Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Tiểu luận: Ảnh hưởng của dân số tới chất lượng giáo dục bậc tiểu học hiện nay (Nghiên cứu trường hợp tại trường Tiểu học Trung Tự, Quận Đống Đa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.09 KB, 41 trang )

1






Tiểu luận

Ảnh hưởng của dân sỗ tới chất lượng giáo dục bậc tiểu học hiện nay.
(Nghiên cứu trường hợp tại trường Tiểu học Trung Tự, Quận Đống Đa)

2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 4
3. Mục đích nghiên cứu 4
4. Câu hỏi nghiên cứu 4
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 5
6. Giả thuyết nghiên cứu 5
7. Phương pháp nghiên cứu 5
I. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận 8
2. Các khái niệm công cụ 13
3. Tổng quan về nghiên cứu 14
4. Thực trạng vấn đề 17
5. Tác động của dân số đến chất lượng giáo dục 18
5.1. Tác động của dân số đến việc giảng dạy 18
5.2. Tác động của dân số đến việc học tập 20
5.3. Tác động của dân số đến cơ sở vật chất 22


5.4. Ý kiến của phụ huynh học sinh 24
II. KẾT LUẬN 26
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức có mục
đích, có kế hoạch, thông qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và người
được giáo dục nhằm chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội của loài người. Giáo dục là
quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành
niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn trong xã
hội. Khẳng định tầm quan trọng của giáo dục UNESCO – tổ chức Khoa học - giáo
dục - văn hóa của Liên hợp quốc cùng nhiều tổ chức giáo dục quốc tế khác đã đề
xuất nhiều giải pháp,đưa ra nhiều thông điệp về giáo dục có ý nghĩa lớn về mặt
phương pháp luận.Đó là những thông điệp về việc gắn sự phát triển giáo dục vào
sự phát triển của kinh tế xã hội,thông điệp “Tổ chức nên giáo dục cho mọi người”,
thông điệp học tập là của cải nội sinh, đặt trên bốn trụ cột giáo dục là “học để biết,
học để làm và học để tự khẳng định mình,học để biết cách chung sống với mọi
người”.
Giáo dục góp phần rất lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát
triển của đất nước.Tuy nhiên hiện nay hệ thống giáo dục của chúng ta đang đứng
trước những khó khăn, thử thách không nhỏ .Giáo dục Việt Nam đang luôn là chủ
đề nóng trên các phương tiện truyền thông, trong nghị trường quốc hội, thậm chí
trong các bữa cơm gia đình. Nghĩa là giáo dục luôn được nhìn nhận ở nhiều góc độ
khác nhau, và giáo dục luôn được sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu.
Đã có rất nhiều những đề tài quan tâm đếm mảng vấn đề bất bình đẳng trong tiếp
cận dịch vụ giáo dục,khác biệt giới,hay phân hóa giàu nghèo, hay đó là những áp

lực cho giáo dục qua việc phát triển không đồng đều hay do sức ép của dân số
Giáo dục và dân số có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giáo dục làm giảm tỷ lệ
4

sinh, giảm tỷ lệ tử vong, tăng quyền và vị thế của phụ nữ, nâng cao chất lượng dân
số. Trong khi đó, sự gia tăng dân số gây lên nhiều áp lực cho ngành giáo dục như
tình trạng thiếu lớp học, thiếu giáo viên, bất bình đẳng trong giáo dục . Tính đến
tháng 4/2009, dân số Việt Nam vào khoảng 86 triệu người (85.789.573 người), tốc
độ gia tăng dân số bình quân là 1,2%
1
, và dân số đông là một trong những lý do
dẫn đến tình trạng giáo dục tại Việt Nam vẫn còn tồn tại những yếu khém nhất
định. Như giáo sư Jean Daniel Rainhorn đã nhận xét “dân số Việt Nam mỗi năm
tăng hơn một triệu người thì ngay cả nền kinh tế phát triển như Pháp cũng chưa
chắc đã chịu nổi”.
2

Theo số liệu thống kê, tháng 7/2005 có 26/64 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ
cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Đến tháng 12/2007 có 38/64 tỉnh, thành
phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục và hiện nay tính đến tháng 4/2009
có 46/67 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục.Ngoài những thành tựu đó thì
còn có những hệ lụy như: đầu tiên cho thấy đó là cảnh các bậc phụ hunh chen chúc
nhau mua hồ sơ cho con hay vụ việc đạp đổ cổng trường tại trường TH Thực
nghiệm ngày 12/5/2012. Ở thành thị trẻ em với giáo dục luôn được đặt lên sự quan
tâm hàng đầu,trong khi hệ thống trường học lại chưa đủ đáp ứng,vì vậy việc phân
tích các nhân tố,diều kiện cho phát triển giáo dục là hết sức cần thiết, đồng thời cho
ta hình dung rõ hơn về thực trạng hiện nay để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục.
Với những lý do trên nhóm nghiên cứu quyết định lựa chọn đề tài : “Ảnh
hưởng của dân sỗ tới chất lượng giáo dục bậc tiểu học hiện nay. (Nghiên cứu

trường hợp tại trường Tiểu học Trung Tự, Quận Đống Đa).


