Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

nghiên cứu đặc điểm và xác định xu hướng diễn thế của thảm thực vật thoái hoá do tác động của quá trình khai thác than ở cẩm phả - quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 151 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM





HOÀNG THỊ HẢI ÂU







NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM VÀ XÁC ĐỊNH XU HƯỚNG
DIỄN THẾ CỦA THẢM THỰC VẬT THOÁI HÓA DO
TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH KHAI THÁC THAN Ở
CẨM PHẢ - QUẢNG NINH







LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH THÁI HỌC













Thái Nguyên - Năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM





HOÀNG THỊ HẢI ÂU






NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM VÀ XÁC ĐỊNH XU HƯỚNG
DIỄN THẾ CỦA THẢM THỰC VẬT THOÁI HÓA DO
TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH KHAI THÁC THAN Ở

CẨM PHẢ - QUẢNG NINH


Chuyên ngành: SINH THÁI HỌC
Mã số : 60.42.60




LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH THÁI HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THẾ HƯNG







Thái Nguyên - Năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
2. Mục tiêu nghiên cứu:
3. Những đóng góp mới của luận văn
Chƣơng I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các quan điểm về thảm thực vật và sự phân chia kiểu thảm
thực vật.
1.2. Nghiên cứu thành phần loài và dạng sống (life form) thực vật
1.3. Nghiên cứu cấu trúc của thảm thực vật
1.4. Nghiên cứu quá trình tái sinh tự nhiên, phục hồi rừng và xu
hướng diễn thế của thảm thực vật
1.5. Nghiên cứu về đặc tính lý, hóa của đất
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Chƣơng 3: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN
CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội vùng nghiên cứu
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Đặc điểm về hình thái, cấu trúc của thảm thực vật
4.2. Thành phần loài, thành phần dạng sống thực vật và một vài
Trang
1
1
3
3
4
4


11
13
22

26
33

33
33
34
38

38
49
54
54
61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


chỉ số đa dạng sinh học của các trạng thái thảm thực vật
4.3. Năng lực tái sinh tự nhiên của các loài cây gỗ trong các thảm
thực vật thoái hóa do tác động của quá trình khai thác than
4.4. Đặc tính lý hóa của đất dưới các trạng thái thảm thực vật
4.5. Xu hướng diễn thế của các trạng thái thảm thực vật
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

77

86
98
103
105

106


















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Trang
Bảng 4.1: Kiểu phân bố của cây gỗ trên mặt đất trong thảm thực vật
thoái hoá do tác động của quá trình khai thác than
Bảng 4.2: Số lượng và tỷ lệ phần trăm về số loài, chi và họ thực vật
trong các thảm thực vật ở các địa điểm nghiên cứu.
Bảng 4.3: Số lượng loài thực vật trong các họ
Bảng 4.4: Sự biến động về số loài và số chi trong các họ thực vật ở
khu vực nghiên cứu
Bảng 4.5: Một số chỉ tiêu về cấu trúc hệ thống của các thảm thực vật
Bảng 4.6: Tỷ lệ các loài cây gỗ thuộc các kiểu dạng sống
Megaphanerophytes – Mesophanerophytes – (MM) và kiểu dạng
sống Microphanerophytes – (Mi) tromg các thảm thực vật ở xã
Dương Huy (Cẩm Phả, Quảng Ninh
Bảng 4.7: Sự biến động về số loài và số chi trong các họ thực vật ở
điểm nghiên cứu thứ nhất
Bảng 4.8 : Sự biến động về số loài và số chi trong các họ thực vật ở
điểm nghiên cứu thứ hai
Bảng 4.9: Sự biến động về số loài và số chi trong các họ thực vật ở
điểm nghiên cứu thứ ba
Bảng 4.10: Chỉ số tương đồng (Sorensen’s Index - SI) giữa các thảm
thực vật
Bảng 4.11 : Mật độ cây gỗ tái sinh trong thảm thực vật ở các địa
điểm nghiên cứu

60

62


63

65

66

67



68

71

73

75

78

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Bảng 4.12: Mật độ cây gỗ tái sinh qua các cấp chiều cao trong các
thảm thực vật ở xã Dương Huy (Cẩm Phả, Quảng Ninh)
Bảng 4.13 : Nguồn gốc và chất lượng của cây gỗ tái sinh trong các thảm
thực vật ở xã Dương Huy (Cẩm Phả, Quảng Ninh)
Bảng 4.14: Sự biến động mật độ cây gỗ tái sinh trong các thảm thực vật
theo vị trí địa hình

Bảng 4.15: Hàm lượng mùn và các chất tổng số trong đất (độ sâu 0 -
30cm) ở các điểm nghiên cứu
Bảng 4.16: Hàm lượng các chất dễ tiêu (P
2
O
5
và K
2
O) trong đất (độ
sâu 0-30cm) ở các điểm nghiên cứu
Bảng 4.17: Chỉ số CEC và độ pH trong đất (độ sâu 0- 30cm) ở các điểm
nghiên cứu.

81

83

85

87

91

93














Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Tên hình
Trang
Hình 2.1: Cách bố trí các ô dạng bản trong các ô tiêu chuẩn
Hình 2.2: Cách bố trí các phẫu diện đất trong ô nghiên cứu
Hình 3.1: Bản đồ hành chính thị xã Cẩm Phả (tỉnh Quảng Ninh) -
năm 2010
Hình 4.1: Số loài, số chi và số họ thực vật trong các địa điểm nghiên
cứu.
Hình 4.2: Đồ thị về sự biến động về số loài và số chi trong các họ
thực vật ở khu vực nghiên cứu
Hình 4.3: Một số chỉ tiêu về cấu trúc hệ thống trong các thảm thực
vật ở xã Dương Huy, thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh)
Hình 4.4: Tỷ lệ các loài cây gỗ thuộc các kiểu dạng sống
Megaphanerophytes – Mesophanerophytes – (MM) và kiểu dạng
sống Microphanerophytes – (Mi) tromg các trạng thái thảm thực vật
ở xã Dương Huy (Cẩm Phả, Quảng Ninh
Hình 4.5: Sơ đồ về các kiểu tổ hợp giữa các thảm thực vật để xác
định mức độ giống nhau về thành phần loài cây gỗ thông qua chỉ số
tương đồng (SI)


