Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TIN DÂN, DỰA VÀO DÂN. KẾ THỪA, VẬN DỤNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.83 KB, 35 trang )

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
******

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
*****

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TIN DÂN, DỰA VÀO
DÂN. KẾ THỪA, VẬN DỤNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY.


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................

Điểm số:
TIÊU CHÍNỘI DUNG

BỐ CỤC

TRÌNH BÀY

TỔNG


ĐIỂM
Ký tên

2


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
THỨ TỰ

NHIỆM VỤ

THỰC HIỆN

3

KẾT QUẢ

KÝ TÊN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………5
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………………...5
2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………………….6
3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………………………6
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu……………………………………………7
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn…………………………………………………………...7
NỘI DUNG……………………………………………………………………………….8
Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tin dân, dựa vào dân…………………………..8
1.1 Lý luận chủ nghĩa Mác Lênin về tin dân, dựa vào dân………………………………8

1.2 Cơ sở hình thành tư tưởng “tin dân, dựa vào dân” của Hồ Chí Minh………………..16

1.2.1 Kế thừa tư tưởng “tin dân, dựa vào dân” trong truyền thống dân tộc……..…16
1.2.2 Tinh hoa văn hóa nhân loại…………………………………………………..18
1.3 Đảng ta quán triệt quan điểm “Nước lấy dân làm gốc” trong quá trình đổi mới…….19
Chương 2. Vận dụng trong sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay………………..23

2.1 Những biểu hiện cụ thể của việc “tin dân, dựa vào dân” trong đời sống hiện nay…..23
2.2 Vai trò của quần chúng nhân dân…………………………………………………….23
2.3 Thực trạng về việc vận dụng trong sự nghiệp đổi mới của nước ta………………….25
2.4 Một số giải pháp thúc đẩy sự tham gia của nhân dân trong xây dựng chính quyền hiện
nay………………………………………………………………………………………..31

KẾT LUẬN…………………….………………………………………………………..34
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………...…35

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Chúng ta biết rằng Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, người cha vĩ đại của dân tộc
Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới là tinh hoa của non sơng đất nước Việt Nam.
Người đã để lại cho Đảng, nhân dân ta, nhân loại một di sản tinh thần vô giá một hệ thống
lý luận về nhiều mặt. Tư tưởng của Người là ngọn đèn soi sáng cho con đường cách mạng
Việt Nam, không chỉ là giá trị lý luận thực tiễn đối với các giai đoạn cách mạng đã qua
mà còn là giá trị trường tồn đối với các hành trình đi lên dân tộc.
Tin dân, dựa vào dân, sống và đấu tranh vì dân là nguyên tắc tối cao trong tư duy
và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Người khái quát sâu sắc rằng: “Trong bầu trời
không gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết

của nhân dân”. Có thể nói, mọi tư tưởng, mọi sáng tạo của Hồ Chí Minh đều xuất phát từ
lịng u thương, kính trọng, tin tưởng ở nhân dân. Bởi vì, theo nguyên tắc đại đồn kết
Hồ Chí Minh lấy dân là gốc, là nền tảng, là chủ thể của đại đoàn kết, dân là nguồn sức
mạnh vơ tận của khối đại đồn kết, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, dân cũng là
chỗ dựa vững chắc của Đảng, của hệ thống chính trị.
Sau 29 năm đổi mới, đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn như đã phát huy được
tinh thần làm chủ của nhân dân, làm nhân dân tin tưởng vào đường lối chủ trương của Đảng
và chính sách pháp luật của nhà nước, những thành tựu đạt được là nhờ vào việc tập trung
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng trên cơ sở vận dụng tư tưởng lấy dân làm gốc
của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau cơng
tác xây dựng khối đại đồn kết vẫn gặp nhiều khó khăn, thử thách, đặc biệt trong việc tạo
điều kiện cho nhân dân làm chủ chưa phát huy được hiệu quả cao hay cơng tác dân vận cịn
gặp rất nhiều khó khăn và hạn chế. Chính vì vậy, trong di chúc, Hồ Chí Minh đã rất quan tâm
phải thực hành dân chủ rộng rãi, trước hết trong Đảng, Người đã chỉ rõ “Đảng ta là một Đảng
cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Đó là
5


vấn đề gắn liền với chỉnh đốn Đảng. Vì vậy toàn Đảng, toàn dân phải biết vận dụng và
phát triển hơn nữa quan điểm “tin dân, dựa vào dân” của chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy
hơn nữa vai trị của quần chúng nhân dân, động viên quần chúng cùng nhau nỗ lực phấn
đấu, xây dựng chặt chẽ hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân để lấy sức mạnh đó vượt qua
những thử thách để đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi theo con đường xã hội “ dân
giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ”.
Căn cứ vào ý nghĩa lý luận, thực tiễn trên nhóm chúng em chọn đề tài: “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về tin dân, dựa vào dân. Kế thừa, vận dụng trong sự nghiệp đổi mới của
nước ta hiện nay” để cùng nhau hiểu thêm về vấn đề này.