1
Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, Các kết quả chủ yếu, Tổng cục Thống kê
2
GS. Jean Daniel Rainhorn, “ Giữa thần kỳ và nghịch lý”, Hội thảo những bài học từ VN, Dân trí.com.vn,
31/12/2006
5

2. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: báo cáo góp phần vào việc giúp tìm hiểu một cách khách
quan ảnh hưởng của dân số tới chất lượng giáo dục bậc tiểu học góp phần cho cái
nhìn định hướng chính sách đối với giáo dục
Ý nghĩa thực tiễn: Qua bài nghiên cứu ta có thể thấy được tác đông của dân
số ảnh hưởng như thế nào tới chất lượng giáo dục từ đó đưa ra những chính sách
phù hợp nhằm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng giáo dục vì lợi ích trăn năm trồng
người.
3. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu tìm hiểu xem ảnh hưởng của dân số tới chất lượng giáo dục
đang diễn ra như thế nào
Áp lực Dân số như vậy gây ảnh hưởng như thế nào về mặt quản lý, giảng
dạy, cũng như là mức độ tiếp thu trực tiếp (chất lượng) cảu các em học sinh.
Tìm hiểu ra những khó khăn trong quá trình học tập của các em học sinh và
từ đó đưa ra hướng khắc phục.
4. Câu hỏi nghiên cứu:
Ảnh hưởng của dân số tới chất lượng giáo dục hiện nay thể hiện qua các
phương diện(hình thức) nào, và thực trạng của vấn đề đó ra sao ?
Tác động của sức ép dân số tới đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, phụ huynh
và quan trọng nhất là các em học sinh tiểu học?

Nguyên nhân và giải pháp nào cho tình trạng để làm giảm ảnh hưởng của
dân số tới chất lượng giáo dục hiện nay.
6

5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Ảnh hưởng của dân sỗ tới chất lượng giáo dục bậc
tiểu học hiện nay.
Khách thể nghiên cứu: Đội ngũ giáo viên, phụ huynh học sinh và các em học
sinh.
Phạm vi nghiên cứu: Trường Tiểu học Trung Tự, Quận Đống Đa, Hà Nội
Thời gian nghiên cứu: tháng 11/2012.
6. Giả thuyết nghiên cứu:
Dân số có tác động mạnh mẽ tới giáo dục thể hiện ở các mặt về cơ sở vật
chất,chất lượng giảng dạy và cái khả năng tiếp thu của các em học sinh. Tình trạng
quấ tải trong các trường học hiện nay gây ra rất nhiều bức xúc cho không chỉ phụ
huynh học sinh mà còn cho cả toàn xã hội.
Chất lượng giáo dục thực chất bị xem nhẹ mà các trường chỉ chạy theo thành
tích, vấn đề trang thiết bị giảng dạy cũng như quản lý còn gặp nhiều khó khăn
Các bậc phụ huynh đều có chung tâm lý là phải cho còn vào được trường
chuyên, lớp chọn nên càng gây ra nhiều khó khăn trong công tác quản lý cũng như
chất lượng đào tạo
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận.
Chủ nghĩa Duy vật biện chứng: Khi xem xét đánh giá mọi hiện tượng, sự
kiện xã hội phải đặt trong mối quan hệ toàn diện với điều kiện kinh tế- xã hội đang
7

vận động biến đổi liên tục. Ở báo cáo này khi nghiên cứu về Ảnh hưởng của dân sỗ
tới chất lượng giáo dục bậc tiểu học hiện nay
( Nghiên cứu trường hợp tại trường Tiểu học Trung Tự, Quận Đống Đa)

…ta phải đặt trong điều kiện cụ thể của đất nước và con người, xem xét các nhân
tố, các vấn đề trong mối quan hệ biện chứng, đi sâu vào nghiên cứu bản chất của
hiện tượng.
Chủ nghĩa Duy vật lịch sử : Phải nhìn nhận, đánh giá các sự kiện xã hội ở
những hoàn cảnh, giai đoạn lịch sử cụ thể trên quan điểm kế thừa và phát triển.
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể.
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Tôi sử dụng phương pháp vì
đây là cách thu thập thông tin tương đối phổ biến, nhanh chóng, tiết kiệm chi phí,
nguồn tin cậy. Trong đề tài nghiên cứu có sử dụng nguồn số liệu và thông tin từ
internet như Vietbao.vn, Vnexpress.net, Dothi.net, Docbao.vn , bách khoa toàn thư
mở và một số kiến thức từ trong sách giáo trình và sách tham khảo thuộc lĩnh vực
Khoa học xã hội và chuyên ngành Xã hội học: xã hội học giáo dục, phương pháp
nghiên cứu xã hội học. Quá trình thu thập đã có được những kiến thức quan trọng
phục vụ nghiên cứu, làm rõ một số nội dung của đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu, trực tiếp cũng là một
trong những phương pháp đặc trưng của Xã hội học để thu thập thông tin. Đối với
đề tài này tôi sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu trực tiếp. Thông qua việc sử
dụng phương pháp phỏng vấn sâu, tôi nhằm thấy được vấn đề một cách rõ ràng và
sâu sắc hơn, tập trung vào những khía cạnh còn chưa có đầy đủ thông tin hoặc cần
khai thác kỹ hơn về mảng thông tin nào đó, bổ sung cho các vấn đề nghiên cứu đã
vạch ra trong đề tài. Qua phỏng vấn sâu, chúng tôi cũng có khả năng khẳng định
hoặc đánh giá về thông tin, thông qua việc quan sát thái độ và cách trả lời của đối
8

tượng được phỏng vấn. Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn giáo viên và cả các em
học sinh để thấy ró được vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp quan sát: Trong bài sử dụng phương pháp quan sát để tiến
hành nghiên cứu. Qua sử dụng phương pháp quan sát ta thấy Ảnh hưởng của dân
sỗ tới chất lượng giáo dục bậc tiểu học hiện nay. Thời gian quan sát được chia làm
2 giai đoạn chính là : Thứ nhất là giai đoạn điều tra thử: quan sát diễn ra trong thời

gian điều tra thực tế trước khi chọn đề tài. Thứ hai là giai đoạn quan sát, phỏng vấn
sâu cá nhân nhằm thu thập thông tin một cách chân thực nhất trong quá trình thực
hiện nghiên cứu.
Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi : Để có số liệu phục vụ cho nghiên
cứu nhóm tác giả đã dùng phương pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi có số
lượng là 80 phiếu . Bảng hỏi được chia làm các phần thông tin chính dành cho giáo
viên, phụ huynh và các em học sinh. Bảng hỏi được xây dựng nhằm làm rõ những
thông tin cơ bản sau :
Thực trạng của áp lực dân số ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục.
Tìm hiểu mức độ hài lòng của giáo viên, phụ huynh và học sinh về chất
lượng giáo dục
Giải pháp chính sách nhằm điều chỉnh tác động của dân số tới giáo dục
trong bối cảnh xã hội hiện nay.