Hình 4.6 : Mật độ cây gỗ tái sinh trong các trạng thái thảm thực vật ở
xã Dương Huy (Cẩm Phả, Quảng Ninh)
Hình 4.7: Mật độ cây gỗ tái sinh theo các cấp chiều cao
trong các trạng thái thảm thực vật tại ở Dương Huy (Cẩm Phả, Quảng
Ninh)
Hình 4.8: Nguồn gốc của cây gỗ tái sinh trong các trạng thái thảm thực vật

35
36
39

63

65

66

68



74


78

82



84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ở xã Dương Huy, thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh)
Hình 4.9: Chất lượng của cây gỗ tái sinh trong các trạng thái thảm thực vật
ở xã Dương Huy, thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh)
Hình 4.10: Mật độ cây tái sinh (cây/ha) theo vị trí địa hình trong các
trạng thái thảm thực vật ở xã Dương Huy, thị xã Cẩm Phả (Quảng
Ninh)
Hình 4.11: Hàm lượng mùn trong đất (độ sâu 0 - 30cm) trong các trạng
thái thảm thực vật ở xã Dương Huy, thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh)
Hình 4.12: Hàm lượng đạm tổng số trong đất (độ sâu 0 - 30cm) trong
các trạng thái thảm thực vật ở xã Dương Huy, thị xã Cẩm Phả (Quảng
Ninh)
Hình 4.13: Hàm lượng lân và kali tổng số trong đất (độ sâu 0 - 30cm)
trong các trạng thái thảm thực vật ở xã Dương Huy, thị xã Cẩm Phả
(Quảng Ninh)
Hình 4.14: Hàm lượng lân và kali dễ tiêu trong đất (độ sâu 0 - 30cm)
trong các trạng thái thảm thực vật ở xã Dương Huy, thị xã Cẩm Phả
(Quảng Ninh)
Hình 4.15: Sự biến động CEC (meq/100g đất) theo chiều sâu phẫu
diện trong các trạng thái thảm thực vật ở xã Dương Huy, thị xã Cẩm
Phả (Quảng Ninh)
Hình 4.16: CEC liên quan chặt chẽ với hàm lượng mùn trong đất (độ sâu 0
– 30 cm) ở các điểm nghiên cứu
Hình 4.17: pH của đất (độ sâu 0 - 30cm) trong các trạng thái thảm thực
vật ở xã Dương Huy, thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh)

84


85


87

88


89


92


94


95

96





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong giai đoạn hiện nay, khi nhân loại đang phải đối mặt với những
thách thức nghiêm trọng về khí hậu, thiên tai, nạn ô nhiễm (ô nhiễm vật lý,
hoá học và sinh vật học) và sự suy giảm nguồn nước, thì môi trường đã trở
thành vấn đề quan tâm của toàn cầu.
Trong nhiều vấn đề về môi trường, thì là diện tích rừng càng ngày càng
bị thu hẹp được coi là vấn đề bức xúc nhất. Mức độ nguy hiểm của việc suy
thoái rừng không chỉ vì quá trình này diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên Trái
Đất, mà còn vì quá trình này tất yếu kéo theo những hậu quả đáng tiếc khác
về môi trường (giảm đa dạng sinh học, lũ lụt, tai biến địa chất, xói mòn, sa
mạc hoá, tăng nhiệt độ khí quyển ).
Theo FAO (1957), mức an toàn sinh thái tối thiểu của độ che phủ mặt đất
của thực bì là 33% [6]. Ở nước ta, năm 1943, tỷ lệ che phủ của rừng khoảng
43%, với diện tích 14,3 triệu ha, thì đến năm 1999, tổng diện tích rừng cả
nước chỉ còn khoảng 9,3 triệu ha (8,25 triệu ha rừng tự nhiên và 1,05 triệu ha
rừng trồng, độ che phủ chỉ còn 28%) (Theo Nguyễn Thế Hưng, 2003)[25].
Quảng Ninh không chỉ là một tỉnh miền núi có nền kinh tế khá phát
triển, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thương mại và du
lịch, mà còn là tỉnh có nhiều ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên (tài nguyên khí
hậu, tài nguyên biển, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng và sinh vật
rừng…). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Quảng Ninh chịu hậu quả khá
nặng nề của sự xuống cấp về môi trường, đặc biệt rừng ở Quảng Ninh bị suy
giảm cả về diện tích và chất lượng do nhiều nguyên nhân khác nhau (khai
thác quá mức tài nguyên rừng, canh tác nương rẫy, chăn thả gia súc, sử dụng
đất lâm nghiệp cho các mục đích khác, chính sách và năng lực quản lý rừng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2


cộng đồng còn nhiều bất cập). Một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho
suy thoái tài nguyên rừng và sự xuống cấp về môi trường là quá trình khai
thác than. Quá trình khai thác than được xác định là một trong những hoạt
động chủ yếu làm mất nhiều rừng, làm mất dần tính đa dạng sinh học.
Quá trình suy thoái rừng do khai thác than diễn ra rất mạnh mẽ ở thành
phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả, thị xã Uông Bí và huyện Hoành Bồ. Có thể coi
đây là những địa phương điển hình trong tỉnh Quảng Ninh về sự xuống cấp
của môi trường do tình trạng suy thoái về số lượng và chất lượng rừng gây
nên: lũ lụt, xói mòn, sạt lở đất đá, suy giảm nguồn nước, quá trình feralit
hoá Đặc biệt, sự tác động của quá trình khai thác than đã khiến cho rừng tự
nhiên, với tính đa dạng cao, có trữ lượng gỗ lớn đã bị thay thế bởi thảm thực
vật thoái hoá với độ đa dạng thấp.
Mặc dù Quảng Ninh đã xây dựng một số chương trình hành động cụ
thể để nâng cao độ che phủ và cải thiện chất lượng rừng, nhưng do các thảm
thực vật thoái hóa phân bố ở nhiều địa phương, trên nhiều loại địa hình, với
mức độ thoái hóa và có nguồn gốc khác nhau, nên việc lựa chọn phương thức
bảo vệ, tác động, cũng như sử dụng như thế nào đối với các trạng thái thảm
thực vật một cách hợp lý là một câu hỏi đang được đặt ra cho các nhà nghiên
cứu.
Thị xã Cẩm Phả là một địa phương của tỉnh Quảng Ninh chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất của quá trình khai thác than. Nhiều loại hình thảm thực
vật thoái hoá đã được hình thành từ thảm thực vật rừng do tác động nhiều mặt
của quá trình khai thác than. Tuy nhiên, cho đến nay lại thiếu những nghiên
cứu cơ bản, làm căn cứ cho việc bảo vệ và sử dụng hợp lý và có hiệu quả các
loại hình thảm thực vật thoái hóa đó ở Quảng Ninh.
Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm và xác định xu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3

