Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

nghiên cứu chiết tách và xác định thành phần hóa học của dịch chiết cây rau má huyện hòa vang thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 47 trang )

-1-

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA HÓA
  



NGHIÊN CỨU CHIẾT TÁCH VÀ XÁC ĐỊNH THÀNH
PHẦN HÓA HỌC TRONG DỊCH CHIẾT CÂY RAU MÁ
HUYỆN HÒA VANG – THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN KHOA HỌC



GVHD: ThS Võ Kim Thành
SVTH : Hồ Thị Thu Trang
Lớp : 08CHD
-2-

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa, trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên, bệnh tật, để bảo vệ cuộc
sống, con người đã biết sử dụng nguồn thực vật và cả động vật làm các bài thuốc chữa
bệnh có giá trị.
Ngày nay, việc dùng các loại thuốc có nguồn gốc thiên nhiên ngày càng được ưa


chuộng và các công trình nghiên cứu về chúng cũng không ngừng phát triển. Qua các
công trình nghiên cứu cho thấy khi sử dụng các loại thuốc có nguồn gốc thực vật có ít tác
dụng phụ gây hại và đây chính là lí do quan trọng mà ngày nay các loại thuốc có nguồn
gốc thiên nhiên ngày càng chiếm được lòng tin của người tiêu dùng.
Trong khi đó, rau má (Centella Asiatica) là nguồn nguyên liệu dễ trồng, dễ kiếm,
rẻ tiền mà lại có hiệu quả kinh tế cao. Rau má là loại thân thảo mọc phổ biến ở các quốc
gia vùng nhiệt đới như : Ấn Độ, Madagascar, Indonesia, Việt Nam… Người dân ở các
vùng này đã sử dụng rau má làm thực phẩm như một loại rau ăn hằng ngày.Bên cạnh đó,
do có nhiều đặc tính quý nên nó được sử dụng làm thuốc trong y học cổ truyền ở nhiều
nước. Về mặt dược học, nhờ chứa các saponin triterpenoid như Asiaticoside,
Madecassoide, rau má là một loại rau thông dụng có tác dụng sát trùng, giải độc, thanh
nhiệt lương huyết. Asiaticoside đã được công nhận là chất có tác dụng tái tạo mô liên
kết,giúp lên da non vết thương nhanh chóng có thể ứng dụng rất rộng rãi trong dược
phẩm và cả hóa mỹ phẩm. Asiaticoside còn được sử dụng trong chữa trị bệnh phong,
bệnh lao, làm chậm quá trình lão hóa. Ngoài ra, rau má cũng là loại thảo dược có tính bổ
dưỡng rất cao, có nhiều sinh tố, khoáng chất, những chất chống oxy hóa, có thể dùng để
dưỡng âm, cải thiện trí nhớ, làm chậm sự lão hóa, cải thiện vi tuần hoàn và chữa nhiều
chứng bệnh về da…
Ở nước ta, vùng trồng rau má phân bố rất rộng từ Bắc vào Nam với diện tích đáng
kể, đặc biệt ở các tỉnh duyên hải miền Trung, nơi khí hậu có độ ẩm khá cao và thường có
loại đất sét pha cát nên thích hợp cho loại cây này phát triển. Tuy vậy tiềm năng của loại
-3-

thảo dược quý này vẫn chưa được khai thác và tận dụng đúng mức, hầu như nó chỉ được
sử dụng như một loại rau quen thuộc và gần gũi trong đời sống hằng ngày.
Trên thế giới, y học hiện đại đã có những nghiên cứu lâm sàng về tác dụng chữa
bệnh của dịch chiết và các hợp chất trong rau má. Tuy nhiên ở nước ta việc nghiên cứu
chỉ mới bước đầu, chưa đi sâu vào việc xác định thành phần và hoạt tính sinh học của loài
cây này. Để góp phần vào nguồn tài liệu về cây rau má phục vụ nghiên cứu khoa học, tôi
chọn đề tài tài u chit tách và xánh thành phn hóa hc ca dch chit cây

rau má huyn Hòa Vang  Thành ph ng.
2. Mục đích nghiên cứu
 Xác định một số chỉ tiêu hóa lý của rau má.
 Khảo sát một số điều kiện chiết tách thích hợp.
 Xác định thành phần hóa học, công thức cấu tạo của một số cấu tử chính trong
dịch chiết rau má.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tƣợng nghiên cứu
Cây rau má thu hái vào buổi sáng sớm tháng 3 tại huyện Hòa Vang – Thành phố
Đà Nẵng.
b. Phạm vi nghiên cứu
Cây rau má được trồng và thu hái tại Đà Nẵng
Nguyên liệu rau má tươi và khô
-4-

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
a. Nghiên cứu lý thuyết
 Thu thập, tổng hợp các tài liệu, tư liệu, sách báo trong và ngoài nước có liên quan
đến đề tài.
 Trao đổi kinh nghiệm với các chuyên gia, thầy cô giáo và đồng nghiệp.
b. Phƣơng pháp thực nghiệm
 Phương pháp hóa học xác định một số chỉ số hóa lý của nguyên liệu.
 Phương pháp vật lý: quang phổ hấp thụ phân tử để khảo sát điều kiện chiết, sắc ký
khí ghép khối phổ GC – MS xác định một số cấu tử chính trong dịch chiết.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a. Ý nghĩa khoa học
 Cung cấp những thông tin khoa học về điều kiện chiết tách, xác định thành phần
hóa học của dịch chiết rau má ở Đà Nẵng.
 Cung cấp những thông tin, tư liệu làm cơ sở cho việc nghiên cứu sau này.
b. Ý nghĩa thực tiễn

 Nhằm giúp cho việc ứng dụng rau má ở phạm vi rộng một cách khoa học hơn
trong vấn đề chăm sóc sức khỏe.
 Giải thích một cách khoa học một số kinh nghiệm dân gian về ứng dụng của rau
má.
 Tổng hợp kiến thức về hợp chất thiên nhiên phục vụ cho công tác sau này.
6. Cấu trúc đề tài
Đề tài gồm trang, ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo còn có các
chương sau:
Chương 1: Tổng quan, gồm trang
Chương 2: Các phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, gồm trang
Chương 3: Kết quả và thảo luận, gồm trang


