Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Đối chiếu từ ngữ chỉ tay và các động từ biểu thị hoạt động của tay giữa tiếng hán và tiếng việt tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HẢI QUỲNH ANH

ĐỐI CHIẾU TỪ NGỮ CHỈ TAY
VÀ CÁC ĐỘNG TỪ BIỂU THỊ HOẠT ĐỘNG CỦA TAY
GIỮA TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT

Ngành: N
Mã số:

nn

ọc so sán , đối c iếu

9.22.20.24

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGƠN NGỮ HỌC

Hà Nội - 2023


Cơng trình được hồn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
N ƣời ƣớn dẫn k oa ọc: GS. TS. N uyễn Văn K an
Phản biện 1: GS.TS. Đỗ Việt Hùng
Phản biện 2: PGS.TS. Phạm Ngọc Hàm
Phản biện 3: PGS.TS. Lê Thị Lan Anh


Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại Học viện
Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi,
Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 202...

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa c ọn đề tài
Việc nghiên cứu nghĩa từ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngơn
ngữ học. Từ các góc độ nghiên cứu khác nhau, các nhà ngôn ngữ học sẽ đưa ra cơ
sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu ý nghĩa của từ khác nhau. Trong đó, lý
thuyết về trường nghĩa (semantic field theory) là một trong những lý thuyết quan
trọng trong ngữ nghĩa học truyền thống.
Nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người (BPCTN) và hoạt động của các bộ phận này là một
mảng từ vựng rất quan trọng trong bất kỳ ngơn ngữ nào. Trong đó, tay là một trong những
bộ phận mà con người tìm hiểu và nhận biết sớm nhất và từ ngữ chỉ tay là nhóm từ vựng
quan trọng của từ chỉ BPCTN.
Theo những nguồn tư liệu mà chúng tơi tiếp cận được thì hiện việc nghiên cứu
các từ chỉ tay và các động từ biểu thị hoạt động của tay trong tiếng Hán và tiếng
Việt chủ yếu là các nghiên cứu đơn lẻ và đối chiếu theo từng mảng cụ thể. Nói cách
khác, cho đến nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện
theo hướng đối chiếu ngữ nghĩa của nhóm từ này giữa tiếng Hán và tiếng Việt.
Vì những lý do nêu trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Đối chiếu từ ngữ chỉ tay
và các động từ biểu thị hoạt động của tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt”.
2. Mục đíc n iên cứu và n iệm vụ n iên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu

Vận dụng lý thuyết ngữ nghĩa học truyền thống, luận án khảo sát, miêu tả đặc
điểm nghĩa và khả năng kết hợp của các từ chỉ tay, các bộ phận của tay và các từ
chỉ hoạt động của tay trong tiếng Hán và trong tiếng Việt; từ đó đối chiếu để chỉ ra
sự tương đồng và khác biệt của chúng giữa hai ngôn ngữ. Kết quả nghiên cứu góp
phần vào nghiên cứu nghĩa của từ, đối chiếu song ngữ Hán-Việt dưới tác động của của
các nhân tố ngơn ngữ- văn hóa- xã hội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ là: 1/ Tổng quan tình hình nghiên
cứu trong và ngoài nước về các nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu; từ đó,
xây dựng cơ sở lý thuyết nền tảng cho đề tài luận án; 2/ Miêu tả và đối chiếu từ ngữ
chỉ tay trong tiếng Hán và tiếng Việt; 3/ Miêu tả và đối chiếu các động từ biểu thị
hoạt động của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt; 4/ Phân tích chỉ ra các nhân tố
ngơn ngữ-văn hóa-xã hội chi phối sự tương đồng và khác biệt của các từ chỉ tay và
hoạt động của tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt.
3. Đối tƣợn n iên cứu và p ạm vi n iên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các từ chỉ tay, các bộ phận của tay và các
động từ biểu thị hoạt động của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án chọn cách tiếp cận các từ chỉ tay, các bộ phận của tay và hoạt động của tay
chủ yếu theo cách phân chia của ngôn ngữ, cụ thể là: các từ ngữ chỉ tay, bộ phận của tay
và hoạt động của tay hiện có, đang được sử dụng trong tiếng Hán và trong tiếng Việt.
Riêng đối với các từ ngữ chỉ các bộ phận của tay, luận án có tham khảo cách phân chia bộ