9

II. PHẦN NỘI DUNG.
1. Cơ sở lý luận
1.1. Lí thuyết trao đổi xã hội.
Với bài thuyết trình nổi tiếng của Homans : “hành vi xã hội như một sự trao
đổi”, các nhà xã hội học khẳng định nội dung lý thuyết mà ông phân tích là lý
thuyết trao đổi. Nhưng theo Homans khái niệm này không hợp lý mà ông muốn gọi
nó là “chủ nghĩa hành vi xã hội”.
Ông nhấn mạnh đến khía cạnh hành vi “Hành vi xã hội là một loại hàng hoá
để trao đổi, đây vừa là loại hàng hoá vật chất vừa là loại hàng hoá phi vật chất
giống như những biểu tượng về sự tán thành hay uy tín.” Theo ông cần phải vừa
tìm ra các quy luật chung, khái quát vừa giải thích một cách thực sự xã hội học về
hành vi xã hội của cá nhân.

Ông cho rằng cách lý giải hợp lý nhất đối với các hiện tượng xã hội là cách
giải thích tâm lí học và các nguyên tắc tâm lý học phải là những nguyên lý gốc của
các khoa học xã hội trong đó có xã hội học.
Trung tâm của thuyết trao đổi nằm trong một tập hợp các định đề chủ yếu.
* Định đề thành công:
Một hành động cụ thể của một cá nhân càng được ban thưởng nhiều cá nhân
càng có xu hướng sẽ lặp lại hành động đó. Hay nói cách khác trong mọi hành động
con người luôn có xu hướng lựa chọn những hành động mang lại phần thưởng cho
mình.
Tuy nhiên sự trao đổi qua lại không diễn tiến một cách vô hạn định. Ở một
thời điểm nào đó, các cá thể đơn giản là không thể hành động theo cách đó một
cách thường xuyên.
Khoảng cách giữa sự ban thưởng và hành vi càng ngắn càng có khả năng các
cá nhân lập lại hành vi đó và ngược lại.
10

Ban thưởng gián đoạn có khả năng gợi ra hành vi lặp lại hơn các ban thưởng
thường xuyên
* Định đề kích thích:
Nếu trong quá khứ một kích thích hay một tập hợp kích thích nào đó làm
cho con người hành động và đạt được thành công thì khi xuất hiện các kích thích
tương tự như vậy con người sẽ có xu hướng hành động hoặc sẽ hành động tương tự
như trong quá khứ.
Nếu tình huống hành động quá phức tạp, nhân tố kích thích cũ chưa chắc đã
là nhân tố kích thích chính gây ra kết quả thực của hành động.
Nếu trong quá trình chờ đợi hành động diễn ra trong một thời gian dài có sự
tham gia của nhiều kích thích mới thì kích thích cũ không phải là nhân tố kích
thích trong thời điểm hiện tại.
* Định đề giá trị:
Mọi ban thưởng và trừng phạt đều có giá trị. Nếu được ban thưởng hành

động có xu hướng lặp lại và nếu bị trừng phạt hành động đó không có xu hướng
lặp lại. VD: Trong quá trình chọn trường cho con mình, các bậc cha mẹ luôn muố
có sự lựa chọn phù hợp nhất vừa tìm được trường tốt vừa đảm bảo chi phí phù hợp
vơi điều kiện kinh tế gia đình. Ngược lại, trường học phù hợp cũng đem lại hiệu
quả học tập với từng đối tượng học sinh.
Khi giá trị của phần thưởng càng cao thì những phần thưởng ít giá trị càng
mất đi giá trị.
Có những hành động tưởng là đem lại giá trị nhưng thực ra lại là mất giá trị
và ngược lại.
* Định đề thiếu thốn và dư thừa.
Trong một quá khứ gần, con người càng nhận được nhiều phần thưởng thì
phần thưởng càng trở nên kém giá trị đối với anh ta.VD: trong tình yêu của bố mẹ
đối với con cái nếu sự quan tâm, chăm sóc, lo lắng đến quá thường xuyên và quá
11

nhiều thì người trong cuộc có xu hướng cảm thấy nhàm chán và dư thừa, và ỉ lại
cảm thấy không quan trọng và không có giá trị, nhiều khi có thể đánh mất rất dễ
dàng.
Homans đưa ra khái niệm về lợi nhuận và chi phí: Lợi nhuận có nghĩa là số
phần thưởng lớn hơn chi phí bỏ ra; chi phí là những phần thưởng đã bị mất trong
một loạt các hành động khác trước đó. “Lợi nhuận một cá nhân nhận được như là
kết quả hành động của anh ta càng lớn càng có khả năng anh ta thực hiện hành
động.”
* Định đề chống đối và tán thành.
Khi hành động của một chủ thể không nhận được phần thưởng mà anh ta
mong đợi hoặc nhận được một hình phạt mà anh ta không mong đợi thì lập tức
xuất hiện loại hành vi tiêu cực
Sự chống đối là một hình thức tạo ra “luật phân phối cân bằng”.Vd: bố mẹ
hiểu ra và có những cách hành xử đúng hơn
Khi hành động của một người nhận được phần thưởng lớn hơn dự đoán hoặc