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1 Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ nội dung về tư tưởng “tin dân, dựa vào
dân” của Hồ Chí Minh, đánh giá thực trạng kế thừa, vận dụng trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay. Từ đó đề xuất các phương pháp giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong
việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong thời gian tới.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Xác định cơ sở hình thành, nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về “tin
dân, dựa vào dân”.
Đánh giá thực trạng kế thừa, vận dụng trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Đề xuất định hướng, giải pháp nhằm nâng cao khối đại đoàn kết của nước ta hiện
nay.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về tin dân, dựa vào dân. Kế thừa, vận
dụng trong sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay.

6


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
4.1 Cơ sở lý luận:
Dựa vào việc tìm hiểu về quan điểm, tu tưởng Hồ Chí Minh về tin dân, dựa vào dân, kết
hợp với vấn đề dân tộc. Kế thừa, vận dụng trong sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay.

4.2 Phương pháp nguyên cứu:
Tiểu luận đã áp dụng hai phương pháp nghiên cứu chính đó là phương pháp luận khoa
học của chủ nghĩa Mác- Lênin và các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí
Minh.
Phương pháp cụ thể: vận dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát, hệ
thống hóa, phương pháp nghiên cứu lịch sử thuộc về phương pháp nghiên cứu lý thuyết,

bên cạnh đó nhóm chúng em cịn sử dụng phương pháp phân tích – tổng kết kinh nghiệm
đối với việc nghiên cứu thực tiễn và ứng dụng.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
5.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khái quát rõ hơn tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh về Nhân dân; cung cấp nhận thức đúng đắn về quan niệm của Hồ Chí Minh về
Nhân dân và vị trí, vai trị của Nhân dân cũng như việc đảm bảo thực hiện vị trí, vai trị đó
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam; từ đó giúp cho việc sử dụng lực lượng vơ tận của
Nhân dân, phát huy lực lượng của Nhân dân trong xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung,
đổi mới đất nước hiện nay nói riêng.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án góp vào thực tiễn hoạt động của hệ thống chính trị
trong việc đảm bảo và phát huy vai trò của Nhân dân ở sự nghiệp đổi mới hiện nay; là tài
liệu phục vụ nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh.

7


NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TIN DÂN, DỰA VÀO
DÂN 1.1 Lý luận chủ nghĩa Mác Lênin về tin dân, dựa vào dân.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của Nhân dân trong việc xây dựng đất nước,
trong tư tưởng, trong thực tiễn hành động. Đề cao vai trị của Nhân dân, quyền lực của
dân, ln tin vào khả năng và sức mạnh của nhân dân. Theo quan điểm của Mác-Lênin
dân có giá trị khoa học, cách mạng và thực tiễn to lớn, là nền tảng trong công cuộc đổi
mới, thay đổi và xây dựng nền dân chủ xã hội của đất nước.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo
chân chính ra lịch sử và quyết định sự phát triển của lịch sử. Vận dụng sáng tạo quan điểm
Chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của nhân dân vào thực tiễn Việt Nam, trong suốt quá trình

lãnh đạo cách mạng, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ln đặc biệt nhấn mạnh
vai trò của “lòng dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Theo Người, Đảng xác định chủ trương,
mở ra đường lối lãnh đạo cách mạng, nhưng chính nhân dân và chỉ có nhân dân mới là người
hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng mà Đảng đề ra. Sẽ không bao giờ có lực lượng cách mạng
và phong trào cách mạng, nếu khơng có nhân dân. Theo Người, một trong những yếu tố
quyết định sự thành công của cách mạng là sự đồng sức, đồng lịng của tồn dân, là sự đồn
kết “mn người như một” dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng
và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, theo Người: “Sự đồng tâm của đồng bào đúc thành bức tường
đồng xung quanh Tổ quốc”. Người khẳng định: “Khơng qn đội nào, khơng khí giới nào có
thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”.

Thực tế lịch sử chứng minh “lòng dân” là cội nguồn sức mạnh của đất nước nói chung
và sức mạnh quốc phịng nói riêng. Đối với mỗi chế độ xã hội, “lòng dân” là khái niệm
chỉ trạng thái tinh thần, niềm tin, sự đồng lòng của người dân với chế độ xã hội và giai
cấp nắm quyền lãnh đạo xã hội. Đây là yếu tố rất quan trọng có tính quyết định đến sức
mạnh, sự hưng thịnh hay suy vong của mỗi triều đại, quốc gia, dân tộc. Sức mạnh “lịng
dân” chính là sức mạnh của dân tộc. Lịng dân n ổn thì đất nước vững vàng, phát triển.
8


