Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Kết hợp nội lực với ngoài lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.44 KB, 21 trang )

1
MỞ ĐẦU
Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán trong tư duy lý
luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Chính Người đã có cơng lao to
lớn xây dựng thành cơng khối đại đồn kết dân tộc, tạo nên sức mạnh vĩ đại đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc có ý nghĩa rất to lớn trong giai đoạn
hiện nay; khơng chỉ giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn về chính sách đại đồn
kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, mà cịn góp phần to lớn trong xây dựng và
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay. Đấu tranh chống các quan điểm, tư
tưởng sai trái, thù địch xung quanh vấn đề này. Đó là một trong những vấn đề lý
luận, thực tiễn cấp thiết có ý nghĩa chiến lược bảo đảm cho sự thành công của
cách mạng nước ta trong thời kỳ mới.


2
NỘI DUNG
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
1.1. Cơ sở hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đoàn kết, tập hợp
các lực lượng cách mạng
Đây là cơ sở lý luận chủ yếu quyết định hình thành tư tưởng khoa học và
cách mạng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Khái quát lịch sử nhân
loại, C. Mác - Ph. Ăngghen đã chỉ rõ quan niệm duy vật lịch sử về mối quan hệ
biện chứng giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ, trong đó khẳng định
quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử và nhiệm vụ cách
mạng càng phát triển thì vai trị đó ngày càng tăng lên. Phát triển quan điểm của
C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đã chỉ rõ cách mạng là ngày hội của quần
chúng bị áp bức bóc lột và khẳng định vai trị của quần chúng nhân dân trong
cách mạng vơ sản. Song, vai trò sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ được
phát huy khi được tổ chức, tập hợp thành khối thống nhất mà nền tảng là liên


minh công - nơng - trí thức, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. V. I. Lênin
đã bổ sung vào khẩu hiệu của C. Mác “Vô sản thế giới liên hợp lại” thành khẩu
hiệu “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đồn kết lại”.
Hồ Chí Minh đã thấm nhuần sâu sắc những quan điểm trên của các nhà
kinh điển Mác - Lênin lấy đó làm cơ sở lý luận để đánh giá đúng những yếu tố
tích cực và hạn chế trong tư tưởng tập hợp lực lượng ở trong nước và thế giới để
hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc.
Truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc Việt Nam
Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng được hình thành và
phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm lịch sử của dân
tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc. Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ được truyền thống đó qua nghiên
cứu kho tàng văn hóa dân gian, qua tìm hiểu tư tưởng đoàn kết tập hợp lực lượng


3
của các vị anh hùng dân tộc, các nhà cách mạng yêu nước đầu thế kỷ XX, tiêu biểu
là của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Người khẳng định truyền thống yêu nước,
đoàn kết là “thuần phong mỹ tục” của dân tộc, cần phải kế thừa và phát huy mãi
mãi.
Tư tưởng về đồn kết trong nền văn hóa của các dân tộc phương Đông,
phương Tây
Không chỉ tiếp thu, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề đoàn kết và truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc Việt Nam, Hồ
Chí Minh cịn tiếp thu được tư tưởng về đồn kết trong nền văn hóa của các dân
tộc phương Đông, phương Tây. Nhất là tư tưởng “lục hoà”, vị tha, từ bi, bác ái
trong học thuyết Phật giáo, tư tưởng về đồn kết mọi dịng họ trong cả nước và
đoàn kết quốc tế “liên Nga, hiệp Cộng, ủng hộ công nông” của Tôn Dật Tiên đã
được Hồ Chí Minh nghiên cứu, vận dụng một cách phù hợp với điều kiện thực
tế ở nước ta. Tư tưởng về vai trò sức mạnh của nhân dân và của đồn kết nhân

dân trong nền văn hố Pháp, Anh, đặc biệt là tư tưởng của Môngteckiơ, Vôn te
đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và phát triển rất sâu sắc.
Kinh nghiệm về đoàn kết lực lượng cách mạng được rút ra từ các phong
trào yêu nước, phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới, nhất là phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tổng kết
trở thành cơ sở quan trọng, cần thiết cho việc hồn thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc.
Nghiên cứu thực tế phong trào cách mạng ở Trung Quốc, ấn Độ và ở
Pháp, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp lực lượng
tiến bộ để tiến hành cách mạng. Đến với cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí
Minh đã nhận thấy bài học thành cơng của cuộc cách mạng này từ việc huy
động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản để giành, giữ chính quyền và xây dựng chế độ xã hội mới.
Nghiên cứu thực tiễn Việt Nam, Người rút ra bài học lịch sử sâu sắc là:


4
Lúc nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại,
lúc nào nước ta khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn. Từ thực tiễn này,
Người đã đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố, phát triển khối đại đồn
kết dân tộc và chính Người đã trở thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc.
1.2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là nội dung có vị trí, vai
trị quan trọng, vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Tiếp thu truyền thống đoàn kết lâu đời trong lịch sử dân tộc,
tinh hoa văn hóa của nhân loại, nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về tập
hợp lực lượng cách mạng, từ điều kiện thực tiễn, Hồ Chí Minh khẳng định đại

đoàn kết dân tộc là nội dung cơ bản, có ý nghĩa chiến lược, nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc là vấn đề
nhất quán trong mọi suy nghĩ, mọi hoạt động thực tiễn của Người, với phương
châm: “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết; Thành cơng, thành cơng, đại thành
cơng”1.
Hồ Chí Minh cho rằng, đại đồn kết dân tộc khơng phải là thủ đoạn chính
trị nhất thời, hoạt động mang tích chất âm mưu nhằm thực hiện mục tiêu trước
mắt là thôi, mà là chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chiến
lược đại đồn kết dân tộc khơng những diễn ra trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, mà còn diễn ra cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có thực hiện
tốt đại đoàn kết dân tộc mới tập hợp được mọi lực lượng, tạo nên sức mạnh to
lớn cho cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ: “Đoàn kết của ta khơng những rộng
rãi mà cịn đồn kết lâu dài. Đồn kết là một chính sách dân tộc, khơng phải là

1

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.2011, tr.455.


5
một thủ đoạn chính trị”2 và “Đồn kết là sức mạnh vô địch của nhân dân”3.
Thực tiễn đã chứng minh, Hồ Chí Minh và Đảng ta ln tiến hành đường
lối đại đồn kết dân tộc đúng đắn, với những hình thức, phương pháp tập hợp
lực lượng phù hợp ở từng giai đoạn lịch sử, đối với mỗi nhiệm vụ cụ thể và đã
đưa cách mạng Việt Nam đi từng thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thắng lợi
Cách mạng Tháng Tám 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ xâm lược, cũng như thắng lợi của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, từ năm 1954 đến năm 1969, đã chứng minh sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong
q trình ra đi tìm đường cứu nước, cũng như trong thực tiễn lãnh đạo cách

mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đại đồn kết dân tộc khơng chỉ là vấn đề chiến lược, còn là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng đại đoàn kết dân tộc
là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đòi hỏi khách quan sự nghiệp cách
mạng mà Đảng và nhân dân ta tiến hành. Người nói: “Mục đích của Đảng Lao
động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ
quốc”4. Thực hiện đại đồn kết dân tộc khơng phải là ý muốn chủ quan của bất
cứ một ai, một lực lượng nào, đây là nhu cầu tất yếu trong sự nghiệp cách mạng
của dân, do dân và vì dân. Sau khi Đảng đã có đường lối đúng đắn thì việc xây
dựng mối quan hệ đoàn kết dân tộc như thế nào? tiến hành tập hợp lực lượng
cách mạng ra sao? quyết định trực tiếp đến thắng lợi, hay thất bại của cách
mạng. Hồ Chí Minh yêu cầu vấn đề đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt
sâu sắc trong mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước và đại đoàn kết dân tộc phải được thực hiện ở bất cứ không gian, thời
gian nào, đứng trước bất cứ nhiệm vụ cách mạng gì.
2
3
4

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nxb CTQG, H.2011, tr.244.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.2011, tr.524.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 7, Nxb CTQG, H.2011, tr.49.


6
Vì vậy, năm 1941, trước sự thay đổi mau lẹ của tình hình thế giới và trong
nước, sau 30 năm hoạt động ở nước ngồi, Hồ Chí Minh đã về nước trực tiếp
lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Theo đề nghị của Người, ngày 19-51941, Mặt trận Việt Minh ra đời, nhằm đoàn kết toàn dân tập hợp lực lượng đấu
tranh giành độc lập dân tộc. Sau khi thành lập Mặt trận Việt Minh, Hồ Chí Minh