không nhận sự trừng phạt mà anh ta mong đợi thì chủ thể có xu hướng tích cực
hơn.VD: Học sinh đi muộn, anh ta nghĩ rằng sẽ bị thầy giáo phạt nhưng ngược lại
thầy giáo không dùng hình thức trừng phạt với anh ta. Tự bản thân anh ta sẽ cảm
thấy phải cám ơn thầy, kéo theo đó anh ta sẽ có một loạt các hành động tích cực
khác như: phát biểu xây dựng bài nhiều hơn, cố gắng đi học sớm, chăm chú nghe
giảng hơn.
* Định đề về tính hợp lý:
Nhiều phần thưởng thấp nhưng vẫn được lựa chọn là do nó có tính hợp lý.
Tóm lại, Homans đã phân tích mối quan hệ giữa các định đề về tính hợp lý,
định đề thành công, định đề kích thích Trên cơ sở đó, khẳng định rằng trước một
hành động, chủ thể của nó có xu hướng lựa chọn cách thức ứng xử phù hợp và hợp
lý để đạt tới giá trị cao nhất của hành động đó. Đáng chú ý là con người luôn có xu
12

hướng lựa chọn một hành động nào đấy ngay cả khi giá trị của nó thấp nhưng bù
lại, họ chọn hành động đó vì tính khả thi của nó rất cao. Việc quyết định có thực
hiện hành động hay không phụ thuộc vào nhận thức và kinh nghiệm mà chủ thể có
được từ trong quá khứ tức là từ góc độ chủ quan của chủ thể chứ khó có thể dựa
vào những tính toán chính xác. Đây chính là điểm cốt lõi mang tinh thần tâm lý
học hành vi của thuyết trao đổi xã hội ở cấp độ vi mô.
Có thể thấy rằng, lý thuyết của Homans có tính chất tâm lý học xử lý ở cấp
độ vi mô. Tuy lý thuyết của ông yếu về các trạng thái tinh thần và các cấu trúc vĩ
mô, ông lý luận rằng ở cấp độ xã hội, “cách thức các quá trình trao đổi chủ yếu
được kết hợp phức tạp hơn nhiều” nhưng vẫn có sự “đồng dạng” ở cấp độ cá thể và
cấp độ xã hội.
Vận dụng lí thuyết trao đổi xã hội vào nghiên cứu, ta thấy con người luôn
quan tâm tới việc phần thưởng của họ có xứng với đầu tư và chi phí không. Tức sự
bất công xã hội phụ thuộc vào mức độ tương quan tỉ lệ nghịch giữa 3 yếu tố : phần
thưởng, chi phí, sự đóng góp. Điều này dựa vào sự đánh giá chủ quan của cá nhân.
Như áp dụng vào việc giải thích tác động đến việc học tập của các em học

sinh và việc chọn lựa trường học cho con cái. Họ quan tâm tới chất lượng giáo dục
tại trường mình chọn lựa cho con cái, cũng như chất lượng giáo viên, cơ sở vât
chất tại trường phải luôn phù hợp với chi phí họ bỏ ra và phù hợp với trình độ học
tập của con cái họ.
Hay chính với hệ thống giáo dục luôn có những phần thưởng cho học sinh
trong quá trình học tập, rèn luyện để kích thích tính học tập hăng say của các học
sinh, đổi lại khi những học sinh học tập có hiệu quả thì sé đạt được những danh
hiệu, những kết quả học tập tốt đem lại cái danh cho thầy cô, cho trường lớp.
Những phần thưởng càng nhiều thì công sức hay chi phí bỏ ra cũng tỉ lệ thuận với
nó….
13

Vệc phân tích những trao đổi nhu cầu xã hội để làm rõ những tác động của
dân số đến chất lượng giáo dục bậc tiểu học.
1.2. Lí thuyết mâu thuẫn - xung đột:
Lí thuyết xung đột có một lịch sử phát triển khá lâu dài. Các đại diện lớn của
lí thuyết này là Karl Marx, và tiếp sau đó là Loser, Dalrendort, Gurvith,… Người ta
cho rằng mâu thuẫn và xung đột xã hội là một hiện tượng mang tính phổ biến và
được lặp đi lặp lại trong mọi xã hội và mọi nền văn hóa.
Lí thuyết xung đột cho rằng xung đột có thể xảy ra trên mọi phương diện của
đời sống xã hội: mục đích, đánh giá, lợi ích, hệ tư tưởng… Các cách thức thực hiện
hành vi xung đột vừa đa dạng vừa bị chi phối bởi nhiều động cơ khác nhau.
Việc phân tích, tìm hiểu và làm rõ động cơ của các hành vi xung đột sẽ giúp
cho việc quản lí mọi xã hội tiếp cận được các giải pháp khoa học, qua đó đưa các
quan hệ xã hội trở về trạng thái bình thường ổn định để phát triển.
Vận dụng lí thuyết xung đột vào nghiên cứu ảnh hưởng của dân số đến chất
lượng giáo dục bậc tiểu học, chúng tôi thấy đôi khi xuất phát từ các lợi ích nhu cầu,
thị hiếu khác nhau nên có thể hình thành nhiều tác động có thể la tiêu cực hay tích
cực từ dân số đến chất lượng giáo dục (bậc tiểu học). Cụ thể ở đây có thể là xung
đột giữa việc học tập và chất lượng học tập, số lượng giáo viên với học sinh, số

lượng trường học trên địa bàn và số học sinh nhập học.
Việc phân tích các loại hình và nguyên nhân xung đột sẽ giúp hiểu thêm
những mặt tích cực cũng như những khó khăn trong những tác động từ dân số và
chất lượng giáo dục
Trong nghiên cứu này, tôi vận dụng hai lí thuyết trên làm cơ sở để giải thích
cho sự tác động của dân số đến chất lượng giáo dục (bậc tiểu học) và mỗi cách tiếp
cận trên đều có mặt mạnh và mặt yếu của nó.
14