-5-

CHƢƠNG I: TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về Họ Hoa tán
Họ Hoa tán hay họ Cà rốt theo tiếng Latinh là Umbelliferae hay Apiaceae (cả hai
tên gọi này đều được ICBN cho phép, nhưng tên gọi họ Cà rốt là mới hơn) là một họ của
các loài thực vật thường có mùi thơm với các thân cây rỗng, bao gồm các cây như mùi
tây, cà rốt, thì là và các loài cây tương tự khác. Nó là một họ lớn với khoảng 430-
440 chi và trên 3.700 loài đã biết. Tên gọi ban đầu Umbelliferae có nguồn gốc từ sự nở
hoa trong dạng "tán" kép. Các hoa nhỏ là đồng tâm với 5 đài hoa nhỏ, 5 cánh hoa và 5 nhị
hoa.
Họ này có một số loài có độc tính cao, chẳng hạn như cây độc cần, là loài cây đã
được sử dụng để hành hình Socrates và cũng được sử dụng để tẩm độc các đầu mũi tên.
Nhưng họ này cũng chứa nhiều loại cây có ích lợi cao cho con người như cà rốt, mùi
tây, ca rum và thì là….
Nhiều loài cây trong họ này, chẳng hạn cà rốt hoang có các tính chất
của estrogen (hooc môn sinh dục nữ), và được sử dụng trong y học truyền thống để kiểm

soát sinh đẻ. Nổi tiếng nhất trong số loài cây dùng cho việc này là loài Thì là khổng lồ đã
tuyệt chủng: A ngụy (chi Ferula hay cụ thể là loài Ferula tingitana).
Một số loại cây đáng chú ý của Họ Hoa tán:
 Anethum graveolens - thì là
 Anthriscus cerefolium - hồi cần
 Chi Angelica - bạch chỉ
 Apium graveolens - cần tây
 Carum carvi - ca rum
 Centella asiatica - rau má
 Conium maculatum - độc cần
 Foeniculum vulgare - tiểu hồi
hương
 Cuminum cyminum - thì là Ai Cập
 Daucus carota - cà rốt
 Eryngium - chi nhựa ruồi biển
 Myrrhis odorata - điềm một dược
 Pastinaca sativa - củ cải vàng
 Petroselinum crispum - mùi tây
 Coriandrum sativum - mùi Tàu
 Pimpinella anisum - tiểu hồi cần
 Levisticum officinale - cây cần núi
-6-



1.2. Tổng quan về cây rau má
Rau má là loại rau dại mọc tương đối phổ biến ở các vùng đất nhiệt đới đặc biệt là
ở Châu Á. Nó được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: Tích tuyết thảo (Trung
Quốc), Phanok (Lào), Trachiek – Kranh (Campuchia), Gotu – Kola (Sri Lanka), Pegagan
(Indonesia), Takip – Kohol (Philippine), Bua – Bok (Thái Lan)…

Rau má là loại thực vật mọc lan trên mặt đất có lá trông giống như những đồng
tiền tròn được xếp nối tiếp nhau nên còn gọi là Liên tiền thảo.
Tên khoa học là Centella asiatica (L.) Urb. (Hydrocotyle asiatica L., Trisanthus
cochinensis Lour) thuộc họ Hoa tán Apiacece (Umbelliferae).
Hình 1.1. Cây ngò tây
Hình 1.2. Cây bạch chỉ
Hình 1.3. Cây thì là
Hình 1.4. Cây độc cần
-7-

1.2.1. Vị trí phân loại
Theo phân loại khoa học
Giới: Plantae
Bộ: Apiales
Họ: Apiaceae
Phân họ: Mackinlayoideae
Chi: Centella
Loài: C. asiatica
1.2.2. Đặc điểm phân bố
Rau má thích hợp mọc ở những nơi ẩm ướt như thung lũng, bờ mương thuộc
những vùng có khí hậu nóng ẩm. Ở Việt Nam và các nước nhiệt đới như Lào,
Campuchia, Indonesia, Ấn Độ… rau má mọc hoang khắp nơi, thường gặp ở các bãi cỏ,
bờ ruộng, ven suối, sườn đồi, những vùng ẩm ướt. Rau má có thể thu hái cả bốn mùa nên
khả năng mở rộng diện tích trồng và tăng năng suất rất dễ dàng.
Bên cạnh đó, việc trồng rau má không đòi hỏi đầu tư nhiều và việc chăm sóc
tương đối dễ dàng. Ở đất bùn, rau má có thể đạt năng suất 1 – 1,2 tấn/ 500m
2
/ lứa thu
hoạch, ở đất khô thì năng suất khoảng 500kg/ 500m
2

/ lứa. Mỗi năm có thể thu hoạch 7 –
10 lứa.
1.2.3. Đặc điểm hình thái
Thân rau má gầy và nhẵn, thuộc loại thân bò lan, màu xanh lục hay lục ánh đỏ, có
rễ ở các mấu. Nó có các lá hình thận, khía tai bèo rộng 2 – 5 cm, màu xanh với cuống dài
và phần đỉnh lá tròn, kết cấu trơn nhẵn với các gân lá dạng lưới hình chân vịt. Các lá mọc
ra từ cuống dài khoảng 5 – 20 cm. Bộ rễ bao gồm các thân rễ, mọc thẳng đứng có màu
trắng kem và được che phủ bằng các lông tơ ở rễ
Hoa rau má có màu từ ánh hồng tới đỏ, mọc thành các tán nhỏ, tròn gần mặt đất.
Mỗi hoa được bao phủ một phần trong 2 lá bắc màu xanh. Các hoa lưỡng tính này khá
nhỏ (nhỏ hơn 3mm), với 5 – 6 thùy tràng hoa. Hoa có 5 nhị và 2 vòi nhụy, quả có hình
Hình 1.5. Cây rau má
-8-

mắt lưới dày đặc. Quả của nó chín sau 3 tháng. Toàn bộ cây, bao gồm cả rễ thường được
thu hái thủ công.
1.2.4. Một số loại rau má
a. Rau má lá sen
 Tên khoa học: Hydrocotyle bonariensis
 Mô tả
Rau má thân mọc bò, có rễ ở mấu.
Lá mọc so le hoặc tụ tập nhiều lá trên
mấu, lá hơi tròn, có khía tai bèo, rộng 2-
3cm, cuống dài 3-5cm, phiến lá xanh,
toàn cây khi tươi có mùi hăng, vị đắng.
Lá đài nhọn có màu lục, ra hoa từ đầu
mùa xuân đến mùa thu.
Quả hình bầu dục, dày 1,5- 2mm,
rộng 2,5- 3 mm, đáy và đỉnh có khía
sống lưng và phần bên gân nổi rõ.