hướng diễn thế của thảm thực vật thoái hoá do tác động của quá trình khai
thác than ở Cẩm phả - Quảng Ninh”
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu đặc điểm của thảm thực vật thoái hóa do tác động của quá
trình khai thác than, tại thị xã Cẩm Phả (tỉnh Quảng Ninh), nhằm đưa ra
những đóng góp khoa học, làm cơ sở cho việc bảo vệ hoặc khai thác, sử dụng
thảm thực vật một cách hợp lý và hiệu quả.
3. Những đóng góp mới của luận văn.
Đề tài này là công trình nghiên cứu đầu tiên về thảm thực vật thoái hoá
do tác động của quá trình khai thác than ở tỉnh Quảng Ninh. Kết quả nghiên
cứu của đề tài có đóng góp cả về mặt lý luận và thực tiễn:
3.1. Đóng góp về mặt khoa học
Bổ sung thêm về đặc điểm của thảm thực vật thoái hoá do tác động của
quá trình khai thác than với các công trình nghiên cứu trước đây về đặc điểm
của thảm thực vật thoái hoá do các nguyên nhân khác (do khai thác kiệt, do
canh tác nương rẫy) ở tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm cơ sở cho việc đề ra các biện
pháp lâm sinh, cũng như việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội và
nhằm bảo vệ và khai thác, sử dụng thảm thực vật thoái hoá do tác động của
quá trình khai thác than ở tỉnh Quảng Ninh một cách hiệu quả.





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4

Chƣơng I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các quan điểm về thảm thực vật và sự phân chia kiểu thảm thực vật.
Theo Thái Văn Trừng (1978), quan điểm của nhiều nhà khoa học ở Tây
Âu và Bắc Mỹ cho rằng, thảm thực vật không được xem như những đơn vị
riêng biệt, mà chúng thay đổi không ngừng khi điều kiện hoàn cảnh thay đổi
hoặc khu vực phân bố của các loài thay đổi. Cá thể loài cây là thực thể duy
nhất tồn tại trong thiên nhiên. Vì vậy, các tác giả này, mà tiêu biểu là Negri,
Curtis, Brown, Whittaker, Ramenxki không những chỉ phủ nhận sự tồn tại
của các quần hợp thực vật mà phủ nhận luôn cả sự tồn tại của những loại hình
thảm thực vật khác nhau [77].
Khác với quan điểm phủ nhận sự tồn tại của các quần hợp thực vật và
những loại hình thảm thực vật khác nhau, nhiều nhà khoa học cho rằng, thảm
thực vật bao gồm các đơn vị cụ thể, mà ngoại mạo, cấu trúc, thành phần, ranh
giới, động thái, đặc điểm phân bố đều dựa trên cơ sở sinh thái học và địa lý
học thực vật. Tiêu biểu cho quan điểm phái "quần thể" này là Braun -
Blanque, Rubel, Clements, Xucasov, Lavrenco, Aliokhin (Thái Văn Trừng,
1978) [77]
Mặc dù đều có quan điểm thống nhất về sự tồn tại của thảm thực vật,
nhưng nguyên tắc và phương pháp phân chia phân chia thảm thực vật của
phái ”cá thể” lại rất khác nhau.
Burt - Davy (1938) và Fosberg (1958) đưa ra một khung phân loại thảm
thực vật nhiệt đới áp dụng cho toàn thế giới. Tuy nhiên, cách phân loại này rất
khó áp dụng cho mỗi khu vực hay mỗi quốc gia (Thái Văn Trừng, 1978) [77].
Một số tác giả căn cứ vào độ vĩ và độ cao, phân chia thảm thực vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5

thành các đai, mà cơ sở của sự phân thành các đai là nhiệt độ (Hansen, Bergơ)
(Voronov A.G., 1976) [82]. Cách phân chia này, ít được áp dụng, vì người ta
thấy rằng có nhiều sự khác biệt giữa khí hậu ở vùng núi cao (theo độ cao) và
khí hậu theo vĩ độ (chẳng hạn cường độ bức xạ, tỷ lệ các tia bức xạ, biến động
của độ dài ngày )
Có nhiều tác giả, mà tiêu biểu là Aubreville (1963) lại căn cứ vào tiêu
chí độ tàn che nền đất của tầng ưu thế sinh thái để phân loại kiểu thảm thực
vật. Với tiêu chí này, các tác giả đã phân ra được các thảm thực vật dày và
thưa. Tuy nhiên, cách phân chia này không làm rõ được mối quan hệ nhân
quả giữa các nhân tố sinh thái và thảm thực vật. Vì vậy, các thảm thực vật
không được sắp xếp theo một trật tự xác định theo các thứ bậc khác nhau
(Thái Văn Trừng, 1978) [77].
Ngược lại, Rubel (1938) cũng đưa ra một bảng phân loại thảm thực vật,
nhưng lại không chú ý đến tiêu chuẩn đặc biệt quan trọng là độ tàn che nền
đất của tầng ưu thế sinh thái. Ngoài ra, bảng phân loại này không dựa trên
một tiêu chuẩn thống nhất, vì vậy đã bỏ sót những kiểu rừng thưa, rất phổ
biến ở vùng nhiệt đới (Thái Văn Trừng,1978) [77].
Champion H.G.(1939) đưa ra một hệ thống phân loại thảm thực vật. Hệ
thống này đã dựa vào một nguyên lý cơ bản và quan trọng là nguyên lý sinh
thái. Tuy nhiên, hệ thống này lại không quan tâm đến mối quan hệ qua lại hữu
cơ vốn tồn tại khách quan giữa các nhân tố sinh thái với nhau. Do đó, những
kiểu thảm thực vật được hình thành do kết quả tác động của nhiều nhân tố
sinh thái một cách phức tạp lại không được đề cập đến.
Schimper (1903) phân loại thảm thực vật dựa trên tiêu chí dạng sống
của cá thể các loài thực vật chiếm ưu thế trong thảm thực vật và lượng nước
dùng được. Căn cứ vào tiêu chí này, ông đã phân loại 3 kiểu quần hệ là: quần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6