“Thế trận lòng dân” được hiểu là tinh thần yêu nước, tình đồn kết gắn bó, khát vọng độc
lập tự do, ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của cả dân tộc được hội tụ, kết tinh, nhân
lên tạo thành nền tảng chính trị vững chắc, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, sẵn sàng
huy động nhằm thực hiện các mục tiêu của cách mạng. “Thế trận lòng dân” là loại hình
thế trận đặc biệt, khơng thể hiện ra bằng hình hài cụ thể như thế trận quân sự, quốc phòng
mà được thể hiện bằng sức mạnh nội sinh của quốc gia, dân tộc theo từng cấp độ khác
nhau. “Lòng dân” và “thế trận lòng dân” là hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ biện
chứng. “Lịng dân” ln tồn tại khách quan nhưng “lịng dân” có được quy tụ trở thành
sức mạnh tổng hợp hay khơng cịn tùy thuộc vào nỗ lực chủ quan của con người. Điều này

đòi hỏi giai cấp nắm quyền lãnh đạo xã hội, trực tiếp là lực lượng chính trị đại diện phải
tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp để định hướng, tập hợp, quy tụ “lòng dân” về một mối.
Chỉ có như vậy “lịng dân” mới hội tụ trở thành sức mạnh tổng hợp của quốc gia, dân tộc.
Thực chất đó chính là vai trị của lực lượng nắm quyền lãnh đạo xã hội trong việc chuyển
hóa “lịng dân” thành “thế trận lòng dân”. Khi được xây dựng vững chắc “thế trận lòng
dân” sẽ tác động trở lại làm cho “lòng dân” phát triển hài hòa.
Bài học sâu sắc nhất mà Đảng ta rút ra từ thực tiễn cách mạng là phải huy động, tập
hợp được sức mạnh của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Đại hội VI của Đảng xác định:
“Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”...

Trong các kỳ Đại hội VII và Đại hội VIII, bài học “lấy dân làm gốc” tiếp tục được Đảng
ta khẳng định. Văn kiện Đại hội IX, trong phần đánh giá quá trình đổi mới Đảng ta một
lần nữa chỉ rõ: “đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân”. Đến Đại hội lần
thứ XII, một trong năm bài học được Đảng ta đúc kết, đó là: “Đổi mới phải luôn luôn
quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai
trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm.
Tuy chưa sử dụng thuật ngữ “thế trận lòng dân” nhưng tư tưởng, quan điểm phát huy
sức mạnh “lòng dân” đã được Đảng ta nhất quán khẳng định trong đường lối quốc phòng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới, Đảng ta khẳng định: “Sức mạnh của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới chính là sức mạnh tổng hợp. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, sức
9


mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc là nhân tố quyết định”. Đến Đại hội X, Đảng ta lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ
“thế trận lòng dân”. Trong văn kiện Đại hội X, Đảng ta xác định: “Xây dựng “thế trận
lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc
Phát triển quan điểm “lấy dân làm gốc”, Đảng ta chủ trương: Xây dựng “thế trận lòng
dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, tại Nghị quyết Đại hội XI,

Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây
dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc
trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”. Để tăng cường “thế trận lòng dân” đáp ứng yêu
cầu mới của cách mạng, văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Xây dựng “thế
trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền QPTD và nền ANND” Trong nhiệm kỳ
Đại hội XII, quan điểm của Đảng ta về xây dựng “lòng dân” và “thế trận lòng dân” được thể
hiện sâu sắc hơn một bước. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương ban hành
nhiều chỉ thị, nghị quyết về vấn đề này. Đặc biệt, trước tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng
viên mắc bệnh quan liêu, xa dân, để củng cố “thế trận lịng dân”, Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII đã ban hành Quy định số 08, yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng
chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm khắc với bản
thân và kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chống độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa
dân, vơ cảm trước những khó khăn của nhân dân. Khẳng định vai trị, vị trí, tầm quan trọng
có tính cốt tử của “lòng dân” và “thế trận lòng dân.
Cùng với khẳng định, nâng tầm “thế trận lòng dân” là một trong những sức mạnh nội sinh
của dân tộc, văn kiện Đại hội XIII cũng nêu vấn đề này một cách rõ nét, tồn diện hơn, đó là:
“Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng
dân” trong nền QPTD và nền ANND; xây dựng, củng cố vững chắc thế trận QPTD và thế
trận ANND”. Điều này có nghĩa phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” phải gắn với tăng
cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, đặt trong nền QPTD và nền ANND; xây dựng, củng
cố “thế trận lòng dân phải gắn bó chặt chẽ với xây dựng, củng cố thế trận QPTD.