2. Các khái niệm công cụ
Giáo dục: Giáo dục được coi là sự tác động đến con người từ toàn bộ hệ
thống và các quan hệ xã hội. Với mục đích chuyển tải những kinh nghiệm xã hội
hay những tri thức cần thiết cho cuộc sống xã hội của con người
(1)

Dân số : Dân số là tập hợp của những con người đang sống ở một vùng địa
lý hoặc một không gian nhất định, thường được đo bằng một cuộc điều tra dân
số.
(2)

Chất lượng giáo dục: Chất lượng giáo dục là những lợi ích, giá trị mà kết
quả học tập đem lại cho cá nhân và xã hội, trước mắt và lâu dài
(3)

Dưới góc độ giáo dục học thì chất lượng giáo dục được giới hạn trong phạm
vi đánh giá sự phát triển của cá nhân sau quá trình học tập và sự phát triển xã hội
khi họ tham gia vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế sản xuất, chính trị - xã hội, văn
hóa - thể thao.
Nhìn từ mục tiêu giáo dục thì chất lượng giáo dục được quy về chất lượng
hoạt động của người học. Chất lượng đó phải đáp ứng được các yêu cầu về mục

tiêu của cá nhân và yêu cầu xã hội đặt ra cho giáo dục






1
Theo Nguyễn Thu Hà – Giáo trình Xã hội học Giáo dục
2
Theo Nguyễn Thị Kim Hoa – Giáo trình Xã hội học Dân số
3
Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Đản (Trường đại học Sư phạm Hà Nội)
15

3. Tổng quan về nghiên cứu
3.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
Quận Đống Đa nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội. Phía bắc giáp quận Ba Đình,
phía đông bắc giáp quận Hoàn Kiếm (ranh giới là phố Lê Duẩn), phía đông giáp
quận Hai Bà Trưng (ranh giới là phố Lê Duẩn và đường Giải phóng), phía nam
giáp quận Thanh Xuân (ranh giới là đường Trường Chinh và đường Láng), phía tây
giáp quận Cầu Giấy (ranh giới là sông Tô Lịch).
Quận Đống Đa rộng 9.96 km², có dân số thường trú là 370.117 nghìn người
(năm 2009) nhiều nhất trong các quận, huyện của Hà Nội.
Thuộc quận Đống Đa, có 21 phường, đó là: Văn Miếu, Quốc Tử Giám,
Hàng Bột, Nam Đồng, Trung Liệt, Khâm Thiên, Phương Liên, Phương Mai,
Khương Thượng, Ngã Tư Sở, Láng Thượng, Cát Linh, Văn Chương, Ô Chợ Dừa,
Quang Trung, Thổ Quan, Trung Phụng, Kim Liên, Trung Tự, Thịnh Quang, Láng
Hạ.
Các phường phía nam của Đống Đa là những khu dân cư tập trung với

những khu nhà chung cư được xây dựng sớm nhất của Hà Nội như Phương Mai,
Kim Liên, Trung Tự, Khương Thượng, Nam Đồng.
Trường Tiểu học Trung Tự (Địa chỉ: Số 3 ngõ 4A Đặng Văn Ngữ - Đống Đa
- Hà Nội) thành lập từ năm 1975. Qua hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành, nhà
trường đã đạt được nhiều thành tích.
Năm học 2000-2001 Trường được công nhận là trường Chuẩn Quốc gia đầu
tiên của Quận Đống Đa. Trường vinh dự được Nhà nước và các cấp khen thưởng:
+ Huân chương Lao động Hạng Ba.
16

+ Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
+ Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
+ Trường Tiên tiến Xuất sắc cấp Thành phố 6 năm liền ( 2004-2010).
+ Trường Tiên tiến xuất sắc về TDTT cấp thành phố 10 năm liên tục ( 2000-
2010)
Trường tiểu học Trung Tự luôn giữ vững truyền thống giáo dục toàn diện
cho học sinh. Trường là nơi đào tạo, bồi dưỡng nhiều thế hệ học sinh giỏi, chăm
ngoan, có nhiều học sinh đạt giải Quốc gia, Thành phố, Quận về các mặt Văn hoá -
TDTT. Trường luôn dẫn đầu Quận Đống Đa về phong trào Vở sạch chữ đẹp.
Nhà trường có đội ngũ giáo viên giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm giảng
dạy và tâm huyết với nghề nghiệp. 100% giáo viên đạt trình độ trên chuẩn trong đó
có 2 Thạc sĩ và nhiều thầy cô giáo đang hoàn thiện chương trình cao học.
Để động viên khích lệ phong trào Dạy giỏi của giáo viên - Học giỏi, rèn
luyên tốt của học sinh, hàng năm, nhà trường đều tổ chức Lễ tuyên dương khen
thưởng Giáo viên giỏi - Học sinh giỏi tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào dịp tổng
kết năm học.
3.2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Việc ảnh hưởng của dân số tới chất lượng giáo dục không phải là một vấn đề
mới ở nước ta. Thực tế, nó đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tổ
chức, cá nhân. Trong phạm vi tìm hiểu, nhóm đã tiếp cận được với một số công

trình nghiên cứu có liên quan:
3.2.1. Trong tài liệu Dân số và phát triển (Tài liệu dùng cho Chương
trình bồi dưỡng nghiệp vu dân số - kế hoạch hóa gia đình) của Tổng cục dân số
- kế hoạch hóa gia đình và Quỹ dân số liên hợp quốc năm 2011 đã chỉ ra rằng: Ở
17

