Tải bản đầy đủ (.doc) (165 trang)

Luận án Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.71 KB, 165 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN KIM PHƯỢNG
nhµ níc víi viÖc ph¸t huy néi lùc
vµ ngo¹i lùc trong héi nhËp quèc tÕ
ë ViÖt Nam hiÖn nay
Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS
Mã số : 62 22 80 05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THÀNH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập.
Các kết quả số liệu nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ quan chức năng đã
công bố. Những kết luận khoa học của luận án là mới và chưa
có tác giả công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.
Tác giả luận án
Nguyễn Kim Phượng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
6
1.1. Các công trình nghiên cứu về nội lực, ngoại lực và vai trò của
chúng trong sự phát triển đất nước 6
1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của Nhà nước và những giải
pháp nâng cao vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy nội
lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay 12
1.3. Những giá trị của các công trình đã nghiên cứu và một số định


hướng mà luận án tiếp tục phải thực hiện 22
Chương 2: TÍNH TẤT YẾU VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC, NGOẠI LỰC TRONG HỘI
NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
25
2.1. Nội lực, ngoại lực và mối quan hệ biện chứng giữa nội lực, ngoại
lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 25
2.2. Sự cần thiết phải phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập
quốc tế ở Việt Nam hiện nay 39
2.3. Những biểu hiện chủ yếu về vai trò của Nhà nước đối với việc
phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam
hiện nay 49
Chương 3: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY
NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở
NƯỚC TA: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
60
3.1. Thực trạng vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy nội lực và
ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam 60
3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với nhà nước trong việc phát huy nội lực
và ngoại lực thời kỳ hội nhập hiện nay 99
Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG
CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY
NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
118
4.1. Một số quan điểm có tính nguyên tắc đối với Nhà nước trong
việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay 118
4.2. Một số nhóm giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của Nhà nước đối
với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở

Việt Nam hiện nay 122
KẾT LUẬN
148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
152
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á
ADB : Ngân hàng phát triển châu Á
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
EC : Ủy ban châu Âu
EU : Liên minh châu Âu
FDI : Vốn đầu tư trực tiếp
FPI : Vốn đầu tư gián tiếp
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
HDI : Chỉ số phát triển con người
IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế
NAFTA : Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mĩ
ODA : Vỗn hỗ trợ phát triển chính thức
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới
WB : Ngân hàng thế giới
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Bước vào thế kỷ XXI thế giới có những biến đổi nhanh chóng, sâu sắc và
phức tạp với những cơ hội và thách thức to lớn đối với từng quốc gia, đặc biệt
là đối với các nước nghèo và chậm phát triển. Mặc dù thế giới có thể còn có
nhiều diễn biến phức tạp với sự hợp tác và đấu tranh đan xen lẫn nhau, song
xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác để tiếp tục phát triển vẫn là xu thế chủ đạo
trên thế giới, chi phối các quan hệ quốc tế cũng như chiến lược phát triển của
từng nước. Hội nhập quốc tế nhằm mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên
mọi lĩnh vực đời sống đã và đang trở thành xu thế nổi bật của thời đại. Bất cứ
quốc gia nào muốn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội tất yếu phải
tham gia vào xu thế đó. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam không thể không hội
nhập quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội để phát triển.
Để chủ động hội nhập với thế giới, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững,
Việt Nam cần phải tích cực, chủ động phát huy và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước
vững bước tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội. Phát huy nội lực và ngoại lực
giúp chúng ta mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, tiếp thu thành tựu văn minh
nhân loại, phát huy mọi lợi thế so sánh của quốc gia, rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển. Phát huy nội lực và ngoại lực trở thành
yêu cầu tất yếu, là nhu cầu bức thiết đối với Việt Nam trong xu thế hội nhập
để phát triển đất nước hiện nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng đã chỉ rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định,
đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát
triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” [31, tr.102].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua, nhà nước đã không
ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo môi trường thuận lợi để phát huy
nội lực, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh quốc gia, phát triển kinh
1
tế, đồng thời chủ động thu hút được nhiều nguồn ngoại lực và khai thác, sử
dụng ngày càng có hiệu quả hơn các nguồn lực cho sự phát triển, đưa đất
nước từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới. Thành tựu đó cho thấy vai trò

to lớn của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, điều hành việc phát huy nội lực và
ngoại lực, vai trò của nhà nước có lúc chưa thực sự được thể hiện đúng mức
và đầy đủ do sự chi phối đa dạng, phức tạp của quá trình hội nhập quốc tế,
đặc biệt là do những hạn chế thuộc về bản thân nhà nước như: bộ máy cồng
kềnh, chậm thích ứng với những biến động của thế giới; trình độ quản lý, điều
tiết vĩ mô của nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu của việc phát huy nội lực
và ngoại lực; hệ thống pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; công tác cán bộ
còn chậm đổi mới; công tác tổ chức thực hiện việc phát huy nội lực và ngoại
lực còn lúng túng, thiếu chủ động…
Những hạn chế đó của nhà nước đặt việc phát huy nội lực và ngoại lực trước
những khó khăn, thách thức và chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Cụ thể là:
Việc phát huy nội lực còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước.
Việc thu hút ngoại lực đã tích cực hơn nhưng chưa thực sự chủ động. Việc
khai thác và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước chưa hợp lý, chưa tương xứng với tiềm năng, chưa
phát huy hết vai trò của nó trong việc thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập
quốc tế ở nước ta.
Bên cạnh đó, việc phát huy nội lực và ngoại lực chưa thực sự đem lại sự
phát triển bền vững cho đất nước. Nền kinh tế Việt Nam phát triển năng động
với tốc độ tăng trưởng khá nhưng hiệu quả kinh tế còn thiếu bền vững, “chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp; chuyển dịch cơ cấu theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc; chế độ
phân phối còn nhiều bất hợp lý” [31, tr.17]. Việc khai thác, sử dụng nội lực và
ngoại lực chưa hợp lý dẫn đến suy kiệt nhiều nguồn tài nhiên thiên nhiên, hủy
2
hoại môi trường sinh thái, làm thay đổi mô hình bệnh tật, ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn nhân lực…
Mặt khác, việc phát huy nội lực và ngoại lực trong bối cảnh hội nhập