1


phận tay của y học để đối chứng, từ đó, xác lập danh sách thống kê các từ ngữ chỉ bộ phận
của tay ở hai ngôn ngữ.
4. P ƣơn p áp n iên cứu và n liệu n iên cứu

4.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp miêu tả,
phương pháp của ngôn ngữ học đối chiếu và cách tiếp cận liên ngành.
4.2. Ngữ liệu nghiên cứu
Ngữ liệu gồm 60 từ chỉ các bộ phận của tay trong tiếng Hán, 26 từ chỉ các bộ
phận của tay trong tiếng Việt, 185 động từ chỉ hoạt động của tay trong tiếng Hán và
172 động từ chỉ hoạt động của tay trong tiếng Việt, được thu thập chủ yếu trong các
cuốn từ điển 现代汉语词典(第七版)(Từ điển tiếng Hán hiện đại (tái bản lần thứ 7)
), 汉语大词典(第 6 卷) (Đại từ điển tiếng Hán) (quyển số 6), Từ điển tiếng Việt
(2015), Hoàng Phê (chủ biên) và kho ngữ liệu tiếng Hán của Đại học Ngôn ngữ
Bắc Kinh ( Kho ngữ liệu tiếng Hán Cổ đại của Ủy ban
Ngôn ngữ Quốc gia (), Kho ngữ liệu tiếng Việt
của Vietlex (Vietlex Corpus), ( />5. Đón óp của luận án
5.1. Đóng góp về lý luận
Luận án đã hệ thống có chọn lọc các khái niệm cơ bản về từ và nghĩa của từ, các
quan điểm y học về việc phân chia các bộ phận cơ thể, từ đó làm rõ các lý luận về từ
và ngữ nói chung, về các từ chỉ tay và động từ biểu thị hoạt động của tay nói riêng.
5.2. Đóng góp về thực tiễn
Luận án đã thành lập được sơ đồ tầng bậc của các từ chỉ bộ phận của tay, đối
chiếu cách phân loại và đặc điểm ngữ nghĩa của các từ chỉ tay và các bộ phận của tay,
đối chiếu các động từ chỉ hoạt động của tay giữa hai ngôn ngữ, từ đó chỉ ra được
những điểm giống nhau và khác nhau trong quá trình chuyển nghĩa của chúng, nêu
bật được mối quan hệ giữa ngơn ngữ, văn hố và tư duy của người dân hai nước
Trung Quốc và Việt Nam. Hy vọng kết quả của luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích cho các nhà nghiên cứu, dịch thuật, những người giảng dạy và học tập về ngôn
ngữ tiếng Hán và tiếng Việt.
6. Ý n ĩa của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần vào nghiên cứu trường nghĩa; Góp phần vào nghiên cứu ngơn ngữ
học đối chiếu cụ thể là đối chiếu Hán - Việt và chỉ ra được các nhân tố ngơn ngữ và

ngồi ngơn ngữ chi phối sự giống nhau và khác nhau giữa chúng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Góp phần vào giảng dạy tiếng Hán và tiếng Việt như một ngoại ngữ; Góp phần làm
sáng tỏ các đặc điểm của tay và các từ chỉ tay cũng như các hoạt động của tay trong
tiếng Hán và tiếng Việt; Vận dụng các kết quả nghiên cứu của luận án để biên soạn từ
điển, biên soạn sách học ngoại ngữ Hán – Việt, Việt – Hán cũng như trở thành tài liệu
tham khảo hỗ trợ cho công tác dịch thuật.