thụ (Woodland), quần thảo (Grassland) và hoang mạc (Desert). Trong mỗi
kiểu quần hệ này, lại được phân ra làm nhiều đơn vị nhỏ hơn, gọi là kiểu thảm
thực vật (Type de végetation) (Thái Văn Trừng, 1978) [77]. Rõ ràng, ưu điểm
lớn nhất của cách phân loại này là từ việc quan niệm quần hệ là những thảm
thực vật giống nhau về hình thái cấu trúc, mà có thể khác nhau về thành phần
loài thực vật. Mặc dù, cách chia này khá đơn giản và dễ áp dụng, nhưng lại
không thể hiện được tính phức tập của thực tế thiên nhiên. Ngoài ra, Schimper
đã không đúng khi xác định thứ bậc của các nhân tố tác động đến thảm thực
vật, mà chỉ chú ý đến một nhân tố là lượng mưa hàng năm để phân biệt các
kiểu khí hậu (Thái Văn Trừng) [77].
Tương tự như Schimper (1903), Stamp (1925) xây dựng một hệ thống
phân loại thảm thực vật dựa trên lượng mưa. Tuy vậy, bảng phân loại này có
hạn chế là không tổng hợp được các kiểu phụ nhân tác của thảm thực vật.
Hơn nữa, ông chỉ duy nhất chú ý đến yếu tố lượng mưa mà không đề cập đến
các yếu tố khác (Thái Văn Trừng, 1978) [77].
Beard (1944 - 1955) xây dựng bảng phân loại thảm thực vật gồm 3 cấp.
Có thể nói, hệ thống phân loại khá tốt, bởi vì một cấp căn cứ vào thành phần
loài cây (quần hợp), một cấp căn cứ vào trạng thái và cấu trúc (quần hệ), còn
một cấp lại dựa vào môi trường sinh trưởng (loạt quần hệ). Tuy nhiên, các yếu
tố sinh thái chi phối đến sự hình thành thảm thực vật không được xếp theo
một trật tự về mức độ ảnh hưởng. Ngoài ra, bảng phân loại này cũng không
chú ý nhiều đến các thảm thực vật thứ sinh (Thái Văn Trừng, 1978) [77].
Có thể kể thêm nhiều nhà nghiên cứu đã phân chia thảm thực vật nhiệt
đới ở Châu á, Đông Dương và Việt Nam như Chevalier (1918), Maurand
(1943), Dương Hàm Hy (1956), Vidal (1958), Schmid (1962) Tuy nhiên, ở
Việt Nam, các hệ thống phân loại thảm thực vật được biết đến và áp dụng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7

nhiều nhất phải kể đến hệ thống phân loại của Loschau (1962), Trần Ngũ
Phương (1970) và Thái Văn Trừng (1969 - 1978).
Cách phân chia thảm thực vật của Loschau (1962) rất dễ áp dụng. Ông
đưa ra 3 tiêu chí để phân chia thảm thực vật rừng là thành phần loài cây, đặc
tính sinh thái và hình thái cấu trúc của thảm thực vật (Thái Văn Trừng)[77].
Cơ sở của cách phân loại thảm thực vật dựa vào mức độ thoái hoá khác nhau,
mà không phân biệt nguồn gốc (rừng thứ sinh, rừng nguyên sinh) và các giai
đoạn diễn thế của thảm thực vật.
Trần Ngũ Phương (1970) [50] đưa ra bảng phân loại rừng Miền Bắc
Việt Nam. Ông chia rừng Miền Bắc Việt Nam thành 3 đai lớn (đai nhiệt đới
mưa mùa, đai á nhiệt đới mưa mùa và đai á nhiệt đới mưa mùa núi cao).
Trong mỗi đai, ông lại chia thành nhiều kiểu thảm khác nhau. Dưới kiểu
thảm, là các loại hình khí hậu, các kiểu phụ thổ nhưỡng và các kiểu phụ thứ
sinh. Theo đánh giá của Thái Văn Trừng (1978) [77], ưu điẻm của cách phân
chia này là các nhân tố tác động được chia thành các thứ bậc khác nhau. Tuy
nhiên, cách phân loại này cũng có nhiều hạn chế. Trước hết, do không căn cứ
vào quan diểm sinh thái phát sinh, nên hệ thống phân loại này không làm nổi
bật được quan hệ mật thiết giữa thảm thực vật và môi trường. Ngoài ra, trong
các dạng rừng khí hậu, chỉ lấy 1 - 2 loài cây ưu thế làm đại diện trên một đai
khí hậu là đã bỏ qua tính phức tạp của thảm thực vật rừng.
Thái Văn Trừng (1978) [77] dựa trên nguyên lý quyết định sự phân hoá
những phân loại trong thảm thực vật là nguyên lý sinh thái phát sinh học, để
xây dựng một hệ thống phân loại thảm thực vật nhiệt đới ở Việt Nam. Theo
ông, có 5 nhóm nhân tố phát sinh: 1) Địa lý - địa hình. 2) Khí hậu - thuỷ văn.
3) Đá mẹ - thổ nhưỡng. 4) Khu hệ thực vật. 5) Sinh vật và con người. Trong
hệ thống phân loại này, thì đơn vị phân loại cơ sở là kiểu thảm thực vật.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8

