được
sử dụng tại Việt Nam:
- UNDP sử dụng chuẩn nghèo đói dựa trên đánh giá các chỉ số phát triển con
người cho các nước phát triển trong đó có Việt Nam (HDI), dựa trên 5 tiêu
chí: tình trạng mù chữ, tuổi thọ, trẻ em thiếu cân, suy dinh dưỡng và sử
dụng dịch vụ y tế và nước sạch. Ngưỡng nghèo được xác định bằng chỉ số
hỗn hợp được quy định từ 0 đến 1.(Việt Nam vào thời điểm năm 1998 ở
mức 0,43)
- Ngân hàng Thế giới sử dụng chuẩn nghèo chung: tổng các mức nghèo về
LTTP đủ để đảm bảo 2100 calo/người/ngày. Ngưỡng nghèo đói được quy
ra tiền ĐVN và là 97.000đ vào năm 1993 và 149.000đ vào năm 1998.
- Tổng cục Thống kê sử dụng chuẩn nghèo về LTTP, quy ra “ giỏ hàng hoá”
và tiền đủ đảm bảo 2100 calo/người/ngày. Ngưỡng nghèo đói là 62500đ
vào thời điểm năm 1993 và 107.000đ vào năm 1998.
- Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội: có 2 giai đoạn khác nhau, trước năm
2000 chuẩn nghèo, đói được tính theo mức thu nhập bình quân đầu
người/tháng, quy ra thành kg gạo/người/tháng, và được quy định theo các
vùng lảnh thổ khác nhau trên cả nước: Đói tính chung cho cả nước theo các
mức độ khác nhau như đói, đói găy gắt ( thu nhập dưới 13.kg
gạo/người/tháng tương đương với 45.000đ.), nghèo nông thôn miền núi hải
đảo (15.kg gạo/người/tháng tương đương với 55.000đ.); nghèo nông thôn,
trung du(20.kg gạo/người/tháng tương đương với 70.000đ.); Nghèo thành
thị (25.kg gạo/người/tháng tương đương với 90.000đ.). Sau năm 2000

chuẩn nghèo đói được tính thành tiền ĐVN và cũng được tính theo khu vực
như trước đây: Nghèo nông thôn miền núi hải đảo 80.000đ/người/tháng;
nghèo nông thôn, trung du 100.000đ/người/tháng; Nghèo thành thị
150.000đ/người/tháng.
Vì có nhiều tiêu chuẩn đo lường khác nhau về nghèo đói được nhiều tổ
chức và cá nhân sử dụng trong nghiên cứu tại Việt nam, cho nên từ đó dẫn đến tỷ
lệ nghèo đói trong cả nước không thống nhất.

8

Bảng số liệu : Tỷ lệ nghèo đói từ các tổ chức khác nhau vào năm 1995
Ngân hàng thế giới Bộ LĐTB&XH Tổng cục Thống Kê

Nghèo cả nước: 51,0%
Thành thị: 27,0%
Nông thôn: 57,0%
Nghèo cả nước: 43,0%
Thành thị: 8,1,0%
Nông thôn: 30-35,0%
Đói thành thị: 6,45%
Đói nông thôn: 16-20,0%
Nghèo cả nước: 20,0%
Thành thị: 10,0%
Nông thôn: 22,14%
Đói thành thị: 3,3%
Đói nông thôn: 4,58%

Duy có một vấn đề tương đối thống nhất giữa các tài liệu nghiên cứu là
khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo trong xã hội có chiều
hướng gia tăng đáng kể, giá trị cụ thể vẫn khác nhau. Vấn đề này càng đậm nét