 Phân bố và sinh thái:
Cây sống dễ trong nước, những nơi đất cát, bờ biển, mương rãnh nhưng cũng chịu
được môi trường khô, xuất xứ Nam Mĩ, gần đây phát hiện mọc ở Việt Nam.
b. Rau má m
 Tên khoa học:
Hydrocotyle Sibthorpioides Lam
 Tên khác: Rau má họ, rau má chuột.
 Mô tả
Cây thân cỏ nhỏ, mọc quanh năm,
thân mọc bò, mang rễ ở mấu, lá hơi tròn,
mép khía răng không đều.
Hình 1.6. Rau má lá sen
Hình 1.7. Rau má mỡ
-9-

Cụm hoa nhiều tán mọc ở nách lá, mang hoa màu trắng. Lá và cụm hoa đều có cuống
màu trắng dài. Quả dẹt nhẵn hoặc có lông nhỏ.
 Phân bố và sinh thái
Cây mọc ở những nơi ẩm ướt, ven ruộng, bờ ao Ra hoa vào tháng tư.
Rau má mỡ thường gặp mọc hoang khắp nơi ở nước ta và các nước châu Á, Châu Phi,
ngoài ra còn phân bố ở Châu Mỹ và Ôxtrâylia.
c. Rau má di
 Tên khoa học: Hydrocotyle
Chinenisis (Cunn) Craib
 Tên khác: Rau má rừng.
 Mô tả
Cây thân cỏ sống dai, có thân dài, cành
mọc vươn lên dài 5 -20 cm, có lông mềm,
mang ít lá nhẵn, phiến lá hình thận mắt
chim, lõm sâu hình tim, chia 5 thùy hình

tròn hay khía tai bèo, cuống lá dài, hơi có
lông, lá kèm mỏng, hình tròn hay hình trái
xoan.
Cụm hoa ở nách đối diện với lá, thường đơn độc to hơn lá, cuống tán dài hơn cuống
lá, nhẵn hay có lông dài, cuống hoa ngắn. Bao chung có lá bắc nhỏ hình trái xoan, khi
nguyên mang khía răng ở gốc, quả khi chín hình tròn, có màu đen, mang vòi ngắn.
 Phân bố và sinh thái
Cây mọc trên đất ẩm, gần khe suối trong rừng, núi cao. Ra hoa vào mùa thu. Ở nước
ta thường gặp ở Cao Bằng, Sơn La, Hòa Bình vào đến KonTum.
1.2.5. Thành phần hóa học
Một số nghiên cứu cho thấy thành phần hóa học của rau má rất phong phú (bảng
1.1). Ngoài ra rau má còn chứa Sterol, Saponin, Flavonol, Saccharide, Magnesium,
Hình 1.8. Rau má dại
-10-

Manganese, Potassium, Zinc, các loại vitamin B
2
, B
3
, B
6
và K. Tùy theo khu vực trồng
hoặc mùa vụ thu hoạch mà tỉ lệ các hoạt chất trong rau má có thể sai khác nhau.
Toàn bộ cây rau má đều chứa tinh dầu, dầu béo. Chất béo chủ yếu là Glyceride của
các loại acid: Oleic, Linoleic, Lignoceric, Palmitic và Stearic. Trong rau má còn chứa
một lượng Alkaloid Hydrocotylin, chất đắng Vellarin và đặc biệt là Glycoside
Asiaticoside. Lượng Asiaticoside này khi thủy phân cho Asiatic acid và Glucose,
Rhamnose. Hàm lượng Asiaticoside trong mô rau má theo từng bộ phận khác nhau sẽ
chiếm tỷ lệ khác nhau.
Trong thành phần hóa học của cây rau má, nhóm Saponin hay còn gọi là

Triterpene được xem là nhóm chất đặc biệt có ý nghĩa nhất, nó bao gồm Triterpene acid
và Triterpene glycoside. Triterpene acid chứa Asiatic acid, Brahmic acid, Isobrahmic
acid, Madecassic acid và Bentulinic acid. Còn hợp chất triterpene glycoside có chứa
Asiaticoside, Madecassoside, Brahmoside, Brahminoside và Thankuniside. Đây là nhóm
những hoạt chất được nghiên cứu khá nhiều trong lĩnh vực y dược nhằm phục vụ việc
chữa bệnh cho con người trong đó phải kể đến vai trò của Asiaticoside và Madecassoside.
Asiaticoside là một Triterpene glycoside chiếm hàm lượng nhiều nhất.
Asiaticoside là 1-O-acyl-D-glucose pyranose được tìm thấy trong tự nhiên, nó là
Trisacharide ester của acid Asiatic. Người ta cho rằng, trong cơ thể Asiaticoside thủy
phân thành đường và acid Asiatic – sản phẩm trao đổi chất chịu trách nhiệm trong việc
chữa bệnh. Asiaticoside có khả năng kháng khuẩn và hoạt tính diệt nấm chống lại được
mầm bệnh và nấm. Asiaticoside giúp chữa lành vết thương nhanh chóng nhờ vào cơ chế
kích thích tạo collagen và sự tổng hợp glycosaminoglycan.
Hoạt chất Asiaticoside cũng đã được ứng dụng trong điều trị bệnh phong và bệnh
lao. Người ta cho rằng trong những bệnh này, vi khuẩn được bao phủ bởi một màng
ngoài giống như sáp khiến cho hệ kháng nhiễm của cơ thể không thể tiếp cận. Chất
Asiaticoside trong dịch chiết rau má có thể làm tan lớp màng mỏng này để hệ thống miễn
dịch của cơ thể tiêu diệt chúng.
-11-

Năm 1990, Maquart và cộng sự đã công bố công trình nghiên cứu về khả năng làm
lành vết thương bị lở loét của Asiaticoside. Dược tính đáng kể của hoạt chất này là giảm
bớt kích thước của vùng vết thương trên da lưng ở chuột sau 9 ngày thử nghiệm.
Theo nghiên cứu của Inhee và cộng sự (1999) cho thấy các dẫn xuất của chất
Asiaticoside có khả năng bảo vệ thần kinh, chống lại độc tố β – amyloid gây hại đối với
nơron thần kinh. Ba trong số 28 dẫn xuất của Asiaticoside có thể được đưa vào nghiên
cứu trị bệnh Alzheimer nhờ khả năng bảo vệ các tế bào thần kinh khỏi tác động của β –
amyloid. Một số báo cáo được xuất bản từ 1967 đến 1999 mô tả việc sử dụng thuốc mỡ
chứa đựng những liều cao từ 0,1 – 0,2% dịch chiết của rau má để tăng cường phục hồi vết
thương bị bỏng.