Tiêu chuẩn đặc trưng cho hình thái cấu trúc của những kiểu thảm thực
vật chính do khí hậu hoặc khí hậu thổ nhưỡng phát sinh. Mỗi kiểu thảm thực
vật có một tiêu chuẩn về hình thái cấu trúc tương ứng với một chế độ khí hậu
xác định, gọi là tiêu chuẩn sinh thái hình thái. Các dấu hiệu đó là:
- Dạng sống ưu thế của các tầng lập quần.
- Độ tàn che mặt đất của tầng ưu thế sinh thái.
- Hình thái của lá và sinh thái của lá với ngoại cảnh.
- Trạng mùa của tán lá.
Đơn vị liền dưới kiểu thảm thực vật là kiểu phụ. Mỗi kiểu phụ có thành
phần thực vật nhất định, được chi phối bởi nhóm nhân tố khu hệ thực vật, đá
mẹ thổ nhưỡng và nhóm sinh vật - con người. Trong cùng một kiểu phụ, lại
có những loại hình thảm thực vật, gọi là những xã hợp.
Theo Thái Văn Trừng [77], ở Việt Nam, không có thảo nguyên, thảo
nguyên là một kiểu thảm thực vật đặc hữu của vành đai ôn đới châu Âu, châu
Á. Tương tự, đồng cỏ, bãi cỏ cũng chỉ là thảm thực vật thân cỏ đặc hữu vùng
ôn đới, còn ở vùng nhiệt đới bãi cỏ hay đồng cỏ chỉ được hình thành trên
những vành đai ôn đới.
UNESCO (1973) đưa ra một khung phân loại chung cho việc phân loại
thảm thực vật trên Trái đất [86]. Trong đó, cấu trúc ngoại mạo là tiêu chuẩn
cơ bản của hệ thống phân loại này. Nhìn chung, hệ thống phân loại này khá dễ
sử dụng, nó gồm nhiều thứ bậc khác nhau. Các thứ bậc này được phân biệt
với nhau bằng chữ số Lamã và các chữ cái:
- Lớp quần hệ - Formation class (I,II, ).
- Lớp phụ quần hệ - Formation subclass (A, B ).
- Nhóm quần hệ - Fomation group (1,2 ).


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9

- Quần hệ - Formation (a,b ).
- Quần hệ phụ - Sub formation ( (1), (2) ).
- Các đơn vị nhỏ hơn - Funder subdivision ( (a), (b) ).
Thảm thực vật thoái hoá ở nước ta chiếm tỷ lệ đáng kể về diện tích. Vì
vậy, có một số tác giả lại tiến hành phân chia thảm thực vật thoái hoá ở nước
ta. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của Trần Xuân Thiệp, 1997 [68],
Dương Hữu Thời, 1974 [72], Nguyễn Đăng Khôi, 1973 [31] và Hoàng
Chung, 1980 [3]. Đặc biệt, trong những năm gần đây, số công trình nghiên
cứu về thảm thực vật thoái hoá ở nước ta càng một nhiều: Lê Ngọc Công,
Hoàng Chung (1995)[5], Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995) [24] và
Nguyễn Thế Hưng (2003) [25].
Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng tác viên (2007)[69], khi nghiên cứu các
kiểu thảm thực vật ở khu bảo tồn thiên nhiên Khau ca, tỉnh Hà Giang, đã đưa
ra hệ thống phân loại các kiểu thảm thực vật như sau:
a) Rừng thường xanh nguyên sinh (ít bị tác động) đai núi thấp trên đất
đá vôi
- Rừng thường xanh nguyên sinh đai núi thấp trên đỉnh núi đá vôi
- Rừng thường xanh nguyên sinh hỗn giao cây lá kim, cây lá rộng đai
núi thấp ở sườn và vùng phụ cận đỉnh núi đá vôi
- Rừng thường xanh nguyên sinh cây lá rộng đai núi thấp ở thung lũng
và chân núi đá vôi
b) Rừng thường xanh thứ sinh trên đất đá vôi và đất địa đới
- Rừng thường xanh thứ sinh cây lá rộng đai thấp trên đất địa đới
- Rừng thường xanh thứ sinh cây lá rộng đai núi thấp trên đất đá vôi.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10

Áp dụng khung phân loại của UNESCO (1973)[59], Vũ Anh Tài, Nguyễn
Quốc Trị, Nguyễn Nghĩa Thìn (2008) đã phân loại thảm thực vật tự nhiên ở
vườn quốc gia Hoàng Liên (Việt Nam) thành 13 quần hệ và 13 phân quần hệ
của 4 lớp (lớp quần hệ rừng kín, lớp quần hệ rừng thưa, lớp quần hệ trảng cây
bụi và lớp quần hệ trảng cỏ.
Trần Văn Con (2007) [4] đã đưa ra những cơ sở khoa học để xây dựng
tiêu chí rừng tự nhiên nghèo kiệt được phép cải tạo. Trên cơ sở phân tích
những khái niệm liên quan: Suy thoái rừng (Forest degradation), Rừng thứ
sinh nghèo (degraded secondary forests), Trồng rừng (Afforestation) và
Trồng lại rừng (Reforestation) Ông đã đưa ra quan điểm của mình về các
điều kiện cho sự hình thành một khu rừng (dạng sống thống trị, số lượng và
diện tích đủ rộng, mật độ cây gỗ và độ tàn che tương đối).
Khi phân tích tính đa dạng lớp phủ thảm thực vật ở vườn quốc gia
Hoàng Liên, Nguyễn Nghĩa Thìn (2004)[70] đã phân chia thành đai hệ thực
vật á nhiệt đới trên núi và đai hệ thực vật ôn đới trên núi. Đai hệ thực vật á
nhiệt đới trên núi bao gồm: rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh, trảng cây bụi á
nhiệt đới trên núi, trảng cỏ và thảm thực vật cây trồng. Đai hệ thực vật ôn đới
trên núi bao gồm: thảm thực vật nguyên sinh và thảm thực vật thứ sinh (rừng
hỗn giao cây lá rộng và trúc, trảng cây bụi ưa lạnh).
Phan Minh Sáng (2006)[54] đã đưa ra một số khái niệm cơ bản liên
quan tới tính toán hấp thu cacbon trong các dự án theo cơ chế phát triển sạch
(CDM) trong lâm nghiệp. Đặc biệt, các khái niệm: Rừng, Tái trồng rừng
(Reforestation), Trồng rừng mới (Afforestaion) của Việt Nam, của UNFCCC -
United nations of Framework Convention on Climate Change (2005) và của
FAO (2005). Ông đã phân tích khá rõ mối liên quan giữa một số khái niệm cơ
bản về rừng tới tính toán hấp thu cacbon trong các dự án theo cơ chế phát