quốc tế với nhiều biến động phức tạp hiện nay đã đặt ra không ít khó khăn,
thách thức cho sự phát triển đất nước. Sự tác động mạnh mẽ của các nguồn
ngoại lực từ nhiều phía có thể thu hẹp phạm vi tác động của nhà nước, gây
mất an toàn hệ thống kinh tế, tài chính, an ninh quốc gia; làm trầm trọng sự
bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giữa người giàu, người nghèo, giữa các
quốc gia trên thế giới; nhiều nguồn viện trợ, hợp tác chuyển giao công nghệ
mang động cơ chính trị có thể dẫn tới nguy cơ chệch hướng; Khủng hoảng
kinh tế toàn cầu đặt các nước có nền kinh tế trung bình và chậm phát triển
trước nguy cơ đỗ vỡ và khủng hoảng nguồn lực cho phát triển do bị mất hoặc
giảm các nguồn viện trợ, vốn vay nước ngoài… Tình hình đó ảnh hưởng lớn
đến vai trò quản lý, điều hành của nhà nước đối với các nguồn lực phát triển
đất nước, đặt nhà nước trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Những hạn chế, thách thức trên đều là những vấn đề thời sự cấp bách đã
và đang trở thành lực cản cho sự phát triển bền vững của đất nước đòi hỏi
phải tăng cường công tác quản lý, điều tiết, cân đối vĩ mô đối với việc khai
thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực. Thực trạng đó đặt
ra yêu cầu cấp thiết phải đổi mới, hoàn thiện, tăng cường vai trò của nhà nước
để phát huy tối đa những tác động tích cực và giảm thiểu những tiêu cực trong
việc phát huy nội lực và ngoại lực nhằm đạt mục tiêu phát triển nhanh và bền
vững, đảm bảo công bằng xã hội, đồng thời tránh tình trạng suy giảm vai trò của
nhà nước và nguy cơ chệch hướng trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội
nhập quốc tế góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, tôi
chọn chủ đề: “Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ chuyên ngành
Triết học của mình.
3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích

Trên cở sở làm rõ vai trò của nhà nước, thực trạng, và những vấn đề đặt
ra đối với vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực, ngoại lực trong
hội nhập quốc tế, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng
cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực, đảm bảo
phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
- Làm rõ sự cần thiết phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc
tế và vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy đó ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng, phân tích một số vấn đề đặt ra đối với vai trò của
Nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở
Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò
của Nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo phát triển
bền vững đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội
lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu về vai trò của nhà
nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước trong bối
cảnh hội nhập quốc tế.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về nâng cao hiệu quả quản lý của nhà
nước, về vấn đề phát huy nội lực và ngoại lực, về hợp tác quốc tế, hội nhập
quốc tế, đường lối đối ngoại của Việt Nam
4
Ngoài ra, luận án còn kế thừa kết quả của một số công trình nghiên cứu,

đề tài khoa học, sách, báo, tài liệu có liên quan đến những nội dung được
đề cập trong luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như nguyên tắc khách
quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn, lôgíc - lịch sử…
Luận án còn kết hợp các phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp,
quy nạp và diễn dịch, thống kê, mô tả, so sánh
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ dưới góc độ triết học vai trò của nhà nước đối với
việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng
cao vai trò nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong bối cảnh
hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án bước đầu làm sáng tỏ về mặt lý luận vai trò của nhà nước đối với
việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Luận án góp phần vào công tác tổng kết thực tiễn thông qua việc làm rõ
thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với vai trò của nhà nước trong việc phát
huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Từ đó, công trình này đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản và thiết
thực nhằm nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và
ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho việc học tập, nghiên cứu lý luận, phục vụ công tác giảng dạy ở các trường
đại học, học viện…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Cho đến nay, khó có thể thống kê hết số lượng công trình, bài viết
nghiên cứu về vấn đề phát huy vai trò của nhà nước, phát huy nội lực, ngoại
lực và hội nhập quốc tế, song có thể thấy, mỗi công trình, đề tài, ở các góc độ
khác nhau đã cung cấp những tư liệu khoa học cả về lý luận và thực tiễn, làm
cơ sở cho những người quan tâm nghiên cứu và những người hoạch định
chính sách về các vấn đề nêu trên. Trong số các công trình đó, có một số
nhóm công trình tiêu biểu như sau:
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NỘI LỰC, NGOẠI LỰC VÀ VAI
TRÒ CỦA CHÚNG TRONG SỰ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
* Trên thế giới, từ lâu, các học giả đã dày công nghiên cứu về nội lực,
ngoại lực và tổng thể các nguồn lực cho sự phát triển của các quốc gia.
Adam Smith trong tác phẩm “Tìm hiểu bản chất và nguồn gốc của cải
của quốc gia” đã chỉ ra nguồn lực chủ yếu của xã hội thời kỳ ông sống chính
là vốn, sức lao động và đất đai, đây chính là cái gốc của sự tăng trưởng kinh
tế. David Ricardo nghiên cứu nguồn lực dựa vào lợi thế so sánh và coi lợi thế
so sánh chính là nguồn gốc thịnh vượng của ngoại thương, là nguyên nhân
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội [7, tr.7].
Trong khi nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc thành tựu của kinh tế chính trị
học cổ điển Anh, C.Mác, trong các tác phẩm của mình, đã nhiều lần bàn luận
về nguồn lực cho sự phát triển của CNTB như: giá trị hàng hóa sức lao động,
tư bản (vốn), khoa học kỹ thuật… Trong đó ông nhấn mạnh và khẳng định giá
trị của nguồn lực con người, con người là chủ thể sáng tạo nên lịch sử phát
triển của loài người. Mác cũng chỉ rõ mối liên quan giữa tư bản (vốn) với việc
sản sinh giá trị thặng dư của CNTB qua công thức T-H-T (tiền - hàng - tiền).
Ngoài ra yếu tố khoa học, kỹ thuật - một bộ phận của lực lượng sản xuất tiến
bộ cũng được ông xem xét như một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển

kinh tế - xã hội của các nước tư bản. Đây là những quan điểm khoa học, làm
cơ sở lý luận cho các nghiên cứu có liên quan sau này [7, tr.7].
6
Ngày nay, các nhà kinh tế học hiện đại phân tích các nguồn lực dựa trên
sự đóng góp của chúng vào sự phát triển của nền kinh tế bao gồm những yếu
tố vật chất đầu vào (như vốn, máy móc, thiết bị, vật tư, nguồn tài nguyên, sức
lao động…) và một số yếu tố khác (tổ chức, chính sách, quản trị, công nghệ,
bí quyết công nghệ)… Năm 2003, nhà kinh tế học người Mỹ, giáo sư Đại học
Havard, ông Dani Rodrik cho rằng nguồn lực để phát triển bao hàm các yếu tố
nội sinh, ngoại sinh và bán ngoại sinh của nền sản xuất. Trong đó, yếu tố nội
sinh gồm vốn, lao động, khoa học kỹ thuật; yếu tố ngoại sinh gồm vị trí địa
lý, khí hậu, địa hình, sinh thái, thái nguyên thiên nhiên; yếu tố bán ngoại sinh
gồm thể chế và tác động của quá trình hội nhập [7, tr.7].
Hiện nay sự bùng nổ thông tin với sự phát triển như vũ bão của công
nghệ thông tin đã khiến nhiều học giả cho rằng thông tin cũng là một nguồn
lực to lớn cho sự phát triển. Tác giả cuốn sách “Thế giới phẳng”, Thomas
Friedman còn ngụ ý rằng thế kỷ chúng ta đang sống là thế kỷ của thông tin,
chịu sự chi phối bao trùm của thông tin. Nhưng trên thực tế, cho đến nay,
chưa có một bằng chứng hay công trình nghiên cứu nào chứng tỏ một cách rõ
ràng thông tin là một nguồn lực chi phối sự phát triển [7, tr.7].
* Ở Việt Nam, nhiều tác giả, nhiều công trình, bài viết cũng đã đi sâu tìm
hiểu về vấn đề nguồn lực, động lực, phát huy nội lực, ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc và thời đại… để xây dựng và phát triển đất nước.
Trước hết, các nhà khoa học đã đi sâu làm rõ quan niệm về nguồn lực,
động lực, nội lực, ngoại lực và trò của chúng trong sự phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta hiện nay.
- Đề tài KX.04.08/06-10 “Nguồn lực và động lực cho sự phát triển
nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020” của Viện
Chiến lược phát triển, Bộ Khoa học và Công nghệ đã làm sáng tỏ nhiều vấn
đề lý luận và thực tiễn về nguồn lực, động lực phát triển nhanh và bền vững

nền kinh tế. Về mặt lý luận, công trình cung cấp những khái niệm căn bản về
nguồn lực phát triển nhanh và bền vững ở nước ta, cách phân chia nguồn lực,
các phương pháp huy động, sử dụng nguồn lực, kinh nghiệm của các nước
trong việc huy động, sử dụng nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội [7].
7
Trong công trình này, các tác giả đã nêu lên khái niệm nguồn lực cho sự
phát triển đất nước hiện nay:
Nguồn lực phát triển là tất cả các yếu tố đầu vào đang sử dụng hoặc
đang ở dạng dự trữ, dự phòng, sẵn sàng sử dụng phục vụ cho quá
trình sản xuất, kinh doanh của xã hội theo những cách thức khác
nhau nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cho xã hội đạt
được những mục tiêu đề ra [7, tr.38].
Từ quan niệm đó, công trình cũng phân chia nguồn lực thành các dạng
nguồn lực tiềm năng và các nguồn lực thực tế sử dụng, làm căn cứ để khảo
sát, đánh giá mức độ đóng góp của các nguồn lực vào sự phát triển.
Công trình cũng cung cấp những bằng chứng khoa học từ thực tiễn để
đánh giá đúng thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực cho sự phát triển
kinh tế Việt Nam trong 20 năm đổi mới. Từ đó, đề tài nêu những định hướng
huy động và sử dụng nguồn lực, hình thành và phát huy động lực phát triển
kinh tế Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020. Mặc dù vậy, trong công trình này, các
tác giả mới chỉ ở chủ yếu đề cập tới khái niệm nguồn lực và đánh giá các
nguồn lực cho sự phát triển đất nước ở góc độ kinh tế mà chưa có sự khái quát
các nguồn lực cho sự phát triển bền vững đất nước nói chung.
- Cuốn sách “Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do GS.TSKH Lê Du Phong
chủ biên [82] đã đề cập đến những vấn đề lý luận về nguồn lực, động lực phát
triển bao gồm các khái niệm, vai trò và yêu cầu phân bổ nguồn lực, phát huy
động lực trong phát triển; đồng thời chỉ rõ thực trạng sử dụng các nguồn lực
của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; từ đó chỉ ra các quan điểm
phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lực, sử dụng hợp lý

nguồn lực và phát huy đầy đủ động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, cách thức phân chia
nguồn lực, động lực, mối tương quan giữa các nguồn lực, đặc biệt là mối
tương quan giữa huy động, sử dụng các nguồn lực với việc phát triển nhanh,
bền vững được đề cập trong cuốn sách là những nội dung cần tiếp tục được đi
sâu nghiên cứu và làm rõ.
8
- Tác giả Hồ Bá Thâm trong cuốn sách “Động lực và tạo động lực
phát triển xã hội” [98] đã nêu những quan niệm cơ bản về động lực và tạo
động lực phát triển xã hội hiện nay; vấn đề dân chủ hóa tạo môi trường và
động lực phát triển con người và xã hội; vấn đề động lực và tạo động lực
phát triển các thành phần kinh tế, phát triển văn hóa và đổi mới, hiện đại
hóa hệ thống chính trị tạo động lực cho sự phát triển. Đây đều là những vấn
đế lý luận hết sức cấp bách để phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập
quốc tế hiện nay.
- GS.TS Trần Văn Thọ trong bài viết “Nội lực và ngoại lực trong quá
trình phát triển kinh tế ở Việt Nam” [99] đã nêu ra những quan niệm khá đầy
đủ về nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế của Việt Nam dưới góc độ
kinh tế học. Ông đã phân tích những một cách xác đáng cấu trúc của nội lực
và ngoại lực cho sự phát triển đất nước, đồng thời khảo sát việc phát huy nội
lực và ngoại lực ở ngành công nghiệp may mặc, một ngành sản xuất và xuất
khẩu quan trọng của Việt Nam để từ đó khái quát thực trạng và những thách
thức đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực ở Việt Nam và đề xuất những
giải pháp thiết thực, cụ thể. Tuy nhiên, ông mới chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu nội lực, ngoại lực ở góc độ kinh tế mà chưa có sự đánh giá đầy đủ, khái
quát về nội lực, ngoại lực cho sự phát triển đất nước trên các phương diện
quan trọng khác như: chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh…
- GS.TS Hoàng Ngọc Hòa trong bài viết “Quá trình nhận thức của
Đảng ta về phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, phát triển nền kinh tế tự
chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, đã hệ thống hóa các quan điểm