hơn trong tương quan so sánh giữa khu vực đô thị và nông thôn.
Chỉ tiêu để đo sự chênh lệch nghèo khổ thường được sử dụng là tỷ lệ thu
nhập của 20% thuộc hộ nghèo nhất với 20% thuộc hộ giàu nhất và được gọi là số
thu nhập bình quân, độ chênh lệch này càng lớn thì khoảng cách giàu nghèo càng
tăng.
Thực tế cho thấy rõ, các chỉ số xác định đói - nghèo và giàu - nghèo luôn di
động. ở một thời điểm, với một vùng, một nước nào đó, thì chỉ số đó được là đói,
nghèo hoặc giàu, nhưng sang một thời điểm khác, so sánh với một vùng khác,
nước khác, cộng đồng dân cư khác, thì chỉ số đo đó có thể mất ý nghĩa.
* Về “ngưỡng nghèo đói”
Ở các nước nghèo, cá nhân bị coi là nghèo đói khi có thu nhập dưới 0,5 USD/
ngày
- Châu Mỹ Latin và Caribe là: 2USD/ngày
- Các nước Đông Âu là: 4USD/ngày
- Các nước phát triển cao: 15 USD/ngày
( Nguồn : Ngân hàng thế giới : Báo cáo về tình hình phát triển Thế giới tấn công
đói nghèo – NXB CTQG – 2000/2001 – Trang 22)
Việt nam Ngưỡng nghèo đói mới nhất cho giai đoạn 2001-2005 và được
áp dụng từ 01 tháng 1 năm 2001 như sau:
- Thành thị: Mức thu nhập bình quân 150.000đ/người/tháng;
- Nông thôn: Mức thu nhập bình quân 100.000đ/người/tháng
9

- Nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000đ/ người/tháng
Việt Nam đã có ngưỡng nghèo đói riêng cho toàn quốc tương đối thống
nhất, và có sự điều chỉnh qua từng thời kỳ để cho phù hợp với tình hình phát triển
kinh tế xã hội. Nhưng các ngưỡng nghèo đói đặc thù cho từng vùng, từng khu
vực, vẫn chưa phản ánh được một cách toàn diện hoàn cảnh địa lý, tự nhiên, xã
hội của từng khu vực/vùng cụ thể, nhất là các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, việc đo lường nghèo đói qua các khía cạnh đa chiều của nó của

một số tổ chức Quốc tế tại Việt nam và cơ quan nghiên cứu trong thời gian gần
đây cho phép có được một cái nhìn tổng thể về nghèo đói, chứ không chỉ dừng lại
ở những trường hợp cá biệt. Nó giúp cho Chính phủ đề ra những mục tiêu định
lượng được và đánh giá các hành động.
2. Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam :
a. So sánh quốc tế
Báo cáo về tình hình phát triển thế giới năm 1995 của Ngân hàng thế giới
cho thấy Việt Nam ở vị trí thứ 5 kể từ nước nghèo nhất thế giới, tức là đứng trên
Mozambique, Tanzani, Ethiopia, Sierria Leon, nhưng đến năm 1997, Việt Nam đã
được nâng lên vị trí thứ 15 trong số 49 nước có thu nhập thấp nhất thế giới (tức là
đứng trên Mozambique, Ethiopia, Tanznia, Brundi, Malawi, Chad, Rwanda,
Serria Leon, Nepal, Nigeria, Burkina Faso, Madagaska, Bangladesh, Uganda.
Nếu lấy chỉ số phát triển con người (HDI) năm 1996 thì Việt Nam được tổ
chức Liên hợp quốc xếp như sau :
+, Về GDP xếp thứ 153/173,
+, Giáo dục: 102/173
+, Tuổi thọ bình quân:135/173.
Nếu so sánh với ranh giới nghèo khổ của thế giới thì khoảng cách cũng
giảm xuống rõ rệt.
+, Năm 1995 ranh giới nghèo khổ được xác định là 695 USD, giá trị 170
USD của Việt Nam thấp hơn 4 lần.
+, Năm 1997, với ranh giới nghèo khổ của thế giới là 765 USD, thì giá trị
240 USD của Việt Nam chỉ còn thấp hơn 3 lần.
+, Đến năm 2000 thu nhập bình quan đầu người của Việt Nam đã đạt tới
khoảng gần 400 USD thì khoảng cách đó chỉ còn vào khoảng 2 lần.

10

b.Diễn biến giàu nghèo ở nông thôn Việt Nam
Dựa vào số liệu thống kê, và khảo sát của các cơ quan chức năng(Bộ

LĐTB&XH, Tổng cục thống kê) và một số nghiên cứu của các tổ chức quốc tế tại
Việt nam có thể thâý sự biến động giàu nghèo ở Việt nam như sau:

- Thời kỳ 1955-1960:
Thu nhập bình quân 16-17 kg gạo/ người/tháng. Một nửa dân số nông thôn có thu
nhập trên mức trung bình, số người thu nhập từ 30-45kg gạo/người/tháng chiếm
khoảng 10%.
Nghèo tuyệt đối (thu nhập dưới 15kg gạo/người/tháng) chiếm 45-50%, trong đó:
+ Thiếu đói (thu nhập dưới 15kg gạo/người/tháng) chiếm 26-30%.
+ Đói gay gắt (thu nhập dưới 8kg gạo/người/tháng) chiếm 7-12%.
Chênh lệch giữa người có thu nhập cao với nhóm nghèo khoảng 4 lần. Hầu như
không có người giàu.