Asiaticoside kích thích hệ reticuloendothelial nên sức miễn nhiễm của cơ thể được
mạnh hơn. Asiaticoside giúp tế bào da chống oxy hóa, phát triển mô liên kết, nên làm
mạnh tế bào da, mô da căng trẻ và giúp cho vết mổ, vết loét mau lành.
Trong kết quả nghiên cứu của Boiteau và cộng sự (2001), tác dụng của
Asiaticoside được tìm thấy đó là tiềm năng làm giảm trầm cảm ở chuột. Những thử
nghiệm được tiến hành trên chuột và những kết quả cho thấy rằng Asiaticoside có thể có
hoạt động giống như chất chống trầm cảm, giúp chuột hoạt động, nhận và xử lý thông tin
nhanh hơn.
Nghiên cứu của Mahato (2000) và cộng sự đã thí nghiệm tác dụng của
Asiaticoside trên chứng bệnh sưng phù và viêm khớp. Asiaticoside có trong dịch chiết đã
làm giảm bớt bàn chân phình của chuột thử nghiệm. Kiểm tra hoạt dịch tại điểm viêm
khớp trên chân chuột cho thấy sự thoái hóa sụn khớp do sự tăng sản sinh những tế bào
viêm ở chuột được ức chế bởi Asiaticoside. Cơ chế tích cực của Asiaticoside cố thể liên
quan đến việc ngăn chặn sự tăng nhanh của bạch cầu.
Một thành phần khác không kém phần quan trọng trong tác dụng sinh học của rau
má chính là Madecassoside. Hoạt chất này cũng là một loại triterpene glycoside chiếm
phần lớn trong rau má, có tác dụng chữa lành vết thương và ngăn ngừa hình thành sẹo lồi.
Một nghiên cứu khoa học ở Trung Quốc cho thấy cơ chế tác dụng của Madecassoside
-12-

liên quan chặt chẽ đến việc ức chế sự gia tăng quá mức của các nguyên bào sợi da và làm
chết các tế bào nguyên sợi sẹo lồi.
Trong các nghiên cứu lâm sàng, Madecassoside đã chứng minh cho da cũng như các
đặc tính chống lão hóa trên da. Nó nghĩ rằng nó làm việc theo nhiều cách bao gồm:
 Kiểm soát tình trạng viêm
 Kích thích tổng hợp collagen I và III
 Giảm hoạt động của các enzym (ma trận Metallo protein MMP) đóng góp vào sự
phân hủy của ma trận của da hoặc khung
Collagen là một trong các thành phần chính của lớp hạ bì da. Collagen tôi đóng một
vai trò quan trọng trong việc chữa lành vết thương và Collagen III được sản xuất bởi các

nguyên bào sợi trước khi tổng hợp Collagen I. Cả hai Collagen I và III là những thành
phần không thể tách rời của da.
Một số nghiên cứu cũng đề nghị mà Madecassoside có thể có ích trong điều trị bệnh
vẩy nến, có lẽ hầu hết thông qua khả năng chống viêm của nó. Madecassoside có thể
được coi là một bổ sung hữu ích cho chế độ chăm sóc làn da của bạn hoặc là để thúc đẩy
làm lành vết thương sau phẫu thuật hoặc để tăng tổng hợp Collagen trong da lão hóa.
Bảng 1.1. Một số thành phần hóa học của rau má
STT
Tên thành phần hóa học
Đơn vị
Hàm lượng
1
Nước
% khối lượng
88,20
2
Protein
% chất khô
3,20
3
Mono, disaccaride
% chất khô
1,80
4
Cellulose
% chất khô
4,50
5
Vitamin C
mg%

3,70
6
Vitamin B
1

mg%
0,15
7
Calcium
mg%
2,29
8
Phosphorus
mg%
2,00
9
Iron
mg%
3,10
10
β – carotene
mg%
1,30


-13-

1.2.6. Tác dụng dƣợc lý và công dụng của rau má
Trong dân gian, rau má được sử dụng tương đối phổ biến: dùng cả lá và dây tươi
giã nát, xay lấy nước cốt để uống hoặc nấu chín làm rau trong bữa ăn hằng ngày…. Ngoài

ra nó còn thường được dùng như một bài thuốc trị bệnh cảm cúm, nhức đầu, viêm họng.
Theo y học cổ truyền, rau má là vị thuốc có tính hàn, vị ngọt, hơi đắng, tính bình,
không độc, có tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt, nhuận gan, giải độc, lợi tiểu. Rau má còn
được dùng để làm thuốc sát trùng, bổ dưỡng, chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, mụn
nhọt, rôm sảy.
Từ những năm 60 của thế kỷ 20, y học hiện đại đã có những nghiên cứu lâm sàng
về tác dụng chữa bệnh của dịch chiết rau má và các hợp chất trong rau má. Rất nhiều
công trình nghiên cứu đã được thực hiện và công bố.
Đối với thần kinh
Người ta nhận thấy rằng một số hoạt chất trong rau má như Bracoside B có tác
dụng lên hoạt động của hệ thần kinh trung ương, tăng cường các chất chuyển hóa, làm
giảm căng thẳng tâm lý, tăng khả năng tập trung tư tưởng và giúp cải thiện trí nhớ của
người già. Wattanathor Jintanaporn và cộng sự (2009) đã chứng minh rằng với hàm
lượng 250mg, 500mg và 750mg dịch chiết rau má mỗi ngày, trong 2 tháng, đã cải thiệt rõ
rệt khả năng nhớ và trạng thái tinh thần của những người già được nghiên cứu.
Người ta còn cho rằng dịch chiết rau má có hiệu quả tốt với bệnh Alzeheimer nhờ
vào những dẫn xuất của chất Asiaticoside có khả năng bảo vệ các tế bào thần kinh khỏi
tác động của độc tố β – amyloid.
Triterpenoids trong rau má cũng có thể làm giảm sự lo lắng và tăng cường chức
năng tâm thần ở một số cá nhân. Theo một nghiên cứu, xuất bản trong tạp chí Journal of
Clinical Psychopharmacology năm 2000, những người tiêu thụ rau má có thể giảm sự
giật mình đi rất nhiều. Trong khi những phát hiện này cho thấy rau má có thể có hoạt
động chống lo âu ở người, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng hiệu quả điều trị các triệu
chứng lo âu vẫn còn chưa rõ ràng.
Đối với tim mạch
-14-