Mặt khác, văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: "Củng cố quốc phòng, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của
10


Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và tồn dân, trong đó QĐND là nịng cốt". Đây là
quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Không phải đến bây giờ mà
trong rất nhiều văn kiện Đảng ta đã khẳng định, xây dựng “thế trận lòng dân”, nền QPTD

vững mạnh là nhiệm vụ không của riêng ai mà đó là sự nghiệp cách mạng, là trách nhiệm
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, trong đó QĐND là nịng cốt.
Việc xây dựng QĐND-một đội quân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu” với
vai trò nòng cốt của “thế trận lịng dân”, của nền QPTD cũng chính là thể hiện tư tưởng,
quan điểm.
Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo: “Phải biết dựa vào dân, lắng
nghe dân, cái gì mà quần chúng nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết
tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì nhân dân khơng đồng tình, thậm chí căm
ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai
phạm” (5). Đặc biệt, trong bài: “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa
đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”, Tổng Bí thư nêu lại những bài học kinh
nghiệm, trong đó khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác
định "dân là gốc", thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân...”. Niềm tin của nhân dân chính là sức mạnh của Đảng, sức mạnh của “thế trận lòng
dân”, của nền QPTD. “Dân” là một khái niệm mang tính lịch sử. Khái niệm “dân” trong
tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm mọi người Việt Nam, là “con dân nước việt”, “mỗi một
con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt “ già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo”, trong đó đơng đảo
nhất, chiếm tuyệt đại đa số là công dân và nông dân.
Tin dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh là sự kế thừa và
nâng cao tư tưởng chính trị truyền thống của dân tộc: “nước lấy dân làm gốc”, “chở
thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Tin dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết
Hồ Chí Minh cũng là sự tiếp thu sâu sắc trong nhận thức, tình cảm và hành động theo
nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.
Tin dân, dựa vào dân, sống và đấu tranh vì dân là nguyên tắc tối cao trong tư duy và
hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Người khái qt sâu sắc rằng: “Trong bầu trời khơng
gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
11


dân. Có thể nói, mọi tư tưởng, mọi sáng tạo của Hồ Chí Minh đều xuất phát từ lịng u

thương, kính trọng, tin tưởng ở nhân dân. Bởi vì, theo ngun tắc đại đồn kết Hồ Chí
Minh lấy dân là gốc, là nền tảng, là chủ thể của đại đoàn kết; dân là nguồn sức mạnh vô
tận của khối đại đoàn kết, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng; dân cũng là chỗ dựa
vững chắc của Đảng, của hệ thống chính trị.
Qua hoạt động thực tiễn phong phú và sinh động của Hồ Chí Minh, càng thấy rõ tư
tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh là vấn đề chiến lược - đoàn kết chân thành, lâu dài, trong
sáng, thủy chung, “thanh khiết từ lớn đến nhỏ” như lời nhận xét của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp: “Trong lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi lực lượng của
nhân dân, của dân tộc là lực lượng quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Chiến lược
của Người là đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn dân tộc”.
Tin dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của Nhân dân trong tư tưởng đại đồn
kết Hồ Chí Minh là sự kế thừa và nâng cao tư tưởng chính trị truyền thống của dân tộc:
“Nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Đồng thời đó là sự
tiếp thu sâu sắc trong nhận thức, tình cảm và hành động theo nguyên lý chủ nghĩa Mác Lênin: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Hồ Chí Minh coi đồn kết là một chiến
lược, nhân tố cơ bản và là nhiệm vụ hàng đầu của đảng cách mạng. Từ khi truyền bá chủ
nghĩa Mác Lênin về nước đến cuối đời, mọi suy nghĩ, hành động của Người xoay quanh
những vấn đề cơ bản liên quan đến Nhân dân: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh
hạnh phúc, dân trí nâng cao, dân chủ thực hành; quan hệ của Nhân dân đối với hệ thống
chính trị, chế độ chính trị, sự nghiệp chính trị... Chính Nhân dân là cơ sở, động lực, đồng
thời cung cấp phương hướng để giải quyết những vấn đề mà cách mạng đang đặt ra.
Theo Bác, điều đầu tiên khi xây dựng lực lượng đại đoàn kết dân tộc là phải: Tin vào dân,
dựa vào dân. Hồ Chí Minh cho rằng dân là gốc rễ, là nền tảng của khối đại đồn kết. Do đó
khi trở thành người lãnh đạo, Bác đặt niềm tin tuyệt đối vào Nhân dân, ngay cả khi cách
mạng đang trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Người vẫn một lịng tin tưởng vào Nhân dân.
Người tin rằng “có dân sẽ có tất cả”, “có dân việc gì cũng làm được” và Người thường động
viên, nhắc nhở “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã
12



hiểu thì việc khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”
Với kinh nghiệm hoạt động cách mạng phong phú, Bác nhận thấy rằng dân chúng tai
mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy. “Dân chúng đồng lịng, việc gì cũng làm
được. Dân chúng khơng ủng hộ, việc gì làm cũng khơng nên”(2). Bác nói: Trong bầu trời
khơng gì q bằng Nhân dân, trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của
Nhân dân”. Đặc biệt, Bác ln nhắc lại câu ca dao của bà con Quảng Bình khi nói đến vai trị
của nhân dân: “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.