- Thời kỳ 1961-1965:
Thu nhập bình quân 17-18 kg gạo/người/tháng. Một nữa dân nông thôn có thu
nhập trên trung bình, số người có thu nhập từ 30-45kg gạo/người/tháng chiếm
khoảng 10%.
Nghèo tuyệt đối chiếm 45-50%, trong đó:
+ Thiếu đói 24-29%
+ Đói gay gắt chiếm 6-11%.
Chênh lệch giữa người có thu nhập cao với nhóm nghèo khoảng 5 lần. Hầu như
không có người giàu
- Thời kỳ 1966-1975:
Thu nhập bình quân 13 kg gạo/người/tháng. Số người có thu nhập từ 30-40kg
gạo/người/tháng chiếm khoảng 9- 10%.
Nghèo tuyệt đối chiếm 60-76%, trong đó:
+ Thiếu đói chiếm 33-44%
+ Đói gay gắt chiếm 7-26%
Chênh lệch giữa người có thu nhập cao với nhóm nghèo khoảng 4 lần. Hầu như
không có người giàu

11

- Thời kỳ 1976-1980:
Thu nhập bình quân 14-15 kg gạo/người/tháng. Số người có thu nhập từ 30-40kg
gạo/người/tháng chiếm khoảng 10%.
Nghèo tuyệt đối chiếm 54-72%, trong đó:
+ Thiếu đói 33-39%
+ Đói gay gắt chiếm 7-20%.
Chênh lệch giữa người có thu nhập cao với nhóm nghèo khoảng 4 lần. Hầu như
không có người giàu
- Thời kỳ 1981-1988:
Thu nhập bình quân 17 kg gạo/người/tháng. Số người có thu nhập từ 30-70kg
gạo/người/tháng chiếm khoảng trên 10%.
Nghèo tuyệt đối chiếm 40-50%, trong đó:
+ Thiếu đói 27- 29%
+ Đói gay gắt chiếm 7- 14%.
Chênh lệch giữa hai nhóm khá và nghèo đói giản ra khoảng 5 lần. Hầu như không
có người giàu.
- Thời kỳ sau 1988:
Thu nhập bình quân 25-29 kg gạo/người/tháng.
Thu nhập bình quân 27-32 kg gạo/người/tháng
Thu nhập bình quân 27-34 kg gạo/người/tháng
Thu nhập bình quân 29-34 kg gạo/người/tháng
Thu nhập bình quân 35,5-37kg gạo/người/tháng
Thu nhập bình quân 34-40kg gạo/người/tháng
Trên 10% dân cư có thu nhập:
70kg gạo/người/tháng (1989)
90kg gạo/người/tháng (1990)
110kg gạo/người/tháng (1991)
170kg gạo/người/tháng (1992, 1993)

Khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng và đạt tới 20 lần. Số người giàu xuất
hiện ngày càng nhiều và thu nhập trung bình của họ khoảng 500kg
gạo/người/tháng.
Tỷ lệ người nghèo tuyệt đối:
12

Năm 1993 chiếm 20-22%, trong đó:
+, Thiếu đói chiếm 10-13%
+, Đói găy gắt chiếm 5-7%
Ước tính năm 1994 tỷ lệ nghèo tuyệt đối chiếm 12-24%. Vói ngưỡng 15 kg gạo
đối vớiphía bắc và Tây Nguyên; 20 kg gạo đối với những vùng còn lại. Tỷ lệ này
sẽ còn tăng lên nếu tính giá gạo tăng đột biến trong năm 1994.
( Nguồn : Nghiên cứu chính sách xã hội nông thôn Việt Nam – Bùi Ngọc Thanh –
Nguyễn Hữu Dũng – Phạm Đỗ Nhật Tân – NXB CTQG Hà Nội – 1996 – Tr 42)