Hoạt chất Bracoside A kích thích sự bài tiết Nitric oxide của mô để làm dãn nở vi
động mạch cùng mao quản, nên lượng máu di chuyển qua mô được nhiều hơn nên có khả
năng chấm dứt được các cơn đau tim, đồng thời các chất độc dễ được đào thải giúp tế bào

sống được thoải mái trong một môi trường lành mạnh. Khám phá quan trọng này mang
lại giải thưởng Nobel về Y năm 1998 cho 3 giáo sư Hoa Kỳ R. Furchgott, L. Ignarro và
F. Murad.
Trong tuần hoàn huyết, những hoạt chất của rau má có tác dụng cải thiện vi tuần
hoàn ở các tĩnh mạch, mao mạch, bảo vệ lớp áo trong của thành mạch và làm gia tăng
tính đàn hồi của mạch máu. Do đó rau má cũng thường được dùng trong các chứng tăng
áp lực tĩnh mạch ở các chi dưới. Trong thực tế người ta thường uống dịch rau má để trị
các bệnh về tĩnh mạch như sa tĩnh mạch hoặc sưng phù ở chân.
Nhiều nghiên cứu cho thấy các hoạt chất nằm ở trong chất xơ (Cellulose) của rau
má, nếu chúng ta chỉ giã vắt lấy nước, bỏ phần bã thì sẽ mất đi các hoạt chất này. Một số
công trình khác còn cho thấy các chất xơ có thể “kéo” Cholesterol ra khỏi cơ thể nên
cũng có tác dụng rất tốt với tim mạch, vì vậy nếu ăn các loại rau có nhiều chất xơ sẽ giúp
cơ thể đào thải dần lượng Cholesterol ra khỏi cơ thể.
Đối với da
Cơ chế và bằng chứng lâm sàng về việc kích thích sự tổng hợp collagen, thúc đẩy
sự hình thành tế bào da, giúp nhanh liền vết thương đã được nhiều tác giả đề cập.
Do tác dụng vào tuần hoàn và làm tế bào da vững mạnh nên rau má cũng được
ứng dụng làm kem bôi mặt ở Pháp để làm bớt những vết nhăn cho nét mặt được trẻ trung.
Theo nhiều công trình nghiên cứu và kết quả lâm sàng đều cho thấy dịch chiết rau má có
khả năng kích hoạt các tiến trình sinh học trong việc phân chia tế bào và tái tạo mô liên
kết giúp vết thương chóng lành và mau lên da non.
Hiện nay các chế phẩm từ rau má đã được sử dụng rất đa dạng dưới nhiều hình
thức thuốc tiêm, thuốc bột, thuốc mỡ để điều trị tất cả các chứng bệnh về da như vết
bỏng, vết thương do chấn thương, do giải phẫu, cấy ghép da, những vết lở loét lâu lành,
vết lở do ung thư, bệnh phong, vẩy nến.
-15-

Đối với bệnh ung thư
Phần dịch chiết chứa các Triterpenoids của rau má được cho là có khả năng tiêu
diệt được các tế bào ung thư loại lymphoma Dalton và Ehrlich, nhưng vẫn chưa xác định

chính xác loại Triterpenoid nào. Và các nghiên cứu về cấu trúc hóa học của các
triterpenoid trong Centella cũng được đánh giá có thể chống được ung thư nhờ vào hoạt
tính đối kháng hoạt động Collagen…
Trong rau má, các Triterpenoids loại ursane như Ursolic và Oleanolic acid có tính
diệt bào mạnh. Các nghiên cứu “in vitro” về Ursolic và Oleanolic acid ghi nhận khả năng
ngăn chặn sự phát triển của một số dòng tế bào ung thư có liên quan tới hoạt tính diệt bào
của các acid này. Cả Oleanolic acid và Ursolic acid đều làm giảm sự sinh sản của tế bào
nội mạc nên có thể sẽ hữu dụng để trị ung thư bằng cách ngăn chặn tiến trình
angiogenesis (tiến trình tăng trưởng của các mạch máu tân tạo để nuôi dưỡng tế bào tân
sinh) cần đến sự sinh sản của các tế bào nội mạc để tạo ra các mạch máu mới.
Các acid Oleanolic và Ursolic cũng có các tác động chống ung bướu (in vivo). Vì
vậy ở Nhật một đặc chế của các chất này được dùng để trị ung thư máu loại leukemia
nonlymphatic.
Asiaticoside (hoạt chất chiếm hàm lượng tương đối lớn trong rau má) cũng đã góp
phần không nhỏ ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư. Người ta cho rằng khi
hấp thụ vào cơ thể Asiaticoside sẽ phân cắt tạo thành khoảng 62% Asiatic acid và các gốc
đường. Asiatic acid này cũng có thể có các hoạt tính tốt như Oleanolic và Ursolic acid.
Nhiều bằng chứng lâm sàng trên chuột còn cho thấy rằng, dịch chiết rau má có khả năng
chữa lành khối u dạ dày chuột, có khả năng kháng khối u, giảm tác dụng xấu của thuốc
hóa trị liệu ung thư và trên tế bào ung thư ruột kết của người.
Ngoài những tác dụng trên thì rau má còn có tác dụng chống suy nhược, chống
stress do sự oxi hóa trên chuột và trị bệnh khớp. Trong những năm gần đây, nhiều
phương tiện thông tin đã phổ biến cách chữa bệnh thấp khớp bằng cách ăn hai lá rau má
tươi mỗi ngày. Ở Việt Nam hiện nay các công ty dược phẩm đã nghiên cứu và sản xuất
nhiều loại thuốc có nguồn gốc từ rau má để chữa trị nhiều loại bệnh.
-16-

1.3. Một số nghiên cứu trong nƣớc và trên thế giới về rau má
1.3.1. Trên thế giới
Ở nước ngoài, rau má là loại thảo dược truyền thống đã được sử dụng trong nhiều