của Đảng về phát huy nội lực, ngoại lực xuyên suốt các thời kỳ; đồng thời
chỉ ra các yêu cầu và thách thức của thời đại mới đối với việc phát huy nội
lực, ngoại lực nói riêng và sự phát triển đất nước nói chung. Từ đó, ông
đưa ra các giải pháp cơ bản nhất để phát huy nội lực, ngoại lực, hội nhập
chủ động, tích cực với nền kinh tế thế giới để phát triển nhanh và bền vững,
trong đó ông nhấn mạnh các giải pháp về xây dựng nền kinh tế tự chủ để
bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo đảm uy tín, vị
thế quốc gia trên trường quốc tế [40].
9
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu, quản lý đồng thời làm rõ tính tất yếu phải
phát huy nội lực, ngoại lực, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để
xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
- Xuyên suốt các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, vấn đề kết hợp
sức mạnh dân tộc và thời đại, phát huy nội lực, ngoại lực và tổng thể các
nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội của đất nước luôn được Đảng ta đặt ra
như một trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược xây dựng và phát
triển đất nước qua mỗi thời kỳ. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng đã nêu 10 bài học cho sự phát triển đất nước, trong đó bài học
thứ nhất chính là bài học về huy động nguồn lực: “huy động và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển đất nước” [31, tr.95].
- Cuốn sách “Việt Nam 20 năm đổi mới” [33, tr.131] có bài viết “Những
thành tựu về kinh tế xã hội trong 20 năm đổi mới (1986- 2005)” của tác giả
Võ Hồng Phúc đã khái quát những thành tựu lớn của đất nước về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội từ khi tiến hành công cuộc đổi mới. Trong các kết
luận chính của bài viết này, tác giả dành một thời lượng xứng đáng để nêu rõ
tính tất yếu của việc phát huy nội lực quốc gia và thu hút ngoại lực để xây
dựng và phát triển đất nước. Tác giả nhấn mạnh: “việc huy động nguồn lực từ
các yếu tố bên trong của nền kinh tế là vô cùng quyết định để phát triển đất
nước. Có phát huy được nội lực thì mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại
lực”; “nguồn lực bên ngoài là quan trọng. Kết hợp tốt nội lực và ngoại lực sẽ tạo

thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng đất nước”.
- Bài trả lời phỏng vấn “Dân tộc và thời đại - thời cơ và thách thức” của
Nguyên Thứ trưởng Bộ ngoại giao Trần Quang Cơ [16] đã làm sáng tỏ nội
dung quan trọng cho quá trình phát triển đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa
về kinh tế đó là phải kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời
đại. Theo ông, sự thành công của các nước công nghiệp mới (NIC) là do các
nước này đã biết kịp thời điều chỉnh hoặc cải cách lại cơ cấu chính sách kinh
tế của mình trên cơ sở dự đoán đúng chiều hướng phát triển của nền kinh tế
thế giới, nhạy bén nắm bắt ngay những cơ hội mới nảy sinh do những chuyển
10
biến trong tình hình quốc tế… Mọi tính toán đối nội, đối ngoại, mọi chính
sách kinh tế, tài chính, tiền tệ và xã hội của họ đều nhất nhất phục tùng mục
tiêu giành lấy vị trí có lợi nhất cho các nước đó trong cạnh tranh kinh tế quốc
tế nhằm tận dụng được sức mạnh thời đại vào sự nghiệp phát triển kinh tế của
nước mình. Đây cũng là những bài học kinh nghiệm quý báu cho nước ta
trong quá trình phát triển.
- Nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyên Di Niên trong bài tham luận
tại Đại hội lần thứ X của Đảng với tiêu đề “Phát huy cao độ nội lực, ra sức
khai thác ngoại lực, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
tạo sức mạnh tổng thể để phát huy đất nước” đã chỉ ra rằng phát huy nội lực,
khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là yêu
cầu tất yếu để phát triển kinh tế xã hội đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế. Ông cũng những thuận lợi, khó khăn trong việc phát huy nội lực và
ngoại lực để xây dựng đất nước, từ đó đề xuất các kiến nghị phát huy cao độ
nội lực, nâng cao hiệu quả khai thác ngoại lực, không ngừng hội nhập kinh tế
quốc tế để đi tắt, đón đầu thành tựu văn minh nhân loại phục vụ phát triển.
Ông cũng lưu ý rằng điều tiên quyết và phải luôn chú trọng là phát huy nội
lực trước tiên, còn ngoại lực có vai trò bổ sung, làm giàu cho nội lực, tạo ra
sức mạnh tổng hợp để phát triển [79].
Các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp một số lý luận cơ bản và các