Số người có thu nhập từ 35,5-37kg gạo/người/tháng chiếm khoảng trên 10%.
Nghèo tuyệt đối chiếm 40-50%, trong đó
+,Thiếu đói 27- 29%
+, Đói gay gắt chiếm 7- 14%.
Chênh lệch giữa hai nhóm khá và nghèo đói giãn ra khoảng 5 lần. Hầu như không
có người giàu
Sự biến động nghèo đói qua 2 cuộc khảo sát theo khu vực nông thôn và đô thị
(tính trong nội bộ nhóm
Chia theo khu vực Nhóm nghèo
Khu vực đô thị 5,9 (1993) 3,6(1998)
Khu vực nông thôn 94,1 (1993) 96,4 (1998)
Sự biến động nghèo đói qua 2 cuộc khảo sát theo khu vực nông thôn và đô thị
(tính trong nội bộ vùng/khu vực
Chia theo khu vực Nhóm nghèo
Khu vực đô thị 5,4 (1993) 3,2(1998)

Khu vực nông thôn 24,1 (1993) 24,8 (1998)


c.Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam
*.Thành tự xóa đói giảm nghèo :
Hệ thống số liệu khảo sát điều tra cho ta thấy rõ thêm tiến bộ kinh tế
của Việt Nam theo chỉ số bình quân thu nhập đầu người.
13

+, Thứ nhất mức lương thực bình quân đầu người tăng tỉ lệ thuận với các năm
trong thời kỳ Đổi mới: 349 kg(1992); 359kg (1993); 361kg (1994); 372kg (1995);
390kg (1996); năm 200 là 455kg.
( Bộ LĐTH & XH – Chiến lược xóa đói giảm nghèo năm 2001 – 2010. Hà Nội
tháng 4 – năm 2001)
+, Thứ hai mức thu nhập bình quân đầu người tháng cũng tăng liên tục:
168.100đ (1994); 206.100đ (1995); 226.700đ (1996). Tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn
theo đánh giá của tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam đã giảm đi 21%, từ 66,4%
năm 1992-1993 xuống còn 44,9% năm 1997-1998.
( Tô Duy Hợp báo cáo khoa học : Phân tầng thu nhập và phân hóa giàu nghèo ở
nông thôn trong thời kỳ đổi mới – Thực trạng và giải pháp tháo gỡ - Hà Nội.
11/1998. trang 4)
+, Tỷ lệ người nghèo, tính theo chuẩn nghèo quốc tế, đã giảm liên tục từ hơn
60% vào năm 1990, xuống 58% vào năm 1993, 37% vào năm 1998, 32% vào năm
2000, 29% vào năm 2002 và còn 18,1% vào năm 2004.
( LHQ : Bứt khỏi thực trạng của nước nghèo, Hà Nội năm 2000. tr 1)
Năm 2006 có khoảng 10,8% số hộ được xếp vào loại thiếu ăn (nghèo lương
thực) theo chuẩn nghèo quốc tế.
Căn cứ vào chuẩn nghèo quốc gia do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
ban hành, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ hơn 30% năm 1990, 30% vào năm 1992,
15,7% năm 1998 xuống xấp xỉ 17% vào năm 2001(2,8 triệu hộ) và 10% năm

2000.
Từ năm 1992 đến 2004, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam đã giảm từ 30% xuống
còn 8,3%. Tính đến tháng 12-2004, trên địa bàn cả nước có 2 tỉnh và thành phố cơ
bản không còn hộ nghèo theo tiêu chuẩn; có 18 tỉnh tỷ lệ nghèo chiếm 3-5%; 24
tỉnh có tỷ lệ nghèo chiếm 5-10% Đáng kể trong chương trình Xóa đói giảm
nghèo là những xã nằm trong diện 135 (xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn) đã có
những thay đổi biến chuyển rõ nét. Nếu năm 1992, có tới 60-70% số xã nghèo
trong diện 135, thì đến năm 2004 giảm xuống còn khoảng 20-25%.
Số hộ nghèo của năm 2004 là 1,44 triệu hộ, tỷ lệ nghèo là 8,3%, đến cuối
năm 2005 còn khoảng dưới 7% với 1,1 triệu hộ. Như vậy tỷ lệ hộ nghèo năm
2005 đã giảm khoảng 50% so với năm 2000.
14

Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có
khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số. Tuy nhiên, trên diễn đàn Quốc hội
Việt Nam, rất nhiều đại biểu cho rằng tỷ lệ hộ nghèo giảm không phản ánh thực
chất vì số người nghèo trong xã hội không giảm, thậm chí còn tăng do tác động
của lạm phát (khoảng 40% kể từ khi ban hành chuẩn nghèo đến nay) và do suy
giảm kinh tế. Chuẩn nghèo quốc gia của Việt Nam hiện nay là gồm những hộ có
mức thu nhập bình quân từ 200.000 đến 260.000 đồng/người/tháng.