đã viết thư Kính cáo đồng bào, kêu gọi 20 triệu con Lạc cháu Hồng nêu cao
truyền thống yêu nước, đoàn kết đánh đuổi thực dân Pháp và phát xít Nhật:
“Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu
giống nịi ra khỏi nước sơi lửa nóng”5.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, trong Bản Tuyên ngơn Độc lập của Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa, sau khi lên án tội ác của thực dân Pháp, Người khẳng
định lực lượng của cách mạng Việt Nam là “toàn dân đoàn kết” 6. Bản Di chúc,
một tác phẩm đặc biệt, có giá trị to lớn, tài sản vơ cùng q báu mà Hồ Chí
Minh để lại cho tồn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, cũng căn dặn: “Đoàn kết là
một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung
ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn
con ngươi của mắt mình”7.
1.2.2. Lực lượng đại đồn kết dân tộc
Theo Hồ Chí Minh lực lượng của khối đại đồn kết dân tộc, bao gồm: các
giai cấp, dân tộc, mọi tôn giáo, đảng phái, vùng, miền, các tầng lớp trong xã hội,
không phân biệt già trẻ, trai, gái, lứa tuổi, giàu, nghèo…mọi người Việt Nam
yêu nước đều là lực lượng của khối đại đồn kết dân tộc. Hồ Chí Minh chủ
trương đồn kết các dân tộc trong nước thành một khối thống nhất, không phân
biệt miền xuôi hay miền ngược, dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số. Người viết:
“Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba
Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột
5
6
7

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.2011, tr.230.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.2011, tr.18.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 15, Nxb CTQG, H.2011, tr.611.



7
thịt... Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau
để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta” 8. Đại đoàn kết dân
tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rộng lớn, phong phú, bao gồm
nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều cấp độ khác nhau, như: về cơ cấu lực lượng là các
giai tầng, các ngành, các giới, mọi dân tộc, tơn giáo, nam nữ, lứa tuổi…địa bàn
đồn kết từ miền xuôi lên miền ngược, từ miền ngược về miền xi, phạm vi
đồn kết từ gia đình, tập thể đến quốc gia.
1.2.3. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc
Đoàn kết phải trên cơ sở lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của
các tầng lớp nhân dân. Đại đồn kết dân tộc song khơng phải là số cộng đơn
thuần, tập hợp lực lượng vô nguyên tắc, mà theo Hồ Chí Minh phải lấy lợi ích
tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân làm nền tảng.
Đoàn kết toàn dân, nhưng giữa các lực lượng trong q trình đồn kết phải có
điểm “tương đồng”, có lợi ích chung, đó là lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi
cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, bất cứ nhà chính
trị nào cũng đều biết rõ vai trị, ý nghĩa của đồn kết, nhưng điều quan trọng là
có khơi dậy được lợi ích tương đồng giữa các tầng lớp nhân dân hay khơng;
nếu khơng phát huy được lợi ích chung giữa các tầng lớp nhân dân sẽ không
tập hợp được lực lượng. Mặt khác, lấy lợi ích chung trong q trình đồn kết là
điều kiện để đấu tranh, loại bỏ lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ, cản chở sự phát
triển của cách mạng.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra mẫu số chung của toàn thể dân tộc là “độc lập tự
do” cho Tổ quốc, cuộc sống “ấm no, hạnh phúc” của nhân dân. Chân lý “Khơng
có gì q hơn độc lập tự do” là mục tiêu, động lực của cách mạng Việt Nam,
điểm hội tụ của chiến lược đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở tin vào dân, dựa vào dân. Quan điểm
8


Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.2011, tr.249.


8
phải tin vào dân, dựa vào dân để thực hiện đại đồn kết của Hồ Chí Minh là sự
kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa của nhân loại, đồng
thời quán triệt sâu sắc nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin “Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời khơng gì
q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của
nhân dân”9. Tin vào dân, dựa vào dân trong q trình đồn kết dân tộc là “điểm
mẹ”, nếu “điểm mẹ tốt” sẽ đẻ ra các điểm con tốt. Có đặt niềm tin vào nhân dân,
dựa vào nhân dân, đấu tranh cho lợi ích của nhân dân, mới xây dựng được mối
quan hệ đoàn kết lâu dài, vững chắc trong các tầng lớp nhân dân, sức mạnh của
khối đại đoàn kết dân tộc sẽ là “trường xuân bất lão”. Theo Người tin vào dân,
dựa vào dân, ra sức tuyên truyền, giác ngộ nhân dân, giải quyết kịp thời những
nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân mới xây dựng được
khối đại đồn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng thực hiện nhiều hình thức tập hợp lực lượng phù
hợp với từng đối tượng, phải có tấm lịng khoan dung, độ lượng, nhất là với
những người lầm đường, lạc lối để xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, vì
“Đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với
những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có
như thế mới thành đại đồn kết, có đại đồn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ
vang”10. Nguyên tắc tin vào dân, dựa vào dân trong q trình đại đồn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh chỉ ra: Dân là gốc rễ, nền tảng của đại đoàn kết; Dân là chủ
thể của đại đoàn kết; Dân là nguồn sức mạnh vô tận, vô địch của khối đại đồn
kết.
Hồ Chí Minh cho rằng đại đồn kết toàn dân tộc nhưng phải trên lập
trường của giai cấp công nhân, lấy khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai
cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đảng là người lãnh đạo sự nghiệp đoàn kết toàn dân, là hạt nhân của khối đại
9
10