cơ sở khoa học được đúc rút từ thực tiễn về tính tất yếu của việc phát huy nội
lực và ngoại lực, vai trò của phát huy nội lực, ngoại lực đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội đất nước qua các thời kỳ. Tuy nhiên, các công trình này cũng
đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục phải làm sáng tỏ như: cách phân chia nguồn
lực, vai trò của các nguồn lực đối với sự phát triển như thế nào? Làm thế nào
để huy động được tối đa các loại nguồn lực cho sự phát triển? Mối quan hệ
biện chứng giữa nội lực và ngoại lực được biểu hiện như thế nào? Làm thế
nào để khai thác, sử dụng và phân bổ nguồn lực hiệu quả, hợp lý, đảm bảo
phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững? Đó là gợi mở cho tác giả luận
án này đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu.
11
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC
PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
* Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, các học giả, các nhà nghiên cứu đã tập
trung tìm hiểu bản chất, chức năng, vai trò của nhà nước đối với sự phát triển.
Thế kỷ XVIII, Adam Smith (1723 - 1790) đưa ra lý thuyết “bàn tay vô
hình”, phản đối sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế và cho rằng mọi hoạt động
kinh tế cần diễn ra theo quy luật khách quan chứ không chịu sự chi phối của nhà
nước. Mặc dù vậy, ông cũng phải thừa nhận rằng đôi khi, nhà nước cũng phải
đảm nhiệm những nhiệm vụ kinh tế nhất định như: xây dựng kết cấu hạ tầng cho
nền kinh tế, giải quyết các công việc mà các nhà sản xuất kinh doanh không thể
đảm đương được [Trích theo 19, tr.62-63]. Chính sự phủ nhận vai trò kinh tế của
nhà nước và để nền kinh tế phát triển tự phát đã khiến kinh tế TBCN cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX lâm vào khủng hoảng, suy thoái.
Không đồng tình với các quan điểm của A. Smith, J.M Keynes (1884-
1946) đã đưa ra các quan điểm đề cao vai trò của nhà nước. Ông cho rằng nhà
nước phải can thiệp vào thị trường, phải trực tiếp đứng trong guồng máy kinh
tế, phải điều tiết cả kinh tế vĩ mô và vi mô. Các nước TBCN đã vận dụng lý

thuyết này vào thực tiễn, tuy nhiên, khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp vẫn
diễn ra. Các học giả phương Tây cho rằng nguyên nhân là do sự can thiệp quá
mức của nhà nước tới nền kinh tế đã làm cho kinh tế không thể vận hành
đúng quy luật khách quan vốn có của nó [47].
Phê phán quan điểm tuyệt đối hóa vai trò Nhà nước của Keynes, “chủ
nghĩa tự do mới” nêu quan điểm cơ bản là thực hiện cơ chế thị trường có sự
điều tiết của nhà nước ở mức độ nhất định. Những người theo “chủ nghĩa tự
do mới” cho rằng nhà nước có vai trò tác động nhất định đến nền kinh tế bằng
cách điều tiết nền kinh tế bằng chính sách tiền tệ; hoặc điều tiết mặt “cung”
của nền kinh tế bằng cách xây dựng các chính sách kích thích kinh tế phát
triển (chính sách tiết kiệm, chính sách thuế…); hoặc nhà nước có thể điều tiết
nền kinh tế thông qua kế hoạch hóa định hướng sự phát triển [Trích theo 47].
12
Bên cạnh đó, còn có một số quan niệm khác về vai trò của nhà nước như
quan điểm: nhà nước xây dựng mô hình “kinh tế thị trường xã hội”, tạo ra
“ngôi nhà chung” cho tất cả mọi người thông qua phúc lợi xã hội của các học
giả Bắc Âu; hay nhà nước xây dựng thể chế, thiết lập và tạo ra những điều
kiện thuận lợi và tạo động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên các quan điểm trên
đều ít nhiều còn phiến diện, cực đoan, hoặc quá đề cao vai trò của nhà nước,
hoặc hạ thấp vai trò vốn có và cần thiết của nhà nước.
Phải đến khi cuốn sách “Kinh tế học” của Paul A. Samuelson ra đời,
những quan điểm đầy đủ hơn về vai trò của nhà nước mới được nêu lên một
cách đầy đủ, khách quan, khoa học hơn. Trong tác phẩm này, ông đã nêu quan
điểm về sự kết hợp “bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường với “bàn tay hữu
hình” của nhà nước. Ông chỉ rõ: "Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế để
ngăn chặn khủng hoảng, thất nghiệp, tạo việc làm đầy đủ nhưng đồng thời
phải giữ trong khuôn khổ khôn ngoan của cạnh tranh” [89, tr.63].
Qua nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các tài liệu nghiên cứu trong lịch sử
tư tưởng nhân loại, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác Lênin, đã nhiều lần
nêu ra quan điểm lý luận về nhà nước. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”,

Mác - Ănghen chỉ rõ: “nhà nước là hình thức mà các cá nhân thuộc một giai
cấp thống trị dùng để thực hiện lợi ích chung của họ và là hình thức toàn bộ
xã hội công dân của một thời đại được biểu hiện một cách tập trung” [60,
tr90]. Tác phẩm “Nguồn gốc gia đình, nhà nước và chế độ tư hữu” cũng đã
nêu ra những quan điểm khoa học, đầy đủ về nhà nước cả về nguồn gốc, bản
chất, chức năng, vai trò của nhà nước [63, tr.252-253]. Trong tác phẩm “Nhà
nước và cách mạng”, V.I Lênin đã trình bày một cách có hệ thống và đầy đủ
học thuyết của C.Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề nhà nước, phân tích mối liên
hệ giữa nhà nước với tính chất giai cấp của xã hội, tính tất yếu của cách mạng
xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, đặt cơ sở cho lý luận về nhà nước
xã hội chủ nghĩa [57, tr.33]. Lênin đã làm rõ chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước chuyên chính vô sản và nhấn mạnh chức năng cơ bản nhất của nhà nước
chuyên chính vô sản là tổ chức, xây dựng xã hội mới, xã hội XHCN. Các
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành nên cơ sở lý luận khoa
13
học cho các nghiên cứu về vai trò, bản chất, chức năng của nhà nước và hiện
tại vẫn còn nguyên giá trị.
Ngày nay, dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các quốc
gia trên thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau trong mỗi quan hệ đan xen
phức tạp vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Các nguồn lực như vốn, khoa học công
nghệ… di chuyển tự do trên phạm vi toàn cầu với tốc độ rất cao đã vượt khỏi sự
kiểm soát của nhà nước, quốc gia. Các nhà khoa học, các nhà quản lý tiếp tục
nêu ra nhiều quan niệm khác nhau về vai trò của nhà nước đối với sự phát triển.
Ở nhiều nước trên thế giới, các học giả, các nhà quản lý tiếp tục phát
triển quan niệm “nhà nước tối thiểu” của chủ nghĩa tự do mới với quan niệm
nhà nước chỉ thực hiện một số chức năng cơ bản nhất, sự điều tiết của thị
trường mới là cách tốt nhất để tăng trưởng kinh tế. Sự đổ vỡ của nền kinh tế
Achentina năm 2001 - nền kinh tế được coi là hình mẫu cho sự quảng bá về
chủ nghĩa tự do mới và cuộc khủng hoảng tài chính xuất phát từ Mỹ năm
2007 sau đó lan ra các nước dẫn đến suy thoái toàn cầu là minh chứng cho