Như vậy, sau một thời gian dài nỗ lực cố gắng Việt Nam đã tự thoát ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội cuối thập kỷ 80 vừa qua và đã tạo ra sự thay
đổi mang tính chất bước ngoặt trên con đường xoá đói, giảm nghèo. Nhưng xét
trong tương quan so sánh quốc tế thì cho đến nay, Việt Nam vẫn thuộc nhóm
nghèo nhất thế giới. Riêng về lương thực, đến năm 1996 tuy đã đạt bình quân
390kg/người, nhưng vẫn chưa đạt đến mức an toàn lương thực tối thiểu theo chỉ
tiêu mà FAO đưa ra - 500kg, khoảng sai lệch đến 1,28 lần. Nếu lấy giá trị
700USD/năm là đường ranh giới nghèo khổ của thế giới thì thu nhập bình quân
đầu người của Việt Nam vẫn còn khoảng sai lệch thấp hơn khoảng 2 lần, bởi vì

mới chỉ đạt khoảng gần 400USD/người vào năm 2000. Vị trí của Việt Nam cho
đến nay vẫn dưới ranh giới nghèo khổ của thế giới xấp xỉ 2 lần. Tính đến năm
2000 theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới phạm vi nghèo đói vẫn chiếm 30-
35% dân số, và tỷ lệ nghèo đói ở Việt nam từ 58% năm 1993 đã giảm xuống 37%
vào năm 1999 và 30% vào năm 2000. Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương
binh & Xã hội có đến 1,5 triệu người thiếu đói kinh niên, và theo chuẩn quốc gia
thì tỷ lệ nghèo đói vào năm 1992 là trên 30%, năm 1999 là 13%, năm 2000 là
10%. Còn theo định nghĩa rộng hơn về đói nghèo của Ngân hàng thế giới thì
không ít hơn 28 triệu người (37,4%) còn sống dưới mức thu nhập tối thiểu cần
thiết để có một mức sống hợp lý.
* Hạn chế:
Tuy nhiên bên cạnh đó nhiều hộ gia đình vừa thoát nghèo vẫn rất dễ rớt trở
lại vào cảnh nghèo đói.
- Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng và có xu hướng chậm lại,
các hệ số tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo từ 1 - 0,7 trong những năm 1992 -
1998, giảm xuống còn khoảng 1 - 0,3 giai đoạn 1998 - 2004. Bình quân trước đó
mỗi năm giảm 34 vạn hộ nghèo.
15

- Bất bình đẳng trong thu nhập:
+, Giữa các vùng:
. Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi vẫn còn cao, gấp từ 1,7 đến 2
lần tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước.
. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tổng số hộ
nghèo của cả nước có chiều hướng tăng từ 21% năm 1992 lên 36% năm 2005.
. Tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có
nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp kém,
trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai.
Ngoài ra, xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang đô thị hóa và
nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp nhiều khó khăn hơn và phải

chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những điều kiện cơ bản
làm gia tăng yếu tố tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm
nghèo giữa các vùng. Các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tốc độ
giảm nghèo nhanh nhất, song đây cũng là những vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
+, Chênh lệch giũa các nhóm:
Thu nhập giữa các nhóm giàu và nhóm nghèo có xu hướng gia tăng (tỷ số Ghini
giảm), trong những năm gần đây :
. Chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm giàu và 20% nhóm
nghèo từ 4,3 lần năm 1993 lên 8,14 lần năm 2002.
. Chênh lệch giữa 10% nhóm giàu nhất và 10% nhóm nghèo nhất
từ 12,5 lần năm 2002, tăng lên 13,5 lần năm 2000.
. Mức độ nghèo còn khá cao, thu nhập bình quân của nhóm hộ
nghèo ở nông thôn chỉ đạt 70% mức chuẩn nghèo mới. Sự gia tăng khoảng cách
giàu - nghèo sẽ làm cho tình trạng nghèo tương đối trở nên gay gắt hơn, việc thực
hiện các giải pháp để giảm nghèo sẽ càng khó khăn hơn.
Sai lệch kết quả thống kê Căn cứ vào kết quả chính thức điều tra mức sống
hộ gia đình năm 2002 và kết quả sơ bộ khảo sát mức sống của hộ gia đình năm
2004, theo chuẩn nghèo quốc gia (2001), Tổng cục Thống kê đã tính toán và ra
thông cáo báo chí về tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia mới cho năm 2002
và sơ bộ cho năm 2004. Theo đó, tỷ lệ nghèo năm 2002 của Việt Nam là 23%,
năm 2004 là 18,1%, năm 2005 là 8,3% . Nhưng với chuẩn mới từ Quyết định số
170/2005/QĐ –TTg ngày 08 tháng 7 năm 2005 ban hành chuẩn nghèo áp dụng
16