2


7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
được chia thành ba chương. Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý
luận; Chương 2: Đối chiếu từ ngữ chỉ tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt; Chương 3:
Đối chiếu các động từ biểu thị hoạt động của tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổn quan tìn ìn n iên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.1. Từ bình diện ngữ nghĩa học truyền thống
Có nhiều nghiên cứu trên thế giới về các từ chỉ bộ phận cơ thể người (BPCTN), chủ
yếu tập trung theo hai hướng sau:
Thứ nhất là nghiên cứu trong phạm vi cùng một ngôn ngữ, về vấn đề này phải
kể đến nghiên cứu của Matisoff (1978), Rubal (1994), 朱莹莹 (Chu nh nh )
(2007), 黄碧蓉 (Hồng Bích Dung) (2009), 刘倩忠 (Lưu Thiến Trung) (2011), 孙
冬梅 (Tôn Đông Mai) (2008), … .
Thứ hai là nghiên cứu trên phạm vi đối chiếu giữa các ngơn ngữ, về vấn đề này
có nghiên cứu của các tác giả Sakuragi Toshiyuki và Judith W. Fuller(2003),
Nabil Dhafer (2020), Ratchadapun Wongleang (2015), 陈德琳 (Trần Đức Lâm)

(2009), 杜玉凤 (Đỗ Ngọc Phượng) (2017), 刘亚枫、程 昕 (Lưu Á Phong, Trình
Hân) (2020)…
1.1.1.2. Từ bình diện Ngơn ngữ học tri nhận
Theo những nguồn tư liệu mà chúng tôi tiếp cận được thì hiện việc nghiên cứu
các từ chỉ BPCTN chủ yếu xuất phát từ góc độ ngơn ngữ học tri nhận, tập trung
theo hai hướng sau:
Thứ nhất là nghiên cứu trong phạm vi cùng một ngơn ngữ có: cơng trình nghiên
cứu của tác giả Larissa Manerko (2014), 吕艳辉 (Lã Diễm Huy) (2008), 赵学德
(Triệu Học Đức)(2010), 孙崇飞 (Tôn Sùng Phi) (2012), 马春媛 (Mã Xuân
Viện)(2010) … .
Thứ hai là nghiên cứu trên phạm vi đối chiếu giữa các ngôn ngữ, về vấn đề này
có nghiên cứu của các tác giả: 阮氏黎心 (Nguyễn Thị Lê Tâm ) (2011), 阮氏乔泠
(Nguyễn Thị Kiều Linh ) (2020)…
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.1.2.1. Từ bình diện ngữ nghĩa học truyền thống
Ở Việt Nam, những cơng trình nghiên cứu về từ chỉ BPCTN từ góc độ ngữ
nghĩa học truyền thống có nghiên cứu của các tác giả: Cầm Tú Tài (2008), Đỗ Thị
Thanh Huyền (2020), Chăn Phômmavông (1999), Mã Thị Hiển (2009), Đào Duy
Tùng (2017), Nguyễn Thị Vui (2002), Trần Thị Minh (2009)… .
1.1.2.2. Từ bình diện Ngôn ngữ học tri nhận
Cho đến nay, ở Việt Nam đã có khá nhiều các cơng trình nghiên cứu các từ chỉ
BPCTN theo hướng ngôn ngữ học tri nhận, cụ thể có các cơng trình của các tác giả

3


như: Trịnh Thị Thanh Huệ (2012), Hà Thị Mai Thanh (2017), Lê Thị Diên Anh
(2015), Nguyễn Văn Hải (2016) … .
1.2. Cơ sở lý luận về đề tài n iên cứu
1.2.1. Quan niệm về từ và phân loại từ