thế kỷ ở Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia nhằm chữa lành vết thương và những bệnh về
da như bệnh vẩy nến và bệnh phong. Ở Ấn độ, rau má còn được gọi là Brahmi hàm nghĩa
một loại dược thảo có thể giúp con người tiến đến sự hoà hợp với tâm thức vũ trụ
(knowledge of the Supreme Reality). Do đó, rau má thường có trong khẩu phần ăn của
những vị thiền sư, những nhà yogi, những nhà thông thái. Trên thực tế, rau má tác dụng
lên hoạt động của hệ thần kinh trung ương, làm giảm căng thắng tâm lý, tăng cường khả
năng tập trung tư tưỡng và giúp cải thiện trí nhớ của người già.
Từ những năm 1940 y học hiện đại đã bắt đầu nghiên cứu tác dụng của rau má.
Người ta cho rằng dịch chiết rau má có hiệu quả tốt với bệnh Alzheimer nhờ vào những
dẫn xuất của chất Asiaticoside có khả năng bảo vệ các tế bào thần kinh khỏi tác động của
các độc tố beta-amyloid.
Theo tập san Société des amis du parc bonatique de Tananarive, năm 1941 và
1942 tại Mangas, người ta đã nghiên cứu dùng rau má chữa hủi tốt hơn chế phẩm của đại
phong thử. Năm 1949, Lythgoe và Trippet cũng đã nghiên cứu tác dụng chữa bệnh phong
của Centelloside, một loại Glycoside có tính chất giống Asiaticoside có trong rau má.
Nghiên cứu của Trung tâm Y tế Đại học Maryland chỉ ra rằng cây rau má có chứa
nhiều Triterpenoid (Asiaticoside, Madecassoside….) giúp tăng cường da và tăng lưu
thông vào vùng da.
Một chương trình phóng sự của đài truyền hình số 9 ở Sydney vào tháng 12/2003
cũng cho biết một số người ở Úc đã chữa khỏi bệnh thấp khớp bằng cách ăn 2 lá rau má
tươi mỗi ngày. Phương pháp này phát xuất từ quyển sách “Arthritis and Paradoxycal
Pennywort” (Bệnh thấp khớp và lá rau má) của ông Russell Maslen.
Nghiên cứu về tác dụng của rau má với bệnh ung thư ghi nhận bột trích tinh rau
má ức chế được sự tăng trưởng của tế bào ung thư nơi thú vật nhờ tác dụng của các
-17-

triterpenenoids liên hệ đến acid Asiatic .Cũng nhờ khả năng chống ung bướu này mà một
loại kem đặc chế ở Nhật Bản đã được dùng để trị ung thư máu (nonlymphatic leukemia).
1.3.2. Trong nƣớc
Rau má là một loại rau rất "lành", có thể ăn hằng ngày, nhưng rau má không chỉ là

một loại rau mà còn là vị thuốc quý, chữa được nhiều chứng bệnh, như: mụn nhọt, rôm
sảy, sốt nóng, thiếu sữa sau sinh, táo bón, hư lao, nhuận gan mật, bí tiểu tiện Ngoài ra,
rau má cũng là loại dược thảo có tính bổ dưỡng rất cao, có nhiều sinh tố, khoáng chất,
những chất chống oxy hóa, có thể dùng để dưỡng âm, cải thiện trí nhớ, làm chậm sự lão
hóa, cải thiện vi tuần hoàn và chữa nhiều chứng bệnh về da.
Theo y học cổ truyền, rau má có tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt, nhuận gan, giải
độc, lợi tiểu. Trong nhận thức dân gian, người Việt Nam từ xưa dùng rau má như một
loại thức ăn bổ dưỡng, dùng nước ép rau má, vò nát rau má đắp lên vết thương… như là
những cách sử dụng rau má đơn giản nhất. Ngày nay, trên thị trường đã xuất hiện rất
nhiều loại sản phẩm chiết xuất từ rau má với công dụng rất tốt như trà rau má Gotu Kola,
bột rau má trong viên nang mềm Cendital, kem trị mụn rau má,… Đặc biệt tinh rau má
tươi đã được Viện Công nghiệp thực phẩm sản xuất thành công với các chế phẩm rau má
tan, rau má FOS… trên thị trường.
Hiện nay ở Việt Nam, các nghiên cứu về rau má phần nhiều đi theo vào phân tích
khả năng kích hoạt các tiến trình sinh học trong việc phân chia tế bào và tái tạo mô liên
kết của rau má. Nhiều công trình nghiên cứu và kết quả lâm sàng cho thấy dịch tiết rau
má có khả năng kích hoạt các tiến trình sinh học trong việc phân chia tế bào và tái tạo mô
liên kết giúp vết thương chóng lành và mau lên da non. Các nghiên cứu này là tiền đề cho
việc sản xuất các loại thuốc tiêm, thuốc bột, thuốc mỡ để điều trị tất cả các chứng bệnh về
da như vết bỏng, vết thương do chấn thương, do giải phẩu, cấy ghép da, những vết lở lâu
lành , vết lở do ung thư, bệnh phong, vẩy nến…
Một số công trình khác đi vào nghiên cứu tác dụng của rau má trong tuần hoàn
huyết. Các hoạt chất của rau má có tác dụng cải thiện vi tuần hoàn ở các tĩnh mạch, mao
mạch, bảo vệ lớp áo trong của thành mạch và làm gia tăng tính đàn hồi của mạch máu.
-18-

Gần đây trường Đại học Đà Lạt cũng đã có công trình nghiên cứu khả năng giải
độc lá ngón bằng rau má nhưng vẫn chưa có kết quả thuyết phục.
Liên quan đến chất Asiaticoside, Giáo sư Bửu Hội có công trình nghiên cứu tác
dụng trị bệnh phong với rau má vào năm 1960. Ngày nay, nhiều nhà khoa học cho là chất

Asiaticoside của rau má có tác dụng tương đương với dược phẩm trị phong chính là
Dapsone. Ở nước ta TS. Phan Quốc Kinh và cộng sự đã chiết xuất được Asiaticoside và
acid Asiatic từ rau má Việt Nam.
Hoạt chất Asiaticoside đã được ứng dụng trong điều trị bệnh phong và bệnh lao.
Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam, dù có nhiều nghiên cứu về các tác dụng của rau má, vẫn
chưa có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu việc chiết xuất các hợp chất có hoạt tính sinh
học từ cây rau má nói chung và chất Asiaticoside nói riêng.
1.4. Một số bài thuốc từ rau má
Chữa trúng thử, say nắng, say nóng: Lấy khoảng 100g rau má tươi, rửa sạch, giã
nát, vắt lấy nước, thêm chút muối ăn, quấy đều cho uống. Có thể kết hợp rau má với lá
sen tươi, cỏ nhọ nồi tươi, mỗi thứ 100g, rửa sạch, thái nhỏ, giã nát, vắt lấy dịch, thêm
chút muối ăn, quấy đều cho uống. Ngoài ra có thể dùng rau má dưới dạng chè để giải
nhiệt hàng ngày: rau má, vỏ đậu xanh, đậu ván trắng, mạch môn, mỗi vị 12g, sinh địa 10
g, sa sâm, lá tre (tươi) mỗi vị 8 g, cam thảo 4 g, ngày 1 thang, dưới dạng hãm.
Chữa rôm sẩy, mẩn ngứa: Hàng ngày ăn rau má tươi, hoặc giã nát vắt lấy nước
uống (khoảng 50g rau má tươi với 200ml nước sôi để nguội), nếu trẻ nhỏ, có thể thêm
chút đường hoặc mật ong cho dễ uống.
Chữa mụn nhọt: Rau má và lá gấc mỗi thứ 50g rửa sạch, giã nhỏ, cho ít muối vào
trộn đều, đắp lên chỗ đau rồi băng lại, ngày thay 2 lần và đắp cho đến khi khỏi.
Hạ sốt: Khi bị sốt, nhức đầu, dùng 30g rau má tươi, rửa sạch, giã nát, thêm nước
sôi để nguội, vắt lấy nước cốt rồi hòa với 10g bột sắn dây, thêm đường uống.
Chữa ho khan, ho lâu ngày, ho thể nhiệt: Rau má tươi 100g, rửa sạch vắt lấy dịch cho
uống; có thể dùng 40g rau má (khô) phối hợp với bạc hà, cóc mẳn, mỗi vị 16g, bách bộ, mạch
môn, mỗi vị 12g, cam thảo 8g. Sắc uống, ngày một thang. Uống liền 1-2 tuần.
-19-