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11

triển sạch CDM. Ông cho rằng, các định nghĩa theo FAO (2005) nhằm mục
đích hướng dẫn cho công tác quản lý rừng. Vì vậy, các thuật ngữ có liên quan
đều được xây dựng cho phù hợp với tiêu chí này, đặc biệt là cho các triển khai
trên hiện trường. Còn các khái niệm của UNFCCC (2005) đưa ra nhằm phù
hợp với các mục đích đo đếm và các vấn đề khác có liên quan dến hấp thu
cacbon trong lâm nghiệp.
1.2. Nghiên cứu thành phần loài và dạng sống (life form) thực vật
Ở nước ta, có những công trình nghiên cứu hệ thực vật Việt Nam khá
đồ sộ. Tiêu biểu là các công trình của Phan Kế Lộc (1977) [84], Phạm Hoàng
Hộ (1991 - 1993) [17], Lê Khả Kế (1969 - 1976) [26]…
Bên cạnh những công trình trên, nhiều tác giả nghiên cứu hệ thực vật
trong một địa phương hoặc trong các kiểu thảm thực vật nhất định: Phùng
Tửu Bôi, Nguyễn Bá Quyền (1982) [1], Lê Trọng Cúc, Phạm Hồng Ban
(1996) [6], Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2000) [69], [70]
Trong những năm gần đây, diện tích thảm thực vật thoái hoá ở các địa
phương có xu hướng tăng nhanh. Vì vậy, càng có nhiều công trình nghiên cứu
hệ thực vật trong những thảm thực vật thoái hoá, có nguồn gốc thứ sinh nhân
tác. Nguyễn Đình Ngỗi, Võ Văn Chi (1964) [42] nghiên cứu thảm thực vật
savan (thuộc kiểu savan cây to, savan bụi và savan cỏ) trên vùng đồi núi
huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn), đã xác định được thành phần loài thực vật trong
các quần hệ và các quần hợp. Nguyễn Đăng Khôi (1973) [31], khi nghiên cứu
hệ thực vật đồng cỏ Ba Vì, đã xác định được trong mỗi giai đoạn biến đổi của
thảm thực vật, thì có thành phần loài tương ứng.
Dương Hữu Thời (1974) [72] điều tra thành phần loài trong một số kiểu
đồng cỏ tự nhiên ở Miền Bắc Việt Nam. Hoàng Chung (1980) [3] nghiên cứu

thành phần loài thực vật trong các đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam, Lê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12

Ngọc Công, Hoàng Chung (1995) [5] nghiên cứu thành phần loài trong savan
cây bụi ở Bắc Thái, còn Nguyễn Thế Hưng và Hoàng Chung (1995) [24] lại
nghiên cứu thành phần loài trong savan cây bụi ở Quảng Ninh.
Phùng Văn Phê, Trần Minh Hợi, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thị
Hân (2008)[47], khi nghiên cứu tính đa dạng thực vật góp phần bảo tồn chúng
ở rừng đặc dụng Yên Tử, tỉnh Quảng Ninh, đã kết luận rằng, thực vật ở rừng
đặc dụng Yên Tử có 711 loài, thuộc 427 chi và 154 họ, thuộc 4 ngành. Thực
vật ở rừng đặc dụng Yên Tử có 547 loài cây có ích, có thể sử dụng vào 13
nhóm công dụng khác nhau. Có 20 loài thực vật bị đe doạ tiêu diệt, được cấp
báo trong sách đỏ VN (1996), 6 loài được ghi trong nghị định 32/2006/NĐ –
CP của Chính phủ, cần được ưu tiên bảo tồn.
Có thể nói, ngoài công trình khá đầy đủ của Nguyễn Thế Hưng, Hoàng
Chung [25], Nguyễn Thế Hưng [25] nghiên cứu về thành phần loài trong
thảm thực vật cây bụi, thì ở Quảng Ninh có rất ít công trình nghiên cứu về
thành phần loài thực vật trong các kiểu thảm thoái hoá.
Dạng sống (Life form) của thực vật là sản phẩm của quá trình hình
thành đặc điểm thích nghi kiểu gen của thực vật với điều kiện sống rất phong
phú. Các nhà khoa học trên thế giới có rất nhiều phương pháp khác nhau
trong việc phân chia dạng sống thực vật. Bằng chứng là, có nhiều tiêu chí
phân chia dạng sống và số kiểu dạng sống trong mỗi bảng phân loại cũng rất
phong phú.
Raunkiaer (1934)[73] phân chia dạng sống dựa trên tính thích nghi của
thực vật qua thời gian bất lợi trong năm. Đó là vị trí tương đối của chồi so với
bề mặt đất trong suốt thời gian bất lợi trong năm. Ông chia ra 5 nhóm dạng

sống cơ bản. Ông cũng đã xây dựng phổ chuẩn của các dạng sống ở các vùng
khác nhau trên trái đất (SN = 46Ph + 9Ch + 26H + 6 Cr + 13Th)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13