những bất ổn, đổ vỡ về mô hình “nhà nước tối thiểu”, tuyệt đối hóa sức mạnh
thị trường theo tư tưởng của chủ nghĩa tự do mới.
Nhiều học giả cho rằng, nhà nước dần mất đi quyền lực vì ngày càng bị
các nhân tố mới của toàn cầu hóa (các tổ chức toàn cầu, các hãng toàn cầu,
các tổ chức khu vực, các tổ chức phi chính phủ…) cạnh tranh, chi phối. Trong
hội nhập quốc tế, nhà nước không còn độc quyền quyết định mọi thứ, nhất là
những thứ nằm trong các chủ thể khác như: thông tin, công nghệ, vốn, thị
trường… Phạm vi tác động của nhà nước chịu sự chi phối lớn của xu thế tự
do hóa thương mại, kinh tế của quá trình hội nhập.
Một xu hướng khác cho rằng, trong hội nhập quốc tế, nhà nước không
mất đi quyền lực mà điều chỉnh các chức năng để thích ứng với bối cảnh mới.
Không ít ý kiến cho rằng, nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò quản lý xã hội, là
công cụ hữu hiệu để quản lý các vấn đề về kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo
đời sống cho nhân dân…
Liên quan đến vai trò của nhà nước trong hội nhập quốc tế, có một số
công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
14
Trong bài viết “Toàn cầu hóa kinh tế và chức năng của nhà nước”, Tạp
chí những vấn đề chính trị xã hội, Giáo sư Lei Da, trường Đại học Nhân dân
Trung Quốc [59] đã chỉ ra những thách thức đối với vai trò của Nhà nước
trong điều kiện toàn cầu hóa, dẫn tới một số quan niệm cho rằng “chức năng
của nhà nước dường như không còn quan trọng nữa”, “khắp nơi người ta nói
đến sự tiêu mòn của nhà nước”. Tuy nhiên, sau khi phân tích vai trò của nhà
nước đối với sự phát triển của nhiều nước trên thế giới, Lei Da rút ra kết luận:
đứng trước làn sóng lớn toàn cầu hóa kinh tế, không thể nhược hóa chức năng
của nhà nước mà trái lại, nhiệm vụ cấp bách của các nước đang phát triển là
điều chỉnh, tăng cường năng lực kinh tế của nhà nước, bổ sung các phương
pháp, phương tiện, chức năng mới của nhà nước.
Osadchaja I trong bài viết “Quá trình toàn cầu hóa và nhà nước: Cái
mới trong việc điều chỉnh kinh tế ở các nước phát triển” [80] tiếp tục làm

rõ những khó khăn, thách thức đặt ra đối với nhà nước trong việc quản lý
nền kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế và sự thành công của các
nước phát triển trong việc điều chỉnh chức năng của nhà nước. Từ đó ông
chỉ ra và khẳng định sự cần thiết phải phát huy và điều chỉnh vai trò quản
lý, điều tiết của nhà nước thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như tài
chính, tiền tệ… thích ứng với những biến động của xu thế toàn cầu hóa
ngày càng sâu rộng.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đồng thời thực hiện hai quá trình là
xây dựng, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Các nhà nghiên cứu trong nước đều đánh
giá và khẳng định vai trò to lớn của nhà nước trên mọi mặt, mọi phương diện
của đời sống xã hội.
- GS.TS Lương Xuân Quỳ trong cuốn sách “Cơ chế thị trường và vai trò
của nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam” [85] đã làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận quan trọng về vai trò của nhà nước đối với sự phát triển nền kinh
tế đất nước khi bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong cuốn sách, tác giả tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề
lớn: nhà nước can thiệp, điều tiết, điều khiển hay quản lý nền kinh tế; nhà
15
nước ta cần phải làm gì để hoàn thành chức năng quản lý kinh tế thị
trường; những công cụ nào có thể và cần phải được sử dụng để nhà nước
hoàn thành được chức năng quản lý điều khiển nền kinh tế. Cuốn sách đã
làm nổi bật vai trò của nhà nước ta đối với sự phát triển kinh tế đất nước
hiện nay, đó là vai trò quản lý, điều tiết kinh tế chứ không can thiệp, điều
khiển thị trường [85, tr.118-119].
- Cuốn sách “Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 -
2005” [87] có bài viết “Nhận thức mới về vai trò, chức năng của Nhà nước ta
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và mở cửa” của PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh. Trong bài viết này, tác giả đã
làm rõ 5 vai trò, chức năng chủ yếu của nhà nước ta hiện nay, bao gồm: một