Thứ hai, để đạt mục tiêu của đại đồn kết thì nắm vững nguyên tắc: Phấn đấu vì
quyền lợi của Nhân dân. Trước khi cách mạng thành công, điều Bác luôn trăn trở, băn
khoăn là làm thế nào để đưa dân lên địa vị làm chủ chế độ chính trị? Làm thế nào để xây
dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân?... Hồ Chí Minh khơng nhìn lên trời để tìm
cách thức từ những đấng siêu nhiên, khơng nhìn vào kinh đô tráng lệ để trông cậy vương
quyền, không ỷ vào lực lượng bên ngoài nước để cầu mong cứu viện... mà Người nhìn
vào đời sống, mong ước của Nhân dân để tìm phương thức giải quyết vấn đề do chính
Nhân dân đặt ra, phương thức đó chính là tập hợp, đồn kết, phát huy vai trị, sức mạnh
của Nhân dân. Mặt trận phản đế ra đời ngày 18/11/1930, Hiến pháp năm 1946 ra đời ngay
khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... đã minh chứng cho quan điểm phấn
đấu vì quyền lợi của Nhân dân của Bác.
Sau khi đã giành được độc lập rồi thì vấn đề quan trọng là hạnh phúc tự do của
Nhân dân. Với nhận thức đó, đi đơi với chỉ đạo kháng chiến, Hồ Chí Minh tập trung vào
nhiệm vụ kiến quốc. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi
mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị
của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.
Có thể thấy, quan điểm tin dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của Nhân dân
khơng chỉ là động lực hình thành mà còn là điều kiện, nguyên tắc đảm bảo cho tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh đúng đắn, đi vào thực tiễn, khẳng định trong thực tiễn. Đây được xem
là nguyên tắc tối cao trong tư duy và hoạt động thực tiễn của Người. Những thắng lợi của
cách mạng Việt Nam trong hơn 90 năm qua đã chứng minh trên thực tế nguyên tắc tin vào
dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của Nhân dân là cội nguồn sức mạnh của Đảng.

13


Trong điều kiện ngày nay, để hoàn thành nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, yêu cầu mỗi
cán bộ, đảng viên phải nhận thức đúng, đủ tư tưởng đại đồn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
từ đó vận dụng vào thực tiễn cơng tác của mình. Ln xác định mình là cầu nối giữa Đảng
với Nhân dân nên phải hướng về cơ sở, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cơ sở, từ đó mới
tổ chức họ, hướng dẫn họ, đoàn kết họ, phát huy năng lực sáng tạo của họ, huy động đức, tài
của họ vào xây dựng đường lối, chính sách, bảo vệ và xây dựng đất nước.
Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng lý luận cơ bản để
Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc. Vấn đề dân tộc cũng
được xem như vấn đề có vị trí chiến lược.Trong từng giai đoạn cách mạng, vấn đề này được
nhận thức và giải quyết theo từng quan điểm cụ thể, phù hợp với tình hình thực tiễn.

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về
những đặc trưng cơ bản của dân tộc để làm cơ sở lý luận cho việc xây dựng chính sách
dân tộc. Theo đó, dân tộc được hiểu là sản phẩm của một q trình phát triển lâu dài của
xã hội lồi người. Dân tộc là cộng đồng người gắn liền với xã hội có Nhà nước, có giai
cấp. Là một khái niệm đa nghĩa, tuy nhiên xét về cơ bản, dân tộc được hiểu theo hai
nghĩa. Theo nghĩa rộng, dân tộc – quốc gia (nation) là chỉ một cộng đồng chính trị - xã
hội rộng lớn, gồm nhiều cộng đồng tộc người, được chỉ đạo bởi một Nhà nước, thiết lập
trên một lãnh thổ nhất định[1]. Cộng đồng người cùng một ngôn ngữ, văn hoá, sắc tộc,
nguồn gốc hoặc lịch sử và gắn liền với một quốc gia cụ thể nên còn gọi là quốc dân. Ví
dụ: dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào…Theo nghĩa hẹp, dân tộc (ethnic) là cộng đồng mang
tính tộc người, xuất hiện trong q trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt
bởi 3 đặc trưng cơ bản là ngơn ngữ, văn hố và ý thức tự giác về cộng đồng, mang tính
bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử. Ví dụ: dân tộc Thái, dân tộc Khmer.
Đồng thời, qua nghiên cứu và vận dụng lý luận về hai xu hướng khách quan trong
sự phát triển của dân tộc và quan hệ dân tộc cũng như Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã giúp cho Đảng ta có những quan điểm đúng đắn, phù hợp khi giải quyết

các quan hệ dân.
Thứ hai, cơng tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ và trách nhiệm
của toàn hệ thống chính trị, của tồn Đảng, tồn dân và tồn quân ta…Và vấn đề được đặt
14