Ngay từ thế kỷ 19, có rất nhiều nhà ngơn ngữ học của phương Tây đã đưa ra
định nghĩa về từ. Theo nghiên cứu của chúng tôi, khi đưa ra định nghĩa về từ các
nhà nghiên cứu chủ yếu xuất phát từ một số lĩnh vực cụ thể như sau: từ góc độ ngữ
pháp học, từ góc độ âm vị học, từ góc độ chức năng.
Khi nói đến khái niệm từ, các nhà nghiên cứu thường nhắc đến một số đặc điểm
quan trọng như sau: 1/ Từ là những đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có khả năng hoạt
động độc lập; 2/ Từ là những đơn vị có tính hồn chỉnh về ngữ âm, chính tả và ngữ
nghĩa; 3/ Từ sẽ thực hiện chức năng làm đơn vị nhỏ nhất để tạo câu khi ngôn ngữ
hoạt động. Từ những quan điểm về từ của các học giả đi trước, luận án đưa ra định
nghĩa về từ như sau: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngơn ngữ, có khả năng
hoạt động độc lập, có tính hồn chỉnh về mặt ngữ âm và thực hiện chức năng làm
đơn vị nhỏ nhất để tạo câu khi ngôn ngữ hoạt động”.
Phân loại từ
a) Từ đơn: là những từ được tạo thành bởi một hình vị, như: nhà, ăn, làm… .
b) Từ ghép: là những từ được sản sinh do sự kết hợp hai hoặc một số hình vị
(hay đơn vị cấu tạo) tách biệt, riêng rẽ, độc lập đối với nhau.
c) Từ láy: là những từ được tạo ra theo phương thức láy hình vị, tức tác động
vào một hình vị gốc về mặt âm thanh để tạo ra hình vị (một số hình vị) láy và kết
hợp chúng lại với nhau để tạo thành từ.
1.2.2. Nghĩa và sự phát triển nghĩa của từ
Cho đến nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam đưa ra các
cách lý giải khác nhau về khái niệm nghĩa của từ, chủ yếu xuất phát từ các hướng
sau: Quan niệm thứ nhất cho rằng nghĩa của từ chính là tên gọi của sự vật. Quan
niệm thứ hai cho rằng nghĩa của từ là đồng nhất nghĩa với khái niệm và“một từ là
một khái niệm”. Quan niệm thứ ba cho rằng nghĩa của từ được tạo thành bởi mối
quan hệ giữa từ và đối tượng. Quan niệm thứ tư cho rằng nghĩa của từ là quan hệ
giữa từ và khái niệm. Từ quan niệm về nghĩa của từ mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra,
luận án xin khái quát về nghĩa của từ như sau: Nghĩa của từ có thể là mối quan hệ của
từ với đối tượng mà từ biểu thị, cũng có thể là quan hệ của từ với khái niệm, biểu
tượng,… Nghĩa của từ được hình thành nhờ sự kết hợp và tác động của nhiều nhân tố.

Các thành phần ý nghĩa của từ: Theo Đỗ Hữu Châu (1999), tùy theo các chức
năng mà từ chuyên đảm nhiệm, trong ý nghĩa của từ có những thành phần ý nghĩa
sau: 1/ Ý nghĩa biểu vật, 2/ Ý nghĩa biểu niệm, 3/ Ý nghĩa biểu thái.
Từ đa nghĩa: Sự phát triển nghĩa của từ là một hiện tượng phổ biến trong bất kỳ
ngôn ngữ nào, kết quả cuối cùng của sự phát triển nghĩa của từ là sản sinh ra một số
lượng lớn từ đa nghĩa.
Theo Đỗ Hữu Châu (1999), trong từ vựng, phổ biến là từ đa nghĩa, trong đó,
các từ đơn thường nhiều nghĩa hơn từ phức.

4


Các loại nghĩa trong từ đa nghĩa: Các tác giả trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học
và tiếng Việt” cho rằng có nhiều cách phân loại nghĩa của từ, trong đó hay gặp nhất
là những cách phân loại quan trọng sau đây: 1/ Nghĩa gốc và nghĩa phái sinh, 2/
Nghĩa tự do và nghĩa hạn chế, 3/ Nghĩa trực tiếp và nghĩa chuyển tiếp, 4/ Nghĩa
thường trực – không thường trực
1.2.3. Phương thức chuyển nghĩa của từ
Theo nhiều nhà nghiên cứu, ẩn dụ và hoán dụ là hai phương thức chuyển nghĩa
được dùng phổ biến trong mọi ngôn ngữ.
Theo Đỗ Hữu Châu (1999), ẩn dụ là phương thức lấy tên gọi A của x để gọi tên
y (để biểu thị y), nếu như x và y giống nhau; Hoán dụ là phương thức lấy tên gọi A
của x để gọi y nếu x và y đi đôi với nhau trong thực tế.
1.2.4. Quan hệ ngữ nghĩa
Theo Đỗ Hữu Châu (1998), những quan hệ về nghĩa của từ trong hệ thống, bao
gồm: quan hệ bao gồm – nằm trong (inclusion) còn gọi là quan hệ cấp loại
(hyponymy), quan hệ đồng nghĩa và quan hệ trái nghĩa, quan hệ toàn bộ - bộ phận.
1.2.5. Lý thuyết về trường nghĩa
Các loại trường nghĩa
Đỗ Hữu Châu (2007) đã đưa ra 4 loại trường nghĩa như sau: 1/ Trường nghĩa