Sốt xuất huyết: Rau má, cỏ nầm trầu, lá huyết dụ, lá cối xay mỗi thứ 20g, cỏ nhọ
nồi sao cháy, sắc đặc, uống ngày 2 lần , mỗi lần một thang.
Hạ huyết áp: Rễ nhàu 16g, rễ kiến cò 12g, lá tre 12g, rễ tranh 12g, rễ cỏ xước 12g,
rau má 16 g. Sắc uống thay nước hằng ngày.

Chữa đau bụng tiêu chảy, rau má khô: (sao vàng) 10g, bạch biển đậu 12g, hoắc hương,
hương phụ, hạt mã đề, mỗi vị 8g, sa nhân 3g, gừng tươi 2g. Sắc uống, ngày 1 thang.
Chữa viêm loét dạ day, tá tràng: rau má (khô) 12g, đảng sâm 16g, hoài sơn, ý dĩ, kê
huyết đằng, cam thảo dây, hà thủ ô đỏ, đỗ đen (sao), mỗi vị 12g. Sắc uống, ngày 1 thang.
Chữa viêm bàng quang cấp: rau má 10g, bồ công anh 20g, mã đề 16g, thài lài tía,
chi tử, râu ngô, mộc thông, cam thảo dây, mỗi vị 12g. Sắc uống, ngày 1 thang.
Chữa viêm gan vàng da: rau má (tươi) 100g, nhân trần 30g, chi tử 12g, vàng
đắng 6g. Sắc uống, ngày 1 thang.
Chữa mệt mỏi do thay đổi thời tiết: Rau má 40g, ngải cứu, tía tô, kinh giới mỗi
thứ 20g, sắc đặc, này uống 2 lần.
Trị khí hư, phụ nữ đau bụng lúc hành kinh: Dùng rau má, bông mã đề, rễ cỏ
tranh, râu ngô, củ dứa, rau dừa, sài đất mỗi thứ 20g. Nếu là rau má tươi có thể giã nhuyễn
lấy nước uống, nếu khô sắc uống ngày 2 lần.
Chữa chảy máu chân răng, chảy máu cam: Rau má 30g, cỏ nhọ nồi, trắc bá diệp
mỗi vị 15g sao rồi sắc lấy nước uống .
Thống kinh, đau lưng, đau bụng, ăn kém, uể oải: Rau má 30g, ích mẫu 8g,
hương nhu 12g, hậu phác 16g. Đổ 600ml nước, sắc còn 200ml, chia 2 lần uống trong
ngày.
Thuốc lợi sữa: Rau má tươi hay luộc ăn cả cái và nước .
Ngộ độc lá ngón, say sắn: Rau má 50 -100g giã nát, hòa với nước chè đặc, thêm
đường thật ngọt, uống một lần (kinh nghiệm người Thái ở Tây Bắc). Hoặc lấy cả cây rau
má tươi rửa sạch, giã nát, hòa với nước ấm để uống.
Ngộ độc nấm: Lấy 400 g rau má rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt, hòa với 200g
đường phèn để uống.
-20-

Đơn thuốc có rau má phổ biến vào năm 1950 ở miền Đông Nam Bộ gồm: Rau
má, rễ cỏ tranh, cỏ mần trầu, cỏ nhọ nồi, cam thảo nam, ké đầu ngựa mỗi thứ 8g, lá
muồng trâu, củ sả, vỏ quýt mỗi thứ 4g, gừng tươi 2g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc uống
hai lần trong ngày. Thuốc điều hòa cơ thể với tác dụng chính là nhuận gan, nhuận tiểu,

nhuận tràng, nhuận huyết, giải độc và kích thích tiêu hóa.
Hiện nay người ta chế rau má dưới dạng:
Viên nén 0,01g rau má chữa chứng giãn tĩnh mạch, chứng nặng chân do máu tĩnh
mạch chảy chậm về tim. Ngày uống 3 – 6 viên vào bữa cơm.
Thuốc tiêm 1ml chứa 0,02g cao rau má. Cách 1 ngày tiêm bắp một ống phối hợp
bôi thuốc mỡ (1% cao rau má) hoặc dạng bột chứa 2% rau má để chữa các vết bỏng, vết
thương do chấn thương hoặc vết phẫu thuật, các tổn thương da và niêm mạc (mũi, họng).
Tại Việt Nam, tinh rau má tươi đã được Viện Công nghiệp Thực phẩm sản xuất
thành công.
Tác dụng phụ có thể có khi dùng rau má
Trong một số trường hợp, rau má làm tăng lượng Cholesterol và lượng đường
trong máu, vì vậy những người có Cholesterol cao và bệnh tiểu đường nên tránh lạm
dụng sử dụng rau má quá nhiều.
Loại rau này cũng có thể dẫn đến sẩy thai nếu sử dụng trong thời kỳ mang thai. Do
vậy, phụ nữ mang thai và đang cho con bú cũng nên tránh dùng loại rau này.
Rau má có thể tương tác với các thuốc gây buồn ngủ và thuốc chống co giật,
Barbiturat, Benzodiazepin, thuốc mất ngủ, và các thuốc chống trầm cảm Nó cũng có thể
làm giảm hiệu quả của Insulin và thuốc tiểu đường uống khác, cũng như các thuốc hạ
Cholesterol.
Rau má cũng có thể có một tác dụng làm giảm tác dụng an thần khi dùng với các
loại thuốc cảm lạnh và ho, hoặc khi uống rượu.