là, tạo môi trường pháp lý và khuôn khổ, giới hạn cho các hoạt động kinh tế;
hai là, thực hiện chức năng quản lý kinh tế vĩ mô; ba là, bảo đảm quốc phòng,
an ninh, cung cấp các dịch vụ hàng hóa công cộng; bốn là, xây dựng và thực
hiện các chính sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội; năm là, đối ngoại phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bài viết đã làm rõ vai trò ngày
càng quan trọng của nhà nước, bao phủ toàn diện các mặt, các lĩnh vực trong
sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, tuy nhiên tác giả cũng chú ý nhấn
mạnh vai trò của nhà nước ở chỗ quản lý, điều hành chứ không can thiệp trực
tiếp vào sự vận động khách quan của các lĩnh vực đó [87, tr.79-80].
- Tác giả Nguyễn Thị Phi Yến trong cuốn sách “Tìm hiểu vai trò quản lý
Nhà nước đối với việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế”
[118] đã phân tích vai trò của quản lý Nhà nước qua những thời kỳ lịch sử
khác nhau, mối quan hệ giữa nhân tố con người và quản lý nhà nước trong
quá trình phát triển kinh tế; làm rõ thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với
vai trò quản lý của Nhà nước trong việc việc phát huy nhân tố con người để
phát triển kinh tế đất nước trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu,
bao cấp và cơ chế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Trên cơ sở đó, tác
giả trình bày một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy nhân tố con người trong
quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Cuốn sách tiếp tục làm rõ vai trò của
nhà nước đối với nhân tố quyết định sự phát triển, đó là nhân tố con người.
16
- Tác giả Chu Văn Cấp trong bài viết “Vai trò của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” [15] đã chỉ rõ vai
trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta gồm: một là, nhà nước tạo môi trường hoạt động hiệu quả cho các cá
nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; hai là, nhà nước tạo ra mội
trường ổn định về kinh tế - xã hội; ba là, nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy
hoạch, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và bản hành chính sách,
pháp luật, tạo hành lang thực hiện các kế hoạch, quy hoạch đó.
- Trong bài viết “Nhà nước Việt Nam với việc đảm bảo an sinh xã hội,

giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa” [76] PGS.TS Nguyễn Thị Nga đã
khẳng định vai trò to lớn của nhà nước đối với việc đảm bảo an sinh xã hội,
nhà nước coi việc đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững định hướng XHCN là
nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước. Tác
giả cũng chỉ rõ những vấn đề đặt ra cho nhà nước hiện nay là: Giữ vững định
hướng XHCN, đối tượng đảm bảo an sinh xã hội nhà nước hướng tới là mọi
tầng lớp người dân Việt Nam; nhà nước chủ động xây dựng cơ chế, tổ chức
thực hiện, kiểm soát quản lý các nguồn vốn đảm bảo an sinh xã hội; nhà nước
cần chủ động, tích cực, linh hoạt trong việc xây dựng cơ chế huy động các
nguồn lực đảm bảo an sinh xã hội.
- Ở góc độ Triết học, tác giả Lê Thị Thanh Hà với Luận án Tiến sĩ Triết học
“Vai trò của nhà nước đối với việc bảo vệ môi trường trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện nay” [35] đã
làm rõ vai trò của nhà nước đối với lĩnh vực có tính thời sự đó là bảo vệ môi
trường. Tác giả đã làm rõ sự cần thiết phải phát huy vai trò của nhà nước đối với
việc bảo vệ môi trường những biểu hiện cơ bản về vai trò của nhà nước trong
vấn đề này như: nhà nước xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, kế hoạch,
quy hoạch bảo vệ môi trường gắn với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn; nhà nước xây dựng công cụ để pháp lý để bảo vệ môi trường; nhà nước tổ
chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bảo vệ môi trường; nhà
nước huy động cộng đồng dân cư tự giác tham gia vào việc bảo vệ môi trường
và tổ chức giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong xã hội.
17
Như vậy, ở các góc độ nghiên cứu khác nhau, các nhà khoa học trong nước
đều đã chỉ rõ: trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhà nước ta chẳng những không
bị suy giảm vai trò, chức năng mà ngày càng thể hiện vai trò to lớn đối với mọi
mặt, mọi phương diện của đời sống xã hội. Vấn đề là cần phải có nhận thức
đúng đắn về vai trò của nhà nước trong điều kiện mới và bản thân nhà nước phải
có sự điều chỉnh, phát huy vai trò, chức năng của mình trong điều kiện đó.
Bên cạnh đó, các tác giả cũng đi sâu nghiên cứu các giải pháp nâng cao

vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực, ngoại lực đất nước trong
bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay được thể hiện trong từng lĩnh vực của đời
sống xã hội.
- Bài viết “Phát huy nội lực, xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự
chủ mở rộng hợp tác quốc tế” [84] của PGS.TS Vũ Văn Phúc đã nêu những
vấn đề lý luận khái quát về phát huy nội lực và ngoại lực, phân tích mối quan
hệ tương quan giữa nội lực và ngoại lực, trong đó, nội lực đóng vai trò quyết
định hiệu quả và thành công của hợp tác quốc tế, còn ngoại lực có vai trò hỗ trợ,
bổ sung cho nội lực để xây dựng và phát triển đất nước. Để nâng cao hiệu quả
việc phát huy nội lực và ngoại lực, tác giả đề xuất một số giải pháp như: cần xây
dựng chiến lược tổng thể về hội nhập, hoàn thiện chính sách, pháp luật, chiến
lược đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của nhà nước, tạo điều kiện để các doanh nghiệp đứng vững trong cạnh
tranh; đẩy mạnh cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước; nâng cao hiệu quả
tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của nhân dân về yêu cầu, nội dung, lộ
trình hội nhập
- Cuốn sách “Tác động của nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay” do PGS. TS
Nguyễn Cúc chủ biên [18] đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn
của những tác động kinh tế của nhà nước trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở phân tích thực trạng và
những hạn chế, yếu kém về vai trò của nhà nước trong việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các tác giả đã đề xuất
những giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước để thực hiện tốt việc chuyển
18
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại. Trong đó, các tác giả
nhấn mạnh tới những giải pháp về huy động và sử dụng các nguồn lực, đặc
biệt là nội lực để phát triển, cụ thể là: nhà nước xây dựng và hoàn thiện chính
sách huy động và sử dụng vốn, chính sách phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách
phát triển nguồn nhân lực; chính sách phát triển khoa học - công nghệ; chính