thành thị và các vùng đông dân, kinh tế thường phát triển hơn. Vì vậy, ở những nơi
này hệ thống giáo dục thường phát triển hơn, nên trẻ em có nhiều cơ hội được đến
trường hơn những vùng kém phát triển dân cư thưa thớt. Ngoài ra, một số quốc gia
không chú ý đến sự phát triển giáo dục ở các vùng hẻo lánh và nhiều giáo viên
cũng không muốn đến làm việc ở các vùng này. Mật độ dân số cũng ảnh hưởng
đến số lượng và chất lượng của giáo dục. Mật độ dân số lớn và tăng nhanh, số trẻ
em đến tuổi đi học cao gây ra sự quá tải, học sinh phải học cả ca 3. Ngược lại, ở
nơi dân cư quá thưa thớt, số trẻ em trong tuổi đi học không nhiều, khoảng cách từ
nhà đến trường lớn cũng là một yếu tố gây khó khăn cho sự phát triển ngành giáo
dục. Tuy nhiên, tài liệu vẫn chưa đề cập đến vấn để chất lượng giáo dục ở những
nơi có quá đông dân cư, việc đầu tư cho giáo dục cũng gặp nhiều khó khăn khi
điều kiện cơ sở vật chất hạn chế, số lượng phòng ốc, dụng cụ giảng dạy không đủ
khiến ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.
3.2.2. Trong cuốn Giáo trình Xã hội học dân số của Nguyễn Thị Kim Hoa
cũng đã nói đến ảnh hưởng dân số đến chất lượng giáo dục, mà cụ thể ở đây là chất
lượng giảng dạy, chất lượng học tập, sự đầu tư của gia đình và xã hội cho giáo dục
đào tạo và công tác quản lý giáo dục
Về chất lượng giảng dạy, với vai trò “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” mà
đội ngũ giáo viên là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục, công tác đào tạo đội
ngũ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn là rất cần thiết. Sự gia tăng dân số trong độ
tuổi đi học không có nghĩa là chất lượng giáo viên thế nào cũng được miễn là đảm
bảo về số lượng. Thế nhưng, thực trạng vẫn là việc còn nhiều giáo viên chưa có đủ
kinh nghiệm và chuyên môn cho việc giảng dạy. Tuy nhiên, tài liệu vẫn còn chưa
đề cập đến vấn đề chất lượng giáo dục bị ảnh hưởng do việc quá tải học sinh trong

một lớp khiến giáo viên không thể sát sao đến từng học sinh
Về chất lượng học tập, tài liệu chỉ chú ý quan tâm đến vấn đề mất cân bằng
giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi về chất lượng học tập mà chưa
18

đề cập đến vấn đề mất cân bằng giữa các học sinh trong cùng một lớp do vấn đề
quá tải lớp học khiến học sinh không thể kịp chủ động thắc mắc với giáo viên
những điều mình chưa hiểu lắm trong bài giảng
Về vấn đề đầu tư cho giáo dục của gia đình và xã hội, tác giả nêu ra rằng số
lượng học sinh tăng nhanh, xã hội và gia đình gặp nhiều khó khăn cho việc đầu tư
cho giáo dục và đào tạo. Các gia đình nghèo và đông con sẽ không thể có khả năng
chi trả cho các chi phí giáo dục đắt đỏ, khiến không thể có được các điều kiện học
tập tốt nhất, gây ảnh hưởng đến chất lượng học tập
Về công tác quản lý giáo dục, nhìn chung đã tiếp tục được đẩy mạnh, môi
trường pháp lý được hoàn chỉnh về cơ bản sau khi Quốc hội XI thông qua Luật
Giáo dục sửa đổi. Tuy nhiên, nên giáo dục nước ta vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc
phục
3.2.3. Bài viết Quá tải, quá tải học sinh của tác giả Lê Vân trên in trên báo
Giáo dục và thời đại số ngày 8/8/2012 đã đề cập đến vấn đề có quá nhiều học sinh
trong một lớp học. Trong khi quy định của Bộ Giáo dục là chỉ có tối đa 35 - 40 học
sinh/ lớp nhưng con số trong bài viết đưa ra là lên tới 61 cháu/lớp, đồng nghĩa với
việc chất lượng giáo dục không được đảm bảo nhưng vẫn phải chấp nhận do quỹ
đất không có.
4. Thực trạng vấn đề
Trong những năm gần đây, việc lớp học quá tải đã trở thành một vấn đề nổi
cộm trong hệ thống giáo dục của nước ta. Các lớp học với sĩ số lên đến 50 – 60 em
không còn là chuyện hiếm. Chính việc gia tăng quá nhanh của dân số trong khi
điều kiện kinh tế - xã hội chưa phát triển kịp để đáp ứng chính là một trong những
nguyên nhân của tình trạng này.
Sỹ số chính thức lớp 1 của Tiểu học Cát Linh (Hà Nội) là 438 em, chia thành

8 lớp, tăng 78 em so với năm học 2008 - 2009. Với số học sinh này, trường phải
19

chuyển một phòng đồ dùng thành lớp học. Sỹ số mỗi lớp năm nay lên tới 54 – 55
học sinh(đông hơn năm ngoái 3 – 4 em một lớp).
Các trường tiểu học trong quận Gò Vấp (TP. HCM) luôn quá tải vì tuyển
sinh đầu cấp. Dù quận có xây thêm trường nhưng chẳng thấm vào đâu do trẻ nhập
cư tăng mạnh. Dự kiến năm học 2012-2013, quận Gò Vấp có 7.765 học sinh (HS)
vào lớp 1 nhưng con số khó dừng lại ở đây vì năm nào cũng vậy, sĩ số cứ tăng
thêm vào cuối tháng 7.
Tại quận Tân Phú, có gần 7.000 HS vào lớp 1, trong đó, gần 50% là trẻ nhập
cư trong khi toàn quận chỉ có 16 trường tiểu học nên năm học này vẫn là năm đầy
áp lực tuyển sinh với các trường tiểu học. Còn ở quận Bình Tân, có 7.209 HS vào
lớp 1, tăng 600 HS so với năm học 2011-2012
Vấn đề đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục. Cơ sở vật chất
còn hạn chế, số lượng giáo viên không đủ đáp ứng được yêu cấu giảng dạy, học
sinh không thể tiếp thu được hết bài giảng của giáo viên.
5. Tác động của Dân số đến chất lượng Giáo dục
5.1. Tác động của dân số đến việc giảng dạy