ra là chúng ta phải biết quán triệt và vận dụng một cách đúng đắn, phù hợp những quan
điểm, đường lối của Đảng vào từng giai đoạn và hoàn cảnh lịch sử của từng dân tộc trong
cộng đồng 54 dân Theo đó, Đảng ta khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đồn
kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con
đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam…”[2]. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn nhất quán trong chủ trương, đường
lối và giữ vững nguyên tắc thực hiện chính sách dân tộc. Gần đây nhất, tại Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã nêu rõ “ Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược
trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hồn thiện các cơ chế, chính sách, đảm
bảo các dân tộc bình đẳng, tơn trọng, đồn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân
tộc, giúp nhau cùng phát triển…”[3]. Đồng thời, trên cơ sở thực tiễn về đặc điểm cơ bản
của quá trình phát triển tộc người và hình thành dân tộc - quốc gia ở Việt Nam mà Đảng
ta đã lấy làm căn cứ để đề ra những chính sách dân tộc hiện nay.
Một là, các dân tộc Việt Nam cư trú, sinh sống xen kẽ nhau và có sự chênh lệch khá
lớn về nhiều mặt. Trong 54 dân tộc anh em, dân tộc Kinh lại chiếm đa số khoảng 86% dân số
cả nước và chủ yếu sinh sống tại các thành phố, vùng đồng bằng, trung du. Trong khi đó, 53
dân tộc còn lại chỉ chiếm khoảng 14% dân số cả nước và tập trung chủ yếu ở vùng núi, biên
giới, hải đảo,.. như: Tây Bắc, Tây Nguyên và một số tỉnh khu vực duyên hải miền Trung…
Hai là, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đồn kết, tương thân tương ái, gắn bó lâu đời
trong q trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Những người anh hùng dân tộc như anh
hùng Núp (dân tộc Ba Na) trong kháng chiến chống Pháp, đồng bào dân tộc Pa Cô anh dũng
trong kháng chiến chống Mỹ,..đó là những tấm gương tiêu biểu của đồng bào dân tộc thiểu số
góp phần vào thành công chung của cách mạng nước nhà. Ba là, các dân tộc Việt Nam đều có
một bản sắc riêng tạo nên sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam. Trong đó, thì

bản sắc văn hóa của các dân tộc chính là yếu tố cốt lõi tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam nói
chung. Bốn là, xuất phát từ những vấn đề thực tiễn đã và đang đặt ra hiện nay cũng chính là
cơ sở quan trọng để đề ra những chính sách dân tộc đúng đắn, phù hợp. Có thể thấy, vừa qua,
một số vụ bạo loạn xảy ra ở Tây Nguyên, Tây Bắc do các thế lực thù địch cơng kích, lợi dụng
những sơ hở, thiếu sót của ta trong thực hiện các chính
15


sách dân tộc, tôn giáo nhằm âm mưu chia rẽ, phá hoại chính sách đồn kết dân tộc của ta.
Điều này đòi hỏi Đảng, Nhà nước cũng như các cấp, các ngành cần có những giải pháp
mềm mỏng, phù hợp để thực hiện các chính sách dân tộc hiện nay cũng như trong giai
đoạn tiếp theo.
1.2 Cơ sở hình thành tư tưởng “tin dân, dựa vào dân” của Hồ Chí Minh
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh
thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” .Bao trùm toàn bộ tư tưởng của Hồ Chí Minh
là lịng u nước, thương dân với mong muốn là nước nhà được độc lập, nhân dân được
tự do, ấm no, hạnh phúc. Đó chính là những nội dung quan trọng trong tư tưởng “tin dân,
dựa vào dân”. Tư tưởng “tin dân, dựa vào dân” của Hồ Chí Minh xuất phát từ thực tiễn
lịch sử của cách mạng Việt Nam, cũng như các tư tưởng khác, nó khơng phải tự nhiên mà
có, khơng phải hình thành trong ngày một, ngày hai mà đó là một q trình lâu dài tìm tịi,
xác lập và có sự kế thừa, phát triển, hồn thiện các tư tưởng trước đó, gắn liền với quá
trình hoạt động cách mạng phong phú của Người. Tư tưởng đó cũng là sự kế thừa tư
tưởng tin dân, dựa vào dân trong truyền thống lịch sử của dân tộc, tiếp thu tư tưởng “Dĩ
dân vi bản” của Nho giáo, tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn, đặc biệt là tiếp thu quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử cộng với quá trình hoạt động thực tiễn phong phú của Người đã góp phần

hình thành nên tư tưởng của Hồ Chí Minh về “tin dân, dựa vào dân”.
1.2.1 Kế thừa tư tưởng “tin dân, dựa vào dân” trong truyền thống dân tộc
Thứ nhất, kế thừa từ những giá trị truyền thống dân tộc. Từ thực tiễn của nhu cầu
dựng nước và giữ nước, người Việt Nam ý thức được muốn đánh thắng được giặc ngoại
xâm thì phải tập hợp được sức mạnh của tồn thể dân tộc. Muốn vậy thì phải thương dân,
yêu dân kính dân, phải “tin dân, dựa vào dân”. Tư tưởng “tin dân, dựa vào dân” của ông
16