cho giai đoạn 2006 - 2010, tỉ lệ hộ nghèo của năm 2005 sẽ tăng từ 8,3% như hiện
nay (chuẩn 2001) lên đến trên 26% là khoảng 4,6 triệu hộ.
Phần đông người nghèo ở Việt Nam sống trong hoàn cảnh bị tách biệt về
mặt địa lý, dân tộc, ngôn ngữ, xã hội và kinh tế. Kinh nghiệm của các nước khác
cho thấy rằng lợi ích thực sự của tăng trưởng kinh tế ít đến được với các nhóm
người chịu thiệt thòi này.

Các đặc trưng chính của người nghèo Việt Nam - là nông dân, có trình độ
văn hoá tương đối thấp, tương đối đông con, ít có điều kiện sử dụng các nguồn
lực vật chất như đất đai, và ít có điều kiện sử dụng cơ sở hạ tầng và vật chất-
chính là các đặc trưng chính của người nghèo ở nhiều nước đang phát triển.
Sự phân cực giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Kết quả điều tra cho thấy mức
chênh lệch về thu nhập khi so sánh 20 nhóm có thu nhập cao nhất và 20% có thu
nhập thấp nhất ở vùng nông thôn là 7,3 lần (năm 1996) tăng lên 11,23 lần (năm
1998). hệ só chênh lệch mức sống giữa dân cư thành thị và nông thôn khoảng 5-7
lần, mức thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn so với thành thị hiện nay chỉ
bằng 50%.
( Bộ LĐTB & XH – Chiến lược xóa đói giảm nghèo 2001- 2010. Hà Nội 4/2001.
tr 2)
3. Những khác biệt về nhóm người nghèo ở nông thôn và đô thị :
a) Nhóm người nghèo đô thị gồm:
Những người di cư nghèo
Người nghèo có quá nhiều con
Những người nghèo thường xuyên đau ốm và bệnh tật
Những người già cô đơn, người tàn tật, người trí tuệ kém phát triển…
Những người nghèo bán rong trên đường phố, hoặc các dịch vụ khác có thu
nhập thấp.
Những người lang thang


b,Nhóm người nghèo nông thôn gồm:
Những người già cô đơn, người tàn tật, người trí tuệ kém phát triển
Người nghèo có quá nhiều con
Những người sản suất thuần nông
17

Những người bị thiên tai, mất đất, thiếu đất

Như vậy nhìn vào 2 nhóm người nghèo đô thị và nông thôn ta thấy rõ tình
trạng “nông thôn hoá” đô thị, bởi vì trong nhóm người nghèo đô thị có thể nói
phần lớn là do người nghèo nông thôn di cư mà tạo thành. Chính vì vậy, nếu quá
tách bạch nghèo đói đô thị với nông thôn thì sẽ không bao quát hết được vấn đề
nghèo đói, bởi sự đan xen của nó. Đặc biệt, hiện nay vẫn còn có sự nhìn nhận còn
quá cứng nhắc việc xác định nghèo đói đô thị và nông thôn. Đặc biệt trong chính
sách xoá đói giảm nghèo nếu chỉ chú trọng khu vực nông thôn mà không nhìn
nhận thấy hết những “phức tạp của nghèo đói đô thị” thì dễ dẫn đến tình trạng
phiến diện trong các chủ trương.

Bảng số liệu : Tỷ lệ nghèo và khoảng cách nghèo

Tính theo phần trăm 1993 1998 2002
Tỷ lệ nghèo
Thành thị
Nông thôn
Người Kinh và người Hoa
Dân tộc thiểu số