0%
75%
25%
Số lượng học sinh trong một lớp
30 - 40
41 - 50
Trên 50
20

Khi được hỏi về số lượng học sinh trong một lớp mà mình giảng dạy, có đến

75% số giáo viên được hỏi cho biết rằng số lượng học sinh trong một lớp mình
giảng dạy là 41 đến 50 học sinh, đó là một con số không nhỏ khi mà số lượng học
sinh trong một lớp mà Bộ Giáo dục quy định chỉ là 35 đến 40. Và hơn thế nữa là tỷ
lệ giáo viên dạy lớp có số lượng học sinh trong một lớp là trên 50 chiếm 25% mà
không có giáo viên được hỏi có số lượng học sinh trong một lớp là dưới 40. Điều
ấy đang nói lên một thực trạng đáng cảnh báo về việc lớp học quá tải ở các trường
tiểu học nước ta hiện nay. Đây là một thực trạng chung ở các thành phố lớn khi dân
số ở đây là quá đông và chật chội

Khi được hỏi có gặp khó khăn không khi dạy lớp đông, 100% số giáo viên
được hỏi cảm thấy minh gặp khó khăn khi dạy học, đó có thể là việc truyền đạt
kiến thức, việc quản lý nề nếp… Đó là một trong những vấn đề nan giải của giáo
dục hiện nay khi tình trạng thiếu lớp, thiếu giáo viên đã ảnh hưởng rất nhiều đến
chất lượng dạy và học trong các trường tiểu học hiện nay
100%
0%
Khó khăn khi dạy lớp đông

Không
21

Với kết quả điều tra như vậy tôi thấy rằng với một số lượng học sinh trong
một lớp như vậy thì tôi thấy nhiều khi gây áp lực cho chính giáo viên là giáo viên
không thể nào có thể quan tâm sát sao học sinh được như vậy làm cho chất lượng
học sinh không đông đều trong một lớp mà có khi lại quá chênh lệch.
5.2. Tác động của Dân số đến việc học tập

Theo như số liệu trên thì chúng ta có thể thấy được tình trạng hiểu bài của
học sinh tiểu học tại ngôi trường này thì đa số các em đều hiểu bài ngay trên lớp(
chiếm 67%), bên cạnh đó vẫn còn một số lượng học sinh không hiểu bài ngay

(33%). Tình trạng vẫn còn học sinh không hiểu bài như vậy là do số học sinh trong
một lớp vẫn còn quá đông nên các thầy cô giáo không thể quan tâm nhiều hơn đến
các em tiếp thu chậm được. Việc trong một lớp học mà có đến 50 – 60 học sinh thì
chắc chắn việc truyền thụ kiến thức đầy đủ cho cả lớp là một việc vô cùng khó
khăn, ngay với việc giữ trật tự ổn định trong giờ đã là một công việc rất vất vả đối
với các giáo viên.
Hơn thế, việc các em học sinh tiếp thu được hết bài giảng của giáo viên
càng là những khó khăn đối với các em, đòi hỏi các em phải thật tập trung và
67%
33%
Mức độ hiểu bài trên lớp của các em hoc sinh
Có hiểu
Không hiểu
22

không mất trật tự. Ở học sinh bậc tiểu học, tính ham chơi nghịch ngợm là không
tránh khỏi, đó cũng là một trong những nguyên nhân lớn cản trở trong quá trình
tiếp thu bài giảng trong một tập thể đông. Một phần cũng do các em không hiểu bài
từ những bài dạy trước nên đến các bài sau các em cũng không hiểu nên các em
càng thấy chán nản từ đó các em lại càng không chăm chú nghe giảng, nên đã dẫn
đến việc các em không hiểu bài ngay trên lớp.

Qua số liệu trên cho thấy phần đa các em học sinh hiện nay ngoàiviệc tham
gia học trên trường, lớp thì gia đình còn cho các em đi học thêm ở ngoài hay học
gia sư tại nhà tùy vào từng hoàn cảnh gia đình. Tỉ lệ các em tham gia học thêm
chiếm đên 89%, còn lại 11% là không tham gia. Điều đó có thể cho thấy, việc học
ở trên lớp là chưa thực sự đủ, hay nói cách khác quá trình học tập của các em ở
trên lớp chỉ là cơ bản. Ở bậc tiểu học, với số lượng học sinh quá đông, các giáo
viên cũng kiêm thêm một vai trò đó nói nôm na là các cô trông trẻ. Bởi việc học
tập và tiếp thu trên lớp là rất khó nói, tuy các thầy cô đã dùng nhiều biện pháp như

cho đan xen giữa các học sinh học tốt và các học sinh kém để dễ kèm cặp bạn
trong quá trình học tập, vì giáo viên không thể quan tâm tới tất cả các học sinh
89%
11%
Mức độ tham gia các lớp học thêm khác của các em HS.
Có tham gia
Không tham gia
23