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.2011, tr.453.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.2011, tr.280.


9
đoàn kết dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Để lãnh đạo khối đồn kết tồn dân, Hồ Chí Minh u cầu Đảng phải có
đường lối cách mạng đúng đắn, cách tổ chức, thực hiện đại đoàn kết khoa học và
phù hợp. Đảng phải là một tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật tự giác và nghiêm minh,
thực hiện tốt các nguyên tắc sinh hoạt của đảng kiểu mới, đảng viên “là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Mặt khác, Đảng muốn lãnh đạo được sự
nghiệp đoàn kết toàn dân, là hạt nhân của khối đồn kết dân tộc, thì ngay trong
nội bộ Đảng cũng phải thực hiện tốt việc đồn kết, vì vậy “phải giữ gìn sự đồn
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”11.
1.2.4. Phương pháp đại đồn kết
Hồ Chí Minh cho rằng, tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng nhân
dân là nhiệm vụ quan trọng, phương pháp trực tiếp, cần tiến hành thường xuyên
và liên tục để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Nội dung tuyên truyền vừa
đáp ứng được nguyện vọng, quyền lợi cơ bản của quần chúng, vừa đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn của cách mạng đặt ra. Theo Người những nội dung tuyên
truyền, vận động quần chúng nhân dân phải phù hợp với từng giai đoạn cụ thể,
từng nhiệm vụ lịch sử, với mỗi đối tượng, cộng đồng xã hội khác nhau. Hiệu quả
của công tác tuyên truyền tùy thuộc vào việc sử dụng các hình thức tuyên
truyền, vận động quần chúng nhân dân. Người yêu cầu khi tuyên truyền, vận
động quần chúng: nói, viết phải ngắn gọn, dễ hiểu, giản dị, bằng ngôn ngữ thông
thường gần gũi với mọi người dân, sao cho ai cũng hiểu được, nhớ được, làm

được. Công tác tuyên truyền phụ thuộc rất lớn vào bản thân người đi tuyên
truyền, vận động. Muốn quần chúng tin theo, người cán bộ tuyên truyền phải
nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, mẫu mực từ lời nói đến việc làm, có
sức lơi cuốn, thu phục quần chúng. Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều hình thức
tun truyền như: báo chí, phim ảnh, nêu gương...để tranh thủ sự đồng tình ủng
hộ của đồng bào trong nước và nhân dân thế giới đối với cách mạng Việt Nam.
11

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 15, Nxb CTQG, H.2011, tr.611.


10
Hồ Chí Minh ln chủ trương xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm, thù hận,
bài bác lẫn nhau, xây dựng lịng chân thành, thân ái trong đồn kết tập để hợp lực
lượng cách mạng. Đoàn kết cả với những nhân sĩ, trí thức, những người đã từng
sống và làm việc dưới chế độ cũ, nhưng hiện tại họ đặt lợi ích của nhân dân, dân
tộc trên trên hết, vì vậy phải có lịng khoan dung, rộng lượng, nhân ái. Theo Hồ
Chí Minh, phải đấu tranh với những quan điểm sai trái, để củng cố, xây dựng mối
quan hệ đại đoàn kết dân tộc. Người nói: “Đồn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết,
vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và
phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”12. Thực hiện phương châm “vừa
đoàn kết, vừa đấu tranh”, đồng thời cần phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, trên cơ sở
đó khơng ngừng củng cố, xây dựng mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện
tốt việc tự phê bình và phê bình, khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, phát huy
những ưu điểm, giúp nhau cùng tiến bộ, xây dựng nội bộ, củng cố tổ chức. Tiến
hành tự phê bình và phê bình thường xuyên như “rửa mặt hằng ngày”, tự phê bình
và phê bình phải chân thành, thẳng thắn, thân ái, có lý, có tình, thương yêu nhau,
giúp nhau cùng tiến bộ, phê bình việc chứ khơng phê bình người.
Để xây dựng khối đại đồn kết dân tộc, đòi hỏi phải xây dựng, củng cố,
phát huy vai trị của hệ thống chính trị, nhất là các tổ chức chính trị xã hội và vai