Căn cứ vào khối lượng thực vật đã mất đi trong thời kỳ bất lợi,
Patsoxki I.K. (1915) chia làm sáu nhóm dạng sống: 1. Thực vật thờng xanh;
2. Thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; 3. Thực vật tàn lụi vào thời
kỳ bất lợi ở phần trên cành, thay thế cho hiện tượng rụng lá; 4. Thực vật tàn
lụi vào thời kỳ bất lợi tất cả những phần mọc bên trên mặt đất; 5. Thực vật
tàn lụi vào thời kỳ bất lợi cả phần trên mặt đất và một phần dưới mặt đất; 6.
Thực vật tàn lụi toàn bộ trong thời kỳ bất lợi, trừ hạt (Cây hàng năm)
(Voronov A.G.,1976) [82].
Braun-Blanquet đưa ra bảng phân loại dạng sống thực vật (Formes
Biologiques), với 7 nhóm: 1. Cây nhất niên (Thérophytes); 2. Thuỷ thực vật
(Hydrophytes); 3. Địa thực vật (Géophytes); 4.Bán ẩn thực vật
(Hémicrytophytes); 5.Ngọa thực vật (Chamephytes); 6.Hiển thực vật
(Phanérophytes); 7.Thực vật phụ sinh và ký sinh (Phạm Hoàng Hộ, 1972) [16].
Đối với thực vật thân thảo, thì các hệ thống phân chia dạng sống của các
nhà khoa học trên thế giới rất phong phú, đa dạng. Đặc biệt, các nhà khoa học ở
Liên Xô trước đây có những công trình khá đồ sộ: Xêrêbơriacôp I.G. (1954,
1955, 1962, 1964), Gôlubep V. N. (1962) (Voronov A.G. ,1976)[ 82].
Ở nước ta, các công trình khoa học nghiên cứu về dạng sống có số lượng
không nhiều. Tuy vậy, phương thức phân chia dạng sống lại rất khác nhau:
Phan Nguyên Hồng (1991) [18], Nguyễn Đức Ngắn (1997) [39], Hoàng Chung
(1980) [3], Nguyễn Bá Thụ (1995) [73], Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1995)
[5], Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung [24] và Nguyễn Thế Hưng [25]
1.3. Nghiên cứu cấu trúc của thảm thực vật

Nếu không kể đến những công trình mang tính kinh điển của các tác giả
trên thế giới về cấu trúc, năng xuất của các hệ sinh thái cũng như ở các kiểu
thảm thực vật (Lieth, Williams, Larcher, Cermuca, Schmidt, Whittaker,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14

Odum ), đặc biệt là các công trình mang tính định hướng phương pháp
nghiên cứu của Braun – Blanquet (1922), Drude (1913), Iarochenko (1961),
Simpson (1949), Dương Hữu Thời (1998), thì những công trình nghiên cứu của
các tác giả khác cũng rất phong phú (Nguyễn Thế Hưng, 2003) [25]. Bên cạnh
đó, còn có nhiều công trình nghiên cứu đặc trưng cấu trúc của các kiểu thảm
thực vật và sự ảnh hưởng của các điều kiện địa lý khác nhau đến sự phân bố của
chúng: Richards (1952), Vidal (1960), Catinot (1965) (Bảo Huy, Nguyễn Ngọc
Lung, Phùng Ngọc Lan, 1995) [21].
Trong các công trình nghiên cứu về cấu trúc thảm thực vật, thì phần lớn
các công trình trong nước nghiên cứu về cấu trúc của các thảm thực vật rừng:
Trần Ngũ Phương (1970)[50], Thái Văn Trừng (1978) [77], Nguyễn Ngọc
Lung (1987) [33], Bảo Huy, Phùng Ngọc Lan, Nguyễn Ngọc Lung [21],
Nguyễn Hải Tuất và Ngô Kim Khôi (1994) [80], Nguyễn Ngọc Lung, Phùng
Ngọc Lan và Bảo Huy (1995) [21].
Nguyễn Tiến Dũng, Trần Văn Con (2007)[8] đã nghiên cứu một số đặc
điểm cấu trúc rừng làm cơ sở đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm
quản lý rừng bền vững. Các ông cho rằng, ở Kon Hà Nừng - Tây Nguyên, số
loài xuất hiện trong các ô tiêu chuẩn: 100 loài. Trung bình số loài xuất hiện
trong một ô: 21 - 35 loài. Tổ thành các xã hợp thực vật thuộc trạng thái IV
bao gồm 3 ưu hợp, phân bố theo đường kính là phân bố giảm, phân bố N/D là
phân bố giảm, với trạng thái IV và IIIB phân bố thường có một đỉnh tại cỡ
đường kính thứ hai. Riêng trạng thái IIIA, phân bố cây theo đường kính là

dạng đường cong, xuất hiện nhiều đỉnh tập trung rải rác từ cỡ kính 26 – 50
cm, các lâm phần thuộc trạng thái IV phân tầng rõ rệt, chia 5 tầng.
Khi nghiên cứu đặc điểm lâm học của các trạng thái rừng khu dự trữ
thiên nhiên Vĩnh Cửu huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, Đỗ văn Thông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15

(2004)[71] đã đưa ra kết luận: Phân bố % số cây theo cỡ kính tuân theo luật
phân bố giảm, dạng đường cong có đỉnh lệch trái, riêng trạng thái IIIA
2
,
đường cong có dạng lệch phải. Trạng thái IIIA
2
phân bố chiều cao có dạng
một đỉnh hơi lệch phải, số cây tập trung nhiều nhất ở cấp chiều cao 16 – 20m,
chiều cao cây trong lâm phần tăng nhanh ở cỡ kính D
1.3
< 20cm, phát triển
chậm dần ở các cỡ kính lớn hơn.
Một số tác giả xây dựng các phương pháp nghiên cứu hoặc các công cụ
hỗ trợ (các phần mềm tin học), làm giảm công sức của nhà nghiên cứu và đảm
bảo độ chính xác cao trong quá trình thu thập số liệu.
Lê Quốc Huy (2005)[23] đưa ra phương pháp nghiên cứu phân tích
định lượng các chỉ số đa dạng sinh học thực vật.
Theo Nguyễn Văn Sinh (2004)[57], rừng tự nhiên với cấu trúc nhiều
tầng, phân bố cây và loài không đồng đều trên diện tích, đa dạng về lứa tuổi,
là loại hình rừng có giá trị sinh thái cao, nhưng lại đặt ra những thách thức lớn
cho người quản lý kinh doanh. Mỗi tác động nhỏ lên quần hợp cây gỗ rừng có