trong lớp của mình. Đó là lí do tại sao mức độ tham gia học thêm ở ngoài là phổ
biến và ngày càng tăng ở các đối tượng hoc sinh hiện nay.
Thấy rằng, trong một quy mô lớp học rất nhỏ mà có quá đông học sinh làm
cho quá trình học tập của các em bị ảnh hưởng rất nhiều, nhất là chất lượng và kết
quả học tập. Liệu rằng các em học sinh liệu các có đủ nắm được lượng kiến thức
cần thiết để có thể phát triển để hoàn thiện chương trình học tập đúng chất được
không?
5.3. Tác động của dân số đến cơ sở vật chất
5.3.1. Về mặt tích cực:
Với số lượng học sinh khá lớn, hằng năm các khoản tiền mà mỗi phụ huynh
đóng góp vào việc xây dựng cơ sở vật chất cũng khá nhiều cộng với sự đầu tư của
Nhà nước vì vậy các em cũng có điều kiện được học tập trong một môi trường khá
tốt. Phòng học được trang bị đầy đủ bàn ghế, các thiết bị học tập hiện đại phục vụ
ngày càng cao cho nhu cầu học tập theo phương pháp đổi mới như: máy chiếu,
bảng, đài (phục vụ cho việc nghe các bài nói tiếng anh), các bảng hoạt động
nhóm,…các đồ dùng học tạp cá nhân như: bút màu, đất nặn, bút vẽ, bảng chữ cái,
Đó là những công cụ học tập vô cùng bổ ích và thiết thực hỗ trợ cho việc dạy và
học bên cạnh những đồ dùng thiết yếu như : sách giáo khoa, sách bài tập, sách thực
hành kĩ năng nhu sách tập tô, vở vẽ, hát nhạc,…Điều đó không chỉ phục vụ cho các
em một môi trường học tập lành mạnh, đảm bảo cho các em được tiếp cận với
nguồn tri thức chuẩn, mà còn giúp các em được vui chơi, nâng cao sự sáng tạo cho

trẻ. Được học tập trong môi trường với đầy đủ trang thiết bị, phòng học thoáng mát
sạch sẽ, không chỉ tạo cho các em tư thế học tập tốt mà còn giúp các em tiếp thu
bài học hiệu quả .Trong môi trường như vậy trẻ được học tập và vui chơi, không
nặng nề về lý thuyết,giúp các em được thỏa sức sáng tạo với những đồ dùng học
tập tiện lợi. Đồng thời trong công cuộc đổi mới đất nước thì chú trọng đổi mới
24

giáo dục là một trong những định hướng phát triển hàng đầu và là mục tiêu chiến
lược gắn liền với phát triển nền kinh tế tri thức. Vì vậy việc trang bị các đồ dùng,
trang thiết bị học tập hiện đại là việc làm hết sức cần thiết và đúng đắn phục vụ cho
công tác đổi mới cả việc dạy và học. Trang thiết bị học tập và cơ sở vật chất góp
một phần không nhỏ trong việc cải thiện và nâng cao chất lượng giáo dục.
5.3.2. Về mặt tiêu cực
Tuy nhiên dân số đông cũng mang lại khó khăn và trở ngại lớn trong việc
xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị trong nhà trường. Với số lượng học sinh
lớn buộc nhà nước phải đầu tư xây dựng nhiều nhà trường. Trong những năm gần
đây tổng mức ngân sách mà nhà nước đầu tư cho giáo dục chiếm tới gần 40% tổng
ngân sách của nhà nước, tuy nhiên việc quá tải số lượng học sinh trong các trường
học nói chung và các trường tiểu học nói riêng vẫn là rất lớn. Việc quá tải này dẫn
đến nhiều bất cập như phải chia làm nhiều ca học, học sinh phải học cả thứ 7,chủ
nhật la hiện tượng rất phổ biến hiện nay. Và nhất là trong các nhà trường việc trang
bị bàn ghế, dụng cụ học tập cá nhân vẫn còn chưa được đảm bảo. học sinh vẫn còn
phải học trong môi trường thiếu các trang thiết bị hiện đại là rất phổ biến. Điều
này thể hiện rõ nhất là trong các trường học ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu
vùng xa vùng miền núi khó khăn. Tại các môi trường như vậy điều rõ nhất mà
chúng ta nhìn thấy đó là sự mất cân đối một cách sâu sắc về chất lượng giáo dục
giữa các vùng nông thôn miền núi còn nhiều khó khăn với các thành phố lớn. Việc
không được tiếp cận với những thiết bị học tập hiện đại sẽ gây cản trở lớn tới việc
hình thành và áp dụng những phương pháp học tập đổi mới đối với cả giáo viên và
học sinh. Điều này làm cho họ không được tiếp cận với những nguồn kiến thức

rộng lớn và giảm bớt những kĩ năng cần thiết cho một xã hội hiện đại. Trong
những khó khăn về cơ sở vật chất thì khó khăn lớn nhất là làm thế nào để đầu tư
trang bị kĩ thuật hiện đại nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục cũng như
mức đọ chênh lệch về chất lượng giáo dục trong cả nước.
25

Nói tóm lại việc dân số đông trong tình hình kinh tế đất nước còn nhiều khó
khăn dẫn đến tình trạng thiếu cơ sở vật chất và trang thiết bị kĩ thuật hiện đại trong
giáo dục của chúng ta hiện nay đã gây lên những khó khăn nhất định trong việc
đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục trong các bậc học nói chung và trong bậc
tiểu học nói riêng
5.4. Ý kiến của phụ huynh học sinh
95%
5%
0%
Tỉ lệ chọn trường cho con
công lập
dânlập

n công

Khi được hỏi tiêu chí chọn trường của các vị phụ huynh cho con của mình
như thế nào. Đa số phụ huynh đều muốn con mình học trong trường công lập.
Theo các bậc phụ huynh thì trường công lập là sự lựa chọn đúng đắn, họ cho rằng
giáo viên của trường công lập có kiến thức và phương pháp dạy vững chắc hơn so
với các trường dân lập. Các khoản chi phí, đóng góp của trường dân lập là rất cao
nên nhiều người không gia đình không thể đáp ứng được.

×