trị lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước là người tổ chức,
quản lý, điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội, mỗi chủ trương, chính sách
của Nhà nước đều tác động trực tiếp đến cuộc sống, lợi ích, tâm tư, tình cảm của
các tấng lớp nhân dân. Theo Hồ Chí Minh muốn xây dựng lực lượng, phát huy
sức mạnh đoàn kết dân tộc phải xây dựng Nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì
dân, khơng ngừng cải cách bộ máy hành chính và hồn thiện hệ thống pháp luật.
Cán bộ, cơng chức nhà nước phải tận tụy, trung thành phục vụ nhân dân, là “cơng
bộc của dân”.
1.2.5. Hình thức đại đồn kết
12

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2011, tr.362.


11
Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận Dân tộc Thống nhất là một tổ chức quan
trọng để xây dựng, tổ chức các hình thức đồn kết tồn dân, đồn kết dân tộc.
Mặt trận là một liên minh chính trị, quy tụ rộng rãi các tổ chức và cá nhân yêu
nước thành một khối thống nhất, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh cho
mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Do vậy, để xây dựng,
củng cố Mặt trận Dân tộc Thống nhất phải chú ý những yêu cầu:
Một là, Mặt trận phải lấy liên minh giữa giai cấp công, giai cấp nông và
tầng lớp trí thức làm nền tảng. Liên minh giữa giai cấp cơng, giai cấp nơng dân
và tầng lớp trí thức có vững, Mặt trận mới tổ chức đoàn kết toàn dân được sâu
rộng và lâu dài. Đây là yêu cầu quan trọng để Mặt trận xây dựng mối quan hệ
đoàn kết dân tộc, đoàn kết với các tầng lớp nhân dân lâu dài và bền vững.
Hai là, Đảng Cộng sản vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt
trận Dân tộc Thống nhất. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng việc đề ra đường lối, chủ
trương đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn của cuộc cách mạng.
Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục,

thuyết phục, thông qua tổ chức các cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên.
Là một thành viên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, Hồ Chí Minh u
cầu Đảng khơng được đứng trên hay đứng ngồi Mặt trận, mà phải đứng trong
Mặt trận, luôn tỏ ra là một bộ phận tiên tiến, mẫu mực nhất trong Mặt trận. Đảng
phải tôn trọng các tổ chức, thành viên trong Mặt trận. Cán bộ, Đảng viên không
được tự cao, tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người, phải học hỏi điều hay,
điều tốt của mọi người.
Đảng là người lãnh đạo Mặt trận, nhưng Đảng không được ra mệnh lệnh,
chỉ thị áp đặt đối với Mặt trận. Quyền lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận không
phải do Đảng tự phong cho mình, mà phải được quần chúng nhân dân thừa
nhận. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng khơng thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền
lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động
nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần


12
chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng,
thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo.”13.
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng, ở mỗi thời kỳ, Đảng đều tổ chức và xây
dựng Mặt trận với nhiều tên gọi khác nhau như: Hội phản đế (11/1930), Mặt trận
dân chủ (1936), Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận Liên Việt (1951), Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam (1955 ở miền Bắc), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam (1960 ở miền Nam). Khi cả nước thống nhất đó là Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (1976). Hồ Chí Minh cho rằng, trong cách mạng dân tộc dân chủ, cũng
như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất luôn là một
lực lượng to lớn, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Người chỉ rõ: “Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách
mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Đồn
kết trong Mặt trận Liên - Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hịa
bình ở Đơng Dương, hồn tồn giải phóng miền Bắc. Đoàn kết trong Mặt trận Tố

quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong công cuộc khôi phục
kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc”14.
2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN
KẾT DÂN TỘC VÀO XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ KHỐI ĐẠI
ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN HIỆN NAY
2.1. Sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đồn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Một là, từ giá trị lý luận, giá trị thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc có giá trị lý luận, thực
tiễn sâu sắc, đặt ra tính cấp thiết phải nghiên cứu, nắm vững và vận dụng sáng
tạo trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy những điều kiện thuận
13
14

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.2011, tr.168.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.2011, tr.452.