cha ta được hình thành trên cơ sở thực tiễn đó. Tư tưởng chính trị “tin dân, dựa vào dân”
trong lịch sử dân tộc ta có nội dung phong phú và sâu sắc, được thể hiện dưới nhiều hình thức
cụ thể khác nhau, phổ biến là trong văn thơ, những lời nói được lịch sử ghi lại và bằng các
hành động thực tiễn của các nhà tư tưởng từ chính trí tuệ, tư tưởng, tình cảm của những con
người ưu tú. Nhân dân đã sản sinh ra họ, nuôi dưỡng họ và thực tiễn lịch sử đã tạo ra những
cơ hội lớn để họ thể hiện tài nẵng tâm huyết của mình phục vụ đất nước, dân tộc mình bằng
những chiến cơng hiển hách: Phạt Tống, bình Chiêm, chống qn Mông Nguyên và ách đô hộ
của nhà Minh, Thanh.. Nhà nghiên cứu Lê Thị Oanh đã nhận xét: “Trên cơ sở hoạt động thực
tiễn của mình những nhà tư tưởng tải ba, nhà quân sự lỗi lạc như: Lý Thường Kiệt, Trần
Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi... đã đúc rút nên những vấn đề mang tính quy luật trong dựng nước
và giữ nước, phát huy vai trò chỉ đạo thực tiễn, giải quyết kịp thời những đòi hỏi mà lịch sử
đặt ra là phải dựa vào dân, sức mạnh của dân để bảo vệ đất nước. Muốn vậy thì phải “khoan
thư sức dân “phải” thực hành nhân nghĩa đối với dân”. lo cho dân an cư lạc nghiệp sống hạnh
phúc ấm no thì trong thời chiến mới có thể dựa vào kháng chiến thắng lợi. Một nhà nước
được sự ủng hộ của nhân dân thì khơng kẻ địch nào đánh thắng được và trường tồn mãi mãi.
Ngược lại nếu không biết dựa vào dân thì sẽ suy tàn, diệt vong. Thực tiễn đã chứng minh điều
đó. Như vậy, tư tưởng “tin dân, dựa vào dân” ra đời trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Nó mang tính quy luật và có ý nghĩa phổ biến cho nhiều giai
đoạn lịch sử cịn có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển các
tư tưởng tư tưởng này lên một tầm cao mới, đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử Tư tưởng cơ
bản của Hồ Chí Minh về vấn đề này và trở thành quan điểm cơ bản trong đường lối của Đảng

Cộng sản Việt Nam. Thứ hai, ảnh hưởng từ tư tưởng “thân dân” của cụ Nguyễn Sinh Sắc.
Tiếp sau 1 truyền thống dân tộc, truyền thống gia đình cũng là một nhân tố quan trọng giúp
cho Hồ Chí Minh sớm hình thành tư tưởng coi trọng dân, hiểu dân, đánh giá cao vai trị của
dân. Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh, là một người có tư
tưởng u nước, thương dân. Với quan niệm học để làm người chứ không phải học để làm
quan, và lại trong thời kỳ đất nước ta bị thực dân pháp thống trị, làm quan là làm tay sai cho
giặc, là đắc tội với đồng bào nên sau khi thi đỗ Phó bảng (năm 1901), cụ đã lần lửa ra làm
quan nhiều năm. Mãi đến năm 1906, cụ được
17


bổ nhiệm làm thừa biên Bộ Lễ, phụ trách “công việc trưởng ấp”. Tiếp xúc với học trị, cụ
thường nói: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ”, nghĩa là: Làm quan là làm
nô lệ trong đám nô lệ, lại càng nô lệ hơn. Sự tức chỉ đó khiển cụ bị triều đình cho là “bất
phùng thời”, phải đi khỏi kinh đô để vào làm tri huyện Bình Khê (Bình Định). Ngồi ghế
tri huyện nên cụ thường giao du với các nhà Nho yêu nước ở địa phương hơn là có mặt ở
cơng đường, tạo điều kiện cho những nông dân thiếu tiền thuế, những người tham gia
phong trào chống thuế đang bị giam cầm trốn thốt. Cụ rất ốn ghét bọn cường hào bức
hiếp nơng dân và đúng về phía nơng dân chống lại chúng. Tư tưởng yêu nước, thương dân
của người cha đã ảnh hưởng sâu sắc đến thời niên thiếu của Nguyễn Tất Thành. Mặt khác,
trong quá trình trưởng thành quê nhà, rồi đi học ở Huế, càng đi sâu vào cuộc sống của
nhân dân, Hồ Chí Minh càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước.
Người đã tận mắt chứng kiến cảnh đọa đày dân đi phu ở Cửa Rào (Nghệ An) và bản thân
Người cũng đã tham gia những cuộc biểu tình địi giảm sưu, giảm thuế cho nơng dân sáu
huyện tỉnh Thừa Thiên Huế. Chính lịng u nước, thương dân từ người cha đã khích lệ,
động viên thêm tinh thần gắn bó, gần gũi, thấu hiểu nhân dân hơn.
1.2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu, kế thừa tư tưởng “tin dân, dựa vào dân” trong lịch
sử truyền thống dân tộc để hình thành nên tư tưởng “tin dân, dựa vào dân” mà Người cịn
biết tiếp thu có kế thừa, chọn lọc những tinh hoa văn hóa, kế thừa những cái tinh túy nhất