thể gây nên những xáo trộn cấu trúc có hậu quả lâu dài. Phân tích cấu trúc
quần hợp cây gỗ rừng tự nhiên và mô phỏng các quá trình biến động cấu trúc
của nó là một công việc quan trọng tạo cơ sở đưa ra những quyết định đúng
đắn trong công tác quản lý rừng tự nhiên. Ông đã phân tích và mô phỏng biến
động cấu trúc quần hợp cây gỗ rừng với chương trình “F - Structure A & S”.
Thực chất, “F – Structure A & S” là một phần mềm có thể xử lý dữ liệu ô tiêu
chuẩn phục vụ việc phân tích cấu trúc quần hợp cây gỗ rừng tự nhiên và mô
phỏng các quá trình biến động của nó. Chương trình “F – Structure A & S”
được viết bằng ngôn ngữ lập trình Delphi. Người sử dụng nhập dữ liệu vào
cho chương trình và chương trình thông báo kết quả tính toán qua các cửa sổ
con dạng bảng. Nội dung bảng có thể được lưu dưới dạng tệp hoặc sao chép

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16

chuyển sang các chương trình xử lý văn bản khác. Những khác biệt giữa các
thông số cấu trúc mới tính với các thông số cấu trúc ban đầu sẽ cho ta thấy tác
động của các yếu tố tự nhiên hoặc nhân tác lên cấu trúc rừng.
Quần hợp cây gỗ rừng có thể coi là bộ khung của hệ sinh thái rừng. Tuỳ
theo sự biến động của cây gỗ rừng dưới tác động của các điều kiện sinh thái,
ngoại cảnh mà các cấu trúc phần khác của hệ sinh thái rừng bị tác động và biến
đổi.
Nguyễn Văn Sinh (2008)[58] cho rằng, để đánh giá biến động của quần
hợp cây gỗ rừng bằng một chỉ số, ta phải nắm bắt được các quy luật thay đổi
cấu trúc của nó. Có một quy luật quan trọng có thể sử dụng để xây dựng nên
chỉ số sinh thái: Sự phân bố các cá thể theo quần thể trong quần hợp cây gỗ
rừng rất nhạy cảm; Trong các quần hợp cây gỗ rừng của hệ sinh thái rừng
nguyên sinh nhiệt đới thì dạng phân bố này có dạng phân bố chuẩn với cơ sở
là logarit cơ số 2; Mọi tác động của điều kiện sinh thái ngoại cảnh đều làm sự

phân bố đó lệch khỏi phân bố chuẩn và các tác động càng lớn thì độ lệch càng
lớn; Với thời gian, cùng với việc hệ sinh thái rừng nguyên sinh bị tác động
dần khôi phục lại trạng thái ban đầu (trường hợp hệ sinh thái còn có khả năng
phục hồi), sự phân bố các cá thể cây gỗ rừng cũng dần trở lại dạng như trong
hệ sinh thái rừng nguyên sinh. Với những lý do trên, ông còn đề xuất chỉ số
sinh thái ứng dụng trong nghiên cứu sinh thái quần hợp vây gỗ rừng của hệ
sinh thái rừng nhiệt đới.
Một trong những vấn đề cấp thiết của sinh thái rừng nhiệt đới là việc
nghiên cứu diễn thế thứ sinh, tức là tìm hiểu nguyên nhân, thời gian và kết
quả cuối cùng của sự biến đổi thảm thực vật sau khi rừng nguyên sinh bị suy
thoái.
Bùi Chính Nghĩa, Trần Văn Con (2008) [41] đã đưa ra phương pháp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17

nghiên cứu cấu trúc và động thái của rừng thứ sinh giai đoạn phục hồi. Theo
các tác giả, các phân tích lâm học chi tiết không thể tiến hành dựa vào việc
điều tra toàn bộ trên diện tích lớn, mà chỉ có thể thực hiện được bằng cách rút
mẫu đại diện. Các chỉ tiêu lâm học: mật độ, thể tích, tiết diện ngang có thể
quy từ ô mẫu về đơn vị diện tích (ha), nhưng số loài trên một ha thì không thể
quy từ diện tích ô mẫu ra được. Do đó, để phân tích tổ thành loài trên đơn vị
diện tích (ha), phải xác định được diện tích tối thiểu của ô mẫu, sao cho nó đại
diện được tổng thể nghiên cứu. Đặc biệt, các ông đã thiết lập hệ thống ô điều
tra lâm học thành 3 cấp để đo đếm các thế hệ cây khác nhau:
Cấp A: Một ô vuông có diện tích 900 m
2
. Ghi lại các thông số về các
cây có D

1.3
≥ 8 cm. Điều tra về: Tên loài, H
VN
, D
1.3
, tầng thứ (theo phân cấp
của IUFRO).
Cấp B: Lập một băng 150 m
2
(5 x 30 m). Điều tra cây gỗ tái sinh có
D
1.3
< 8cm và H> 1,3m: Tên loài, H
VN
, D
1.3
, tầng thứ.
Cấp C: 14 ô dạng bản (2x 2m) để đo đếm tất cả các cây tái sinh có H <
1,3m.
Ngoài ra, các ông đã xác định diện tích ô tiêu chuẩn thích hợp đối với
rừng thứ sinh phục hồi ở khu vực nghiên cứu (900m
2
), đã phân tích các thông
sô cấu trúc của rừng phục hồi sau khai thác kiệt. Trong đó, phân biệt các pha
diễn thế bằng tỷ lệ hỗn loài của nhóm loài có độ nhiều tương đối lớn hơn 5%
Các ông nhận định rằng, đối với rừng thứ sinh phục hồi sau khai thác
kiệt ở vùng tây Bắc Việt Nam, diện tích cần thiết tối thiểu của ô tiêu chuẩn để
điều tra nghiên cứu cấu trúc và động thái tổ thành loài từ 900 - 1250 m
2
,

Bùi Chính Nghĩa, Trần Văn Con (2008) [41] sử dụng chỉ tiêu Tỷ lệ hỗn
loài làm chỉ tiêu phản ánh tính đa dạng của quần thụ thực vật rừng. Tỷ lệ hỗn
loài được tính theo công thức:

×