13
lợi của tình hình thế giới hiện nay để góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới đất nước. Thực tế đã chứng minh, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc thể hiện sự đúng đắn, sáng tạo, tính cách mạng và khoa học. Tư
tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo, phát
triển làm phong phú truyền thống dân tộc, lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
những tinh hoa của nhân loại về đoàn kết trong điều kiện thực tiễn của cách
mạng Việt Nam.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đồn kết đã trở thành tài sản vô giá, cơ
sở lý luận, kim chỉ Nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta trong lịch

sử. Trên cơ sở tư tưởng của Người về đại đoàn kết, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo
xây dựng khối đoàn kết toàn dân, huy động sức mạnh của đất nước, giải quyết tốt
các mối quan hệ quốc tế, giành thắng lợi trong giai đoạn 1930-1945, cũng như
cuộc kháng chiến phống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và trong xây dựng
đất nước. Từ tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân đặt ra
cần tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người trong công cuộc đổi mới hiện
nay.
Hai là, từ thực tiễn tình hình thế giới và trong nước hiện nay.
Nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
bối cảnh thế giới có những thay đổi nhanh chóng, khó lường, hịa bình, hợp tác
và phát triển vẫn là xu thế lớn, song xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục
bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt ở nhiều nơi. Tồn cầu hóa và
hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư đang phát triển mạnh mẽ. Các nước lớn từng bước điều chỉnh chiến lược, vừa
hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục
diện thế giới. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng,
an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh...
tiếp tục có những diễn biến phức tạp.


14
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đơng Nam Á là
trung tâm phát triển năng động, có vị trí chính trị - kinh tế ngày càng quan trọng
trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số
nước lớn, có nhiều nhân tố gây mất ổn định. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền,
biển đảo đang diễn ra gay gắt, phức tạp, nhất là tình hình trên biển Đơng. Như
vậy, tình hình trên thế giới có những thuận lợi, song cũng có nhiều khó khăn,
thử thách, địi hỏi phải nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đồn kết dân tộc trong quá trình đổi mới.
Trong nước, những thành tựu và kinh nghiệm của hơn 37 năm đổi mới đã

tạo cho đất nước có thế và lực mới. Tình hình chinh trị - xã hội ổn định, những
hạn chế, yếu kém trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội từng bước được khắc phục.
Giáo dục, đào tạo, khoa học cơng nghệ có bước phát triển mới. An sinh xã hội
được quan tâm nhiều hơn. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng
cao. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được củng cố và phát triển.
Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước những thách thức mới địi hỏi phải vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi
mới.
Ba là, từ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
Hiện nay các thế lực thù địch đang đẩy mạnh thực hiện âm mưu “diễn biến
hịa bình” chống phá cách mạng nước ta, chúng tìm mọi cách gây chia rẽ giữa các
bộ phận nhân dân, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, quân đội với nhân
dân, xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng đối với quân đội… Đặc biệt, chúng thường
sử dụng các chiêu bài như “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”… hịng
gây chia rẽ khối đồn kết tồn dân, tìm mọi cách nói xấu, bơi đen, vu khống tình
hình đất nước, chống phá đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ
đối ngoại, Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế của Đảng ta. Thực tế tình trạng suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan


15
liêu, tham nhũng, lãng phí đang gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân,
đòi hỏi phải đấu tranh loại bỏ giặc “nội xâm”, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh. Các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi kẽ hở, sai lầm, lợi dụng vào
cuộc đấu tranh chống các biểu hiện tham nhũng, lãng phí tồn tại trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên của Đảng để chống phá cách mạng nước ta. Các lực lượng
phản động, thù địch tìm cách phá hoại sự đồn kết trong Đảng, trong nhân dân,
xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ chính trị nước ta. Từ thực tiễn
trên, đặt ra sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc

một cách đúng đắn và sáng tạo trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nội dung và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn
kết dân tộc trong tình hình hiện nay
2.2.1. Nội dung vận dụng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
dân tộc trong tình hình hiện nay
Một là, tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng trong xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc hiện nay.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc quan trọng hàng đầu
trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Bởi khối đại
đồn kết dân tộc khơng phải tự nhiên có, mà đó là kết quả sự nỗ lực cao độ của
tồn Đảng, tồn qn và tồn dân, sự tích cực, tự giác của các lực lượng cách
mạng, tiến bộ trên thế giới, trong đó Đảng ta giữ vai trị là hạt nhân lãnh đạo.
Để tăng cường, mở rộng khối đại đồn kết dân tộc trong giai đoạn hiên
nay, địi hỏi Đảng phải nắm vững và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc, phương
pháp đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Đảng phải có nội dung, phương pháp
lãnh đạo sát, đúng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong nước và quốc tế; kết hợp
chặt chẽ giữa đối ngoại của Đảng, Nhà nước với ngoại giao nhân dân… công tác
vận động quần chúng nhạy bén, linh hoạt. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
phải thực sự nêu một tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết, tận tụy vì nước, vì