của nhân loại để tư tưởng của Người được thêm phần hoàn thiện và sâu sắc.
Tiếp thu tư tưởng “dĩ dân vi bản” của Nho gia. Nho giáo ra đời từ thời Xuân Thu Chiến Quốc (722 - 221 TCN) ở nước Trung Hoa cổ đại. Người sáng lập là Khổng Tử và
những học trị lỗi lạc của ơng. Các tác phẩm kinh điển của Nho học là Tứ Thư (Luận Ngữ,
Đại học, Trung Dung và Mạnh Tử) và Ngũ Kinh ( Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân
Thu, Kinh Dich). Nho giáo có nhiều tư tưởng tiến bộ, có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của
đời sống xã hội. Đặc biệt là tư tưởng “đức trị”, học thuyết “tính thiện” và cách đối nhân xử
thế. Được truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm và ngày càng ảnh hưởng sâu sắc đến truyền
thống giáo dục, tư tưởng của nhân dân ta. Nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã sử dụng
Nho giáo làm công cụ để trị nước, an dân. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư tưởng
18


tiến bộ của Nho giáo. Đặc biệt là tư tưởng “tin dân, dựa vào dân” của Khổng - Mạnh Đó
là thái độ quý trọng dân, thấy được sức mạnh to lớn của dân. Về điều này được thể thể
hiện trong câu nói của Mạnh Tử “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân là quý,
sau mới đến xã tắc, vua thì xem nhẹ) đã chứng tỏ Nho giáo đề cao vai trò của dân, nhận
thấy sức mạnh của dân. Tuân Tử cũng có câu nói nổi tiếng: “Quân giả chu giả thứ dân giả
thủy giả, thủy tắc tại chu, thủy tắc phúc chư” ( vua là thuyền, dân là nước, nước chở
thuyền, nước cũng lật thuyền). Từ đó Nho gia thấy được một điểm hết sức quan trọng là:
Dân là gốc nước, gốc nước, nước yên (Kinh Thi) hoặc đường lối được dân chúng thì được
nước, mất dân chúng thì mất nước. Nho giáo quan tâm đến đời sống của dân và yêu cầu
các bậc trị quốc phải đảm bảo cho người dân có đời sống tối thiểu của họ “ngẩng lên để
đủ phụng dưỡng cha mẹ, cúi xuống để đủ nuôi sống vợ con” . Muốn vậy, người dân phải
có thu nhập để ổn định cuộc sống. Nếu như nét mặt của người dân có sắc đói là trách
nhiệm của kẻ cầm quyền. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích
cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
1.3. Đảng ta quán triệt quan điểm “Nước lấy dân làm gốc” trong quá trình đổi mới.
Sau 35 năm đổi mới, chúng ta giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, một trong những thành tựu đó là nhận thức sâu sắc về lòng dân, sức dân. Hiểu biết
kinh nghiệm hàng đầu mà Đảng ta có được là trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng

phải qn triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân lao động.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991
rút ra bài học kinh nghiệm thứ hai: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động
của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh
của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân
sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.
Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm (1986-1996), Đảng ta rút ra 06 bài học; trong
đó, bài học thứ tư là “mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh
của cả dân tộc” và khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, vì Nhân dân và do
19


Nhân dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của Nhân dân là nguồn gốc
hình thành đường lối đổi mới của Đảng”.
Bước vào thế kỷ XXI cũng là chặng đường 15 năm đổi mới, Đảng vẫn nhất quán
“đổi mới phải dựa vào Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn
luôn sáng tạo”. Thực tiễn 20 năm đổi mới (1986-2006), Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi
mới phải vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo
của Nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”.
Cương lĩnh Bổ sung, phát triển năm 2011 rút ra một trong những bài học kinh nghiệm
lớn: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là
người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích
và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với
Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối
với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”.

Cùng với đó, tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp
tục quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm: “Đổi mới phải luôn luôn qn triệt quan điểm

lấy “dân làm gốc”, vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ,
tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân, phát huy sức mạnh
đại đồn kết tồn dân”. Như vậy có thể thấy rằng, trong suốt quá trình lãnh đạo đưa đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm “sự nghiệp đổi mới phải
vì lợi ích của Nhân dân”, xa rời, đi ngược lại lợi ích của Nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của Nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc
hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những thành tựu của
đổi mới. Đổi mới phải dựa vào Nhân dân, do lịng dân quyết định. Nguồn lực của Nhân
dân có nhiều, bao gồm tài dân, sức dân, của dân, quyền dân; song nguồn lực lớn nhất,
quan trọng nhất, quyết định nhất là lịng dân, có lịng dân thì có sức dân.
Phát biểu tại Hội nghị tồn quốc triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng và các văn bản của Trung ương về cơng tác dân
vận, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Tin ở dân, chăm lo cho dân, lấy dân làm
gốc là một bài học lớn được rút ra từ chiều sâu lịch sử đất nước ta. Trong suốt quá
20



×