sách điều chỉnh các thành phần kinh tế.
- Tác giả Lê Thị Hồng với luận án Tiến sĩ Triết học: “Vai trò định hướng
xã hội chủ nghĩa của nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam
hiện nay” [47] đã đi sâu làm rõ vai trò quản lý, định hướng, điều tiết nền kinh
tế thị trường đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta từ khi tiến hành
đổi mới đến những năm đầu thế kỷ XXI. Trên cơ sở làm rõ thực trạng và
những vấn đề đặt ra đối với vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường, tác giả đã đề xuất các giải pháp phát huy vai trò
này của nhà nước. Cụ thể các giải pháp đó là: Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực
các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước; nâng cao vai trò của kinh tế
nhà nước như là tiền đề vật chất để nhà nước giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa phát triển nền kinh tế Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng
cao năng lực, phẩm chất của các cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế nhằm đáp
ứng yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là những giải pháp rất căn bản
có ý nghĩa lớn, góp phần đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự
tồn vong của chế độ, đặc biệt là khi nền kinh tế thị trường nước ta chưa phát
triển hoàn thiện trong khi lại chịu tác động từ nhiều phía của quá trình hội
nhập quốc tế.
- Luận án Tiến sĩ Triết học “Vai trò nhà nước đối với việc xây dựng nền
kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay” của Trần Thị Thu Hường [53] không những nêu lên những lý luận căn
bản về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, phân tích những tác động
tích cực và tiêu cực của quá trình đó đến sự phát triển của các quốc gia trên
thế giới trong đó có Việt Nam mà còn làm rõ một số lý luận căn bản về vai trò
của nhà nước đối với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Luận án chỉ ra thực trạng những tác động
19
của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đến sự phát triển kinh tế và nguy cơ đe
dọa việc phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam.
Từ đó, luận án chỉ ra những giải pháp để phát huy vai trò của nhà nước

ta trong việc vừa đảm bảo nền kinh tế độc lập, tự chủ vừa tích cực, chủ động
hội nhập sâu rộng, hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Đó là các giải pháp: Một
là, coi trọng việc xây dựng, hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô của nhà
nước nhằm khai thác các nguồn lực trong nước và quốc tế; hai là, đổi mới tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; ba là, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
quản lý nhà nước về kinh tế; bốn là, nâng cao vai trò kinh tế của nhà nước.
Đây là những giải pháp khá căn bản, tuy nhiên các giải pháp đó mới chỉ dừng
lại ở việc phát huy vai trò của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế chứ chưa đề
cập tới các lĩnh vực khác trong sự phát triển đất nước ta thời kỳ hội nhập.
- Luận án Tiến sĩ Triết học của Vi Thị Hương Lan “Vai trò của nhà nước
trong việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế”
[56] đã làm sáng tỏ vai trò và những thành tựu của nhà nước ta đối với việc
thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện hội nhập hiện nay. Tác giả cũng
phân tích một số hạn chế của nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã
hội: từ sự điều tiết chưa hiệu quả của nhà nước đối với các lĩnh vực của đời
sống xã hội nhằm đảm bảo thực hiện công bằng xã hội chưa hiệu quả; tình
trạng bất công xã hội tham ô, tham nhũng ngày càng phức tạp, hệ thống chính
sách, pháp luật còn bất cập… đã cản trở những nỗ lực của nhà nước trong
việc thực hiện công bằng xã hội.
Để nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã
hội ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, tác giả đề xuất các giải pháp
chủ yếu: Một là, nâng cao vai trò quản lý điều tiết của nhà nước đối với nền
kinh tế; Hai là, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc thực hiện công bằng xã
hội; Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội để thực
hiện công bằng xã hội; Bốn là, tăng cường hiệu quả của công tác phòng,
chống quan liêu tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
Đóng góp của luận án về mặt triết học ở chỗ, luận án đã tiếp tục làm sáng
tỏ quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và các chức năng của
20
nhà nước, đồng thời đã cơ bản khái quát về mặt lý luận vai trò của nhà nước

đối việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta - là môi trường quan trọng để
phát huy tối đa các nguồn lực cho sự phát triển đất nước trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Từ các công trình, đề tài trong nước và trên thế giới có thể thấy số lượng
các đề tài nghiên cứu về “vai trò của nhà nước” rất phong phú, đồ sộ. Mỗi
công trình một góc độ nghiên cứu đã cho thấy vai trò của nhà nước tác động
toàn diện lên các vấn đề kinh tế - xã hội và phát triển của mỗi quốc gia: từ
kinh tế, chính trị, công bằng, tiến bộ xã hội, an sinh xã hội đến bảo vệ môi
trường sinh thái… Các công trình đó là tài liệu quý giá, là cơ sở khoa học để
nghiên cứu sinh này tiếp thu và tiếp tục nghiên cứu, phát triển trong phạm vi
nghiên cứu của luận án này.
Tuy nhiên, các công trình nêu trên, ở những góc độ nghiên cứu khác
nhau mới dừng lại ở việc nghiên cứu, đánh giá vai trò của nhà nước đối với
từng mặt, từng lĩnh vực của đời sống, qua đó làm rõ vai trò của nhà nước đối
với các nguồn lực cho sự phát triển đất nước một cách riêng lẻ ở những lát cắt
khác nhau như: vai trò của nhà nước trong việc phát huy nguồn nhân lực,
nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực khoa học công nghệ, các sức
mạnh kinh tế… Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống vai
trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực, ngoại lực trong hội nhập quốc
tế ở nước ta dưới góc độ Triết học. Điều đó, tạo ra khoảng trống về lý luận để
tác giả luận án đi sâu nghiên cứu, phân tích.
1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU VÀ MỘT
SỐ ĐỊNH HƯỚNG MÀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC PHẢI THỰC HIỆN
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu nêu trên, có thể thấy, các công trình,
đề tài, các tác giả trong và ngoài nước đã có những đóng góp khoa học, có giá
trị về cả lý luận và thực tiễn khi nghiên cứu vấn đề phát huy nội lực, ngoại
lực, tổng thể các nguồn lực cho sự phát triển và vấn đề nâng cao vai trò của
nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực để xây dựng và phát triển
đất nước trong hội nhập quốc tế hiện nay. Những đóng góp đó thể hiện trên
một số phương diện cơ bản sau:

21

×