58,1
25,1
66,4
53,9
86,4
37,4
9,2
45,5
31,1
75,2
28,9

6,6
35,6
23,1
69,3

Nghèo lương thực
Thành thị
Nông thôn
Người Kinh và người Hoa
Dân tộc thiểu số

24,9
7,9
29,1
20,8
52,0

15,0
2,5
18,6
10,6
41,8

10,9
1,9
13,6
6,5
41,5
Khoảng cách nghèo
Thành thị

Nông thôn
Người Kinh và người Hoa
Dân tộc thiểu số
18,5
6,4
21,5
16,0
34,7
9,5
1,7
11,8
7,1
24,2
6,9
1,3
8,7
4,7
22,1
( Ghi chú : tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm dân số. Khoảng cách
nghèo đo mức chênh lệch trung bình giữa chi tiêu của người nghèo với ngưỡng
nghèo, tính bằng phần trăm so với ngưỡng nghèo.)
(Nguồn : bảng 1.1 – Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 – trang 9)
18

4. Nguyên nhân của nghèo đói
Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc xác định nguyên nhân của đói
nghèo.
Tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt Nam Sau khi nghiên cứu thực địa đã đi
đến kết luận: " Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng đói nghèo cho các hộ gia
đình, các làng xã và các nhóm dân cư khác nhau. Trong đó năm nguyên nhân

thường xuyên tác động lẫn nhau gây nên tình trạng đói nghèo ở Việt Nam là:
+, Sự cách biệt, cả về địa lý xã hội lẫn tri thức.
+, Rủi ro quá cao do mất mùa, bệnh tật, sinh con ngoài ý muốn, hoặc gia
súc gia cầm bị chết.
+, Thiếu nguồn lực sản xuất thích hợp do thiếu lao động, đất đai hoặc
vốn.
+, Tthiếu khả năng duy trì bền vững, chủ yếu do rừng bị thu hẹp lại.
+, Thiếu sự tham gia thoả đáng vào các chương trình của chính phủ.
Các cuộc khảo sát, nghiên cứu khác cũng nêu lên các nguyên nhân dẫn đến
đói nghèo như: do sự trở ngại về địa lý và sự phát triển thấp kém của địa phương;
do thiếu việc làm, đông con, thiếu vốn, ốm đau, rủi ro, do hậu quả của chiến
tranh; do tiêu cực, lười biếng
Có ý kiến đưa ra các nhóm nguyên nhân và trong mỗi nhóm nguyên nhân
lại bao gồm những nguyên nhân cụ thể, đó là:
* Nhóm 1: Bao gồm những nguyên nhân chủ quan như :
- Sai lệch thống kê: do điều chỉnh chuẩn nghèo của Chính phủ lên cho gần với
chuẩn nghèo của thế giới (1USD/ngày) cho các nước đang phát triển làm tỷ lệ
nghèo tăng lên.
- Việt Nam là nước nông nghiệp đến năm 2004 vẫn còn 74,1% dân sống ở nông
thôn trong khi tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc gia thấp.
Hệ số Gini là 0,42 và hệ số chênh lệch là 8,1 nên bất bình đẳng cao trong khi thu
nhập bình quân trên đầu người còn thấp.
- Người dân còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa có các
biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như: thiên tai, dịch bệnh, sâu
hại, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thất nghiệp, rủi ro về giá sản phẩm đầu
vào và đầu ra do biến động của thị trường thế giới và khu vực như khủng hoảng
19

về dầu mỏ làm tăng giá đầu vào, rủi ro về chính sách thay đổi không lường trước
được, rủi ro do hệ thống hành chính kém minh bạch, quan liêu, tham nhũng.

- Nền kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng tuy khá nhưng chủ yếu là
do nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu mỏ trong khi
nguồn vốn đầu tư trong nước còn thấp. Tín dụng chưa thay đổi kịp thời, vẫn còn
ưu tiên cho vay các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả thấp, không thế chấp, môi
trường sớm bị hủy hoại, đầu tư vào con người ở mức cao nhưng hiệu quả còn hạn
chế, số lượng lao động được đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường còn thấp, nông
dân khó tiếp cận tín dụng ngân hàng nhà nước,
- Sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn, giữa các dân
tộc.
- Môi trường sớm bị hủy hoại trong khi đa số người nghèo lại sống nhờ vào
nông nghiệp.
- Hiệu quả quản lý của chính phủ còn hạn chế.
* Nhóm 2: Do những nguyên nhân khách quan như :
- Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến tranh
lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, bom mìn,
nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát trong chiến
tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh, học tập cải tạo
trong một thời gian dài.
- Chính sách nhà nước thất bại: sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính
sách tập thể hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá lương
tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy
kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nông thôn cũng như thành
thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm.
- Ảnh hưởng của chế độ bao cấp trong một thời gian dài, việc áp dụng chế độ
sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu đã
làm thui chột động lực sản xuất.
- Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị lao
động, không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính sách quản
lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông dân di cư, nhập
cư vào thành phố.