16
dân; lời nói phải đi đơi với việc làm thì mới bảo đảm tính thuyết phục, cảm hóa
lịng người.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và củng
cố khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay, đòi hỏi Đảng cần xác định rõ mục tiêu,
nhiệm vụ cách mạng cụ thể, đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân; tôn trọng nguyên tắc hiệp thương, dân chủ trong
tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thường xuyên quan tâm,
chăm lo củng cố, kiện tồn hệ thống chính trị, phát huy vai trị của Nhà nước và

các đồn thể quần chúng. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là Nhà nước phải xây
dựng được một hệ thống pháp luật đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng và lợi
ích thiết thực của các tầng lớp nhân dân, khích lệ tinh thần u nước, lịng tự hào
dân tộc, hướng mọi hoạt động của các tổ chức, lực lượng, đồn thể vào thực
hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Hai là, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc vững mạnh.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc trong tình hình
hiện nay, địi hỏi tồn Đảng, tồn dân và toàn quân ta phải thường xuyên nêu
cao cảnh giác cách mạng, kiên định mục tiêu chiến lược, không ngừng củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, coi đó là động lực chủ yếu để phát triển
đất nước. Thực tế xây dựng, mở rộng, củng cố khối đại đồn kết dân tộc là cơng
việc vơ cùng khó khăn, lâu dài và hết sức phức tạp. Đảng phải có phương pháp
cách mạng đúng đắn, đồng thời luôn chủ động, sáng tạo trong xử lý các mối
quan hệ trong nước.
Trên cơ sở nắm vững nguyên tắc về đại đoàn kết dân tộc, chủ động khơi
dậy và phát huy những yếu tố tương đồng, những lợi ích chung, cả lợi ích trước
mắt và lâu dài của các giai cấp, dân tộc, tôn giáo, vùng miền, các tầng lớp dân
cư, mọi lực lượng trong xã hội. Thực hiện nhất quán chủ trương, đường lối của
Đảng coi: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt


17
Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dụng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng
thời, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết, xử lý đúng các mối quan hệ giữa bộ
phận và toàn cục, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa quá khứ và hiện
tại…tạo ra thế và lực mới cho cách mạng, đồn kết hướng tới tương lai.
Để khơng ngừng củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc coi trọng
phát huy dân chủ, đi đôi với củng cố và hồn thiện pháp luật, xây dựng bầu
khơng khí cởi mở, tin cậy, tạo nên sự đồng thuận trong toàn xã hội. Chủ động

xây dựng hệ thống chính sách khoa học, đúng đắn, phù hợp với từng đối tượng,
phù hợp với đặc điểm thực tiễn của đất nước, từ đó phát huy cao nhất mọi tiềm
năng, trí tuệ sáng tạo của các tầng lớp nhân dân.
Ba là, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
công cuộc đổi mới hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc cần nhận thức
đúng đắn và kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Đảng ta đã nhấn mạnh: “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan
hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy
và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Mặc khác, giải quyết
các vấn đề trong quan hệ quốc tế phải trên nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc và được thực hiện trên cơ sở “thấu tình,
đạt lý”. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc phải giải
quyết tốt mối quan hệ giữa sức mạnh nội lực và sức mạnh ngoại lực, sức
mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với
tinh thần quốc tế trong sáng, giữa lợi ích dân tộc mình và lợi ích các dân tộc
khác, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện trên các
lĩnh vực, nhất là trong phát triển kinh tế phục vụ đời sống của nhân dân, khi bối


18
cảnh tình hình thế giới có biến động lớn, tác động sâu sắc đến các quốc gia dân
tộc. Sự phát triển kinh tế trên thế giới có nhiều khó khăn, bất ổn, chiến tranh
thương mại, cạnh tranh kinh tế… đã và đang tác động đến công cuộc đổi mới
của đất nước; trong khi đó các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện chiến lược
“diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ dưới nhiều hình thức hết sức tinh vi, xảo
quyệt, hịng xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ chính trị ở nước ta.