-21-

1.5. Một số sản phẩm rau má trên thị trƣờng






-22-

CHƢƠNG II: CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
THỰC NGHIỆM
2.1. Nguyên liệu, dụng cụ thiết bị, hóa chất
2.1.1. Nguyên liệu
Cây rau má được trồng và thu hái tại Đà Nẵng
2.1.2. Dụng cụ thiết bị
Bộ chiết soxhlet, máy đo quang UV-VIS, thiết bị cô quay chân không
Tủ sấy, lò nung, cân phân tích
Cốc thuỷ tinh, bình tam giác, bếp điện, bếp cách thuỷ, cốc sứ, các loại pipet, bình
định mức, bình hút ẩm, giấy lọc…
2.1.3. Hóa chất
Ethanol, methanol, nước cất, ethylacetat, HNO
3
loãng…
2.2. Quy trình nghiên cứu
Thuyết minh quy trình
Rau má sau khi được xử lý thì lấy 1 phần để xác định độ ẩm, hàm lượng hữu cơ,
vô cơ.
Sấy rau má tươi trong tủ sấy ở 50
0
C trong ít nhất 12h rồi cắt nhỏ
Chọn dung môi chiết bằng phương pháp ngâm chiết trong 5 ngày, các điều kiện
như nhau với các mẫu ngâm dung môi khác nhau. Lọc lấy dịch chiết, pha loãng rồi đo
UV – VIS để lựa chọn dung môi chiết.
Khảo sát thời gian chiết tối ưu bằng phương pháp chiết soxlet với dung môi đã
chọn thu dịch chiết rồi đo UV – VIS.
Tiến hành quy trình chiết rau má với các điều kiện đã khảo sát được, thu dịch

chiết. Sau đó dịch chiết được cô quay chân không và để bay hơi tự nhiên rồi định danh
bằng phương pháp đo GC – MS.
-23-


Rau má
Làm sạch,
loại tạp
Sấy khô
(50
0
C)

Xay nhỏ

Bột
rau

Chiết
soxhlet
Thời gian:
2h
4h
6h
8h

Dịch
chiết
Đo UV - VIS
Kết quả UV – VIS

chọn thời gian chiết
Đo độ
ẩm
Rau má
đã xác
định độ
ẩm
Nung
Tro
HNO
3

Đo AAS
Dung
dịch
Hàm
lượng
kl
nặng
loãng

Ngâm
chiết
Dung môi:
ethanol 70
0

ethanol 80
0


Ethanol 90
0

ethanol tuyệt đối
Dịch
chiết
Đo UV - VIS
Kết quả UV – VIS
chọn nồng độ cồn
Ngâm
chiết
Dung môi:
ethylacetate
methanol
ethanol
Dịch
chiết
Đo UV - VIS
Kết quả UV – VIS
chọn dung môi
Chiết
soxhlet
Dịch
chiết
Cô quay
Cao rau

Đo GC – MS
Thành phần
hóa học của

dịch chiết
Dung môi:
ethanol tuyệt
đối
Thời gian: 6h
chân không

Quy trình nghiên cứu
-24-

2.3. Các phƣơng pháp xác định chỉ tiêu hóa lý
2.3.1. Xác định độ ẩm : phƣơng pháp sấy đến khối lƣợng không đổi
Dùng 3 chén sứ, đánh số, sấy ở khoảng 100 – 150
0
C đến khối lượng không đổi. Để
nguội trong bình hút ẩm, cấn khối lượng m
1
(của chén sứ)
Cân chính xác 3 mẫu, mỗi mẫu có khối lượng m(g) cho vào 3 chén sứ trên.
Chuyển chén sứ vào tủ sấy, sấy ở nhiệt độ khoảng 80
0
C rồi nâng dần lên khoảng hơn
100
0
C trong 3h. Lấy ra để nguội trong bình hút ẩm, cân rồi ghi kết quả lần 1.
Cho chén sứ vào lại tủ sấy >100
0
C trong khoảng 30 phút, lấy ra để nguội rồi cân
ghi kết quả lần 2, lặp lại như vậy đến khi khối lượng không đổi (khối lượng chênh nhau
giữa mỗi lần cân không quá 0.005g) => cân được m

2
.
Độ ẩm của mẫu được tính bằng công thức:



Độ ẩm trung bình



Trong đó:
m
1
: Khối lượng chén sứ (g)
m: Khối lượng rau má (g)
m
2
: Khối lượng chén sứ và mẫu sau khi sấy (g)
n: Số lần xác định W(%)
2.3.2. Xác định hàm lƣợng hữu cơ: phƣơng pháp tro hóa mẫu
Để xác định hàm lượng tro và các nguyên tố vô cơ trong cơ thể động vật, thực vật
người ta dùng các phương pháp tro hóa mẫu.
Các mẫu rau má (khối lượng m
2
) đã xác định độ ẩm ở trên tiếp tục được sử dụng
để tro hóa. Các mẫu được đốt trên bếp điện, than hóa sơ bộ, sau đó cho vào lò nung và
W% =

x 100%


m
(m
1
+ m)  m
2


W
TB
% =

n
W
n

1
(%)
-25-

tiến hành tro hoá mẫu ở nhiệt độ 500-550
0
C trong thời gian từ 4 - 6 tiếng, cho đến khi thu
được tro trắng.
Lấy mẫu ra làm nguội đến nhiệt độ phòng trong bình hút ẩm, cân lại mẫu, có khối
lượng m
3
. Khối lượng tro chính là phần chất còn lại sau khi nung.
Hàm lượng tro được tính theo công thức




Hàm lượng tro trung bình



Trong đó:
m
1
: Khối lượng chén sứ (g)
m: Khối lượng rau má ban đầu (g)
m
3
: Khối lượng chén sứ và mẫu sau khi tro hoá (g)
n: Số lần xác định % tro
 Hàm lượng hữu cơ: % hữu cơ = 100% - % tro => % hữu cơ
TB

2.3.3. Xác định hàm lƣợng kim loại nặng
Tro thu được sau khi nung ở trên đem hòa tan trong dung dịch HNO
3
loãng, định
mức bằng nước cất và xác định hàm lượng kim loại bằng phương pháp đo phổ hấp thụ
nguyên tử AAS.
a. Đặc điểm của phổ AAS
Nếu ta chiếu một chùm tia sáng có bước sóng xác định vào đám hơi nguyên tử thì
các nguyên tử tự do sẽ hấp thụ các bức xạ có bước sóng ứng đúng với những tia bức xạ
mà nó có thể phát ra được trong quá trình phát xạ. Phổ sinh ra trong quá trình này gọi là
phổ hấp thụ nguyên tử.
% tro =
(m

3
 m
1
).100%
m
% tro
TB
=
n
tro
n

1
%

×