20

- Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do nguồn
vốn đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các công trình sử dụng vốn của Nhà nước
- Dân số tăng quá nhanh. Năm 2009 : 86tr người
5. Một số khuyến nghị :
Cần phải xem nghèo đói như là một vấn đề chung của một quốc gia của
một dân tộc, để từ đó có được những giải pháp giảm nghèo toàn diện hơn. Nếu có
phân theo vùng, khu vực là để thấy được những đặc thù, khác biệt về địa lý kinh
tế-xã hội mà có chính sách ưu tiên cho phù hợp với từng vùng từng khu vực và
từng giai đoạn cụ thể. Sự phân biệt chỉ có tính tương đối vì thế trong việc hoạch
định chính sách không nên quá tuyệt đối hoá vùng, khu vực nào. Kinh nghiệm của
các nước phát triển cho thấy khi có một đô thị đủ mạnh thì nó có thể kéo theo sự
phát triển của các vùng nông thôn ngoại vi.
Nghiên cứu về nghèo đói góp phần vào việc xoá đói giảm nghèo. Các
nghiên cứu về nghèo đói sẽ tạo thành một hệ thống các luận cứ khoa học là cơ sở
cho việc xoá đói giảm nghèo. Trong các nghiên cứu trong thời gian trước đây hầu
như mới chỉ chú ý đến khía cạnh kinh tế của hiện trạng nghèo đói, các nguyên
nhân văn hoá, chưa được quan tâm đúng mức. Việc vạch ra những đặc trưng văn
hoá của nhóm nghèo, đồng thời tìm hiểu những lý do văn hoá nào dẫn đến tình
trạng ng.hèo đói sẽ rất quan trọng trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo. Quan
điểm cho rằng chính văn hoá vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh
tế đang được thực tiển xác minh. Vì vậy cần có nhiều hơn nữa những nghiên cứu
từ hướng tiếp cận văn hoá xã hội ở quy mô lớn hơn để có thể nhận diện và giải
quyết vấn đè nghèo đói một cách toàn diện hơn.
Chính sách dân tộc nói chung và giảm nghèo cho vùng đồng bào dân tộc
nói riêng là một bộ phận đặc thù trong hệ thống chính sách xoá đói, giảm nghèo
của Nhà nước, tập trung hướng đến đối tượng người nghèo là đồng bào dân tộc
thiểu số ở các vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư phát triển sản

xuất trên địa bàn các huyện nghèo bằng các chính sách hưởng ưu đãi như doanh
nghiệp nhà nước theo quy định hiện hành. Có chính sách khuyến khích thu hút
các tổ chức, nhà khoa học nghiên cứu, thử nghiệm giúp huyện nghèo xác định các
giống cây trồng vật nuôi phù hợp. Đồng thời hỗ trợ 100% các chi phí đào tạo và
làm thủ tục để lao động nghèo có điều kiện tham gia xuất khẩu lao động, phấn đấu
21

mỗi năm đưa khoảng từ 7.500 - đến 8.000 lao động ở các huyện nghèo đi lao
động ở ngoài nước góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo
.

Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, dạy nghề
gắn với việc làm và nâng cao đội ngũ cán bộ cơ sở. Đồng thời, tăng cường bố trí
cán bộ chuyên môn cho các huyện nghèo bằng việc thực hiện chính sách luân
chuyển cán bộ chuyên môn từ tỉnh về công tác tại các huyện nghèo trong thời hạn
từ 3-5 năm; Bố trí cán bộ kỹ thuật cung cấp dịch vụ tổng hợp về nông, lâm nghiệp
cho các huyện nghèo; Đãi ngộ và ưu đãi thoả đáng để thu hút, khuyến khích trí
thức trẻ tình nguyện về tham gia tổ công tác tại các xã thuộc huyện nghèo. Bên
cạnh đó, cần có chính sách, cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả thôn, bản, xã, huyện.
như đẩy mạnh thực hiện quy hoạch các điểm dân cư ở những nơi có điều kiện,
tăng cường hiệu quả đầu tư của nhà nước và thụ hưởng của người dân; ưu tiên đầu
tư các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh từ
các nguồn như trái phiếu Chính phủ, vốn từ các chương trình dự án, vốn ODA và
nguồn đầu tư của chính phủ cho các huyện nghèo.


×