Những khó khăn về đời sống, công ăn, việc làm, thu nhập… của người lao động
đã và đang tác động trực tiếp tới q trình xây dựng, củng cố khối đại đồn kết
dân tộc và phát huy sức mạnh thời đại. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, thực
hiện chính sách ngoại giao độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển, tích
cực, chủ động hội nhập quốc tế, trên cơ sở sức mạnh dân tộc phát huy sức mạnh
thời đại nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của đất nước.
2.2.2. Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
trong tình hình hiện nay
Một là, làm tốt công tác tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn
kết dân tộc.
Để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc trong tình
hình hiện nay, trước tiên phải làm tốt công tác tuyên truyền để các tầng lớp nhân
dân thấu hiểu tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc. Thực tế trong những
năm qua chất lượng, hiệu quả cơng tác tun truyền tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc nói riêng đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ, tạo lên sự đồn kết thống nhất cao trong toàn
Đảng, sự đồng thuận, đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân trong xã hội, phát huy
được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, việc tun truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc vẫn cịn những hạn chế nhất định. Vì vậy, cần đổi mới nội
dung, phương thức, phát huy hơn nữa vai trò của các lực lượng chuyên trách, hệ
thống chính trị, các cơ quan truyền thơng, nhất là các phương tiện thông tin đại


19
chúng, hệ thống giáo dục… để tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn
kết dân tộc. Cơng tác tuyên truyền tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc
phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, coi đây là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, trực tiếp là của cấp ủy đảng, người đứng đầu cơ quan đơn vị.
Hai là, kết hợp đúng đắn giữa các lợi ích, lấy lợi ích chung của dân tộc,

của đất nước làm điểm tương đồng.
Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong tình hình hiện nay phải biết giải
quyết đúng đắn, hài hịa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích
các vùng, các miền, lợi ích giữa các bộ phận dân cư... Trong đó lấy lợi ích chung
của đất nước, của dân tộc làm điểm tương đồng để xây dựng khối đại đoàn kết
tồn dân. Lợi ích chung của đất nước, của các tầng lớp nhân dân là độc lập dân
tộc, cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, được biểu hiện trên tất cả
các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, đối ngoại, văn hóa, an ninh, quốc phịng...Để
củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay, điều quan trọng nhất là
phải giải quyết đúng đắn, hài hịa giữa các lợi ích để phục vụ người dân. Cũng
chính vì vậy, quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân phải được tôn trọng, phát
huy trên tất cả cách lĩnh vực đời sống xã hội.
Ba là, chăm lo xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Xây dựng khối đại đồn kết dân tộc giai đoạn hiên nay, địi hỏi phải xây
dựng, củng cố, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Đảng phải có đường lối, chủ trương, giải pháp lãnh đạo đúng đắn xây
dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
Nhà nước tổ chức, quản lý, điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội, mỗi
chủ trương, chính sách của Nhà nước đều tác động trực tiếp đến cuộc sống, lợi
ích, tâm tư, tình cảm của các tấng lớp nhân dân. Vì vậy, phải xây dựng Nhà
nước thật sự là của dân, do dân, vì dân, khơng ngừng cải cách bộ máy hành
chính và hồn thiện hệ thống pháp luật. Cán bộ, cơng chức nhà nước luôn trung


20
thành, tận tuy phục vụ nhân dân, là “công bộc của dân”. Hiến pháp và pháp luật
của Nhà nước phải được tôn trọng, thực thi một cách nghiêm túc và hiệu quả.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không ngừng đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động, xây dựng một xã hội có sự đồng thuận cao, ra sức tập hợp, vận động

nhân dân đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Phát huy truyền thống đồn kết,
nhân nghĩa của dân tộc, thực hiện tốt đường lối của Đảng đối với đồng bào đang
định cư ở nước ngoài, thực sự coi họ là bộ phận ruột thịt không tách rời của dân
tộc Việt Nam, giúp đồng bào ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc, đồn kết hướng về Tổ quốc, hướng tới tương lai.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một cống hiến đặc sắc,
có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Tư tưởng của Người đã trở thành ngọn cờ
tư tưởng của Đảng và thấm sâu vào suy nghĩ, hành động của tất cả những người
Việt Nam yêu nước, nó đã hoá thành sức mạnh, thành động lực của sự phát triển
đất nước trước đây cũng như hiện nay. Đó là tư tưởng về đoàn kết, tập hợp, phát
huy sức mạnh cao nhất của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng của Người
về đại đoàn kết dân tộc là một vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa quyết định thành cơng
của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới.



×