biểu vật, 2/ Trường nghĩa biểu niệm, 3/ Trường nghĩa tuyến tính, 4/ Trường nghĩa
liên tưởng.
Tiêu chí phân loại trường nghĩa
Theo Đỗ Hữu Châu để phân lập các trường cần dựa vào ý nghĩa của từ.
Thứ nhất, đối với trường nghĩa biểu vật thì cần chọn một danh từ biểu thị sự vật
làm gốc, rồi trên cơ sở đó thu thập các từ ngữ có cùng phạm vi biểu vật với danh từ
được chọn làm gốc đó. Thứ hai, mỗi một trường nghĩa có những từ ngữ trung tâm,
đặc trưng cho trường nghĩa đó, nhưng cũng có những từ khơng chỉ thuộc về một
trường nghĩa mà thuộc về nhiều trường nghĩa khác nhau – đó là những từ ngữ
ngoại biên. Thứ ba, các từ ngữ trong trường nghĩa có thể có quan hệ cấp độ về
nghĩa với nhau.
1.2.6. Lý thuyết về ngôn ngữ học đối chiếu
Theo Bùi Mạnh Hùng (2008), ngôn ngữ học đối chiếu được định nghĩa như sau:
“Ngôn ngữ học đối chiếu là phân ngành ngôn ngữ học nghiên cứu so sánh hai
hoặc nhiều hơn hai ngơn ngữ bất kì để xác định những điểm tương đồng và khác
nhau giữa các ngơn ngữ đó, khơng tính đến vấn đề các ngơn ngữ được so sánh có
quan hệ cội nguồn hay thuộc cùng một loại hình hay khơng.”
Phân loại ngơn ngữ học đối chiếu: Hầu hết các nhà nghiên cứu đều chia ngôn
ngữ học đối chiếu thành hai loại là: ngôn ngữ học đối chiếu lý thuyết và ngôn ngữ
học đối chiếu ứng dụng.
Các nguyên tắc đối chiếu: Theo Bùi Mạnh Hùng (2008) trong quá trình nghiên
cứu đối chiếu các ngơn ngữ, cần tn thủ 05 nguyên tắc cơ bản sau đây: 1/ Đảm
bảo các phương tiện trong hai ngôn ngữ đối chiếu phải được miêu tả một cách đầy
đủ, chính xác và sâu sắc; 2/ Việc nghiên cứu đối chiếu không thể chỉ chú ý đến các
phương tiện ngôn ngữ một cách tách biệt mà phải đặt trong hệ thống; 3/Phải xem

5


xét các phương tiện đối chiếu không chỉ trong hệ thống ngơn ngữ mà cịn trong

hoạt động giao tiếp; 4/ Phải đảm bảo tính nhất quán trong việc vận dụng các khái
niệm và mơ hình lí thuyết để miêu tả các ngơn ngữ được đối chiếu; 5/ Phải tính đến
mức độ gần gũi về loại hình giữa các ngơn ngữ cần đối chiếu.
1.3. Quan điểm y ọc về p ân c ia các bộ p ận cơ t ể
Các nhà nghiên cứu ở Trung Quốc và Việt Nam đều thống nhất chia chi trên
thành 6 đoạn như sau: vai, cánh tay, khuỷu tay, cẳng tay, cổ tay và bàn tay.
1.4. Tiểu kết c ƣơn 1
Chương 1 của luận án đã tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước
về các nội dung liên quan đến đến đề tài nghiên cứu, cụ thể là: tình hình nghiên cứu
nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể nói chung, từ chỉ tay và hoạt động của tay nói riêng từ
bình diện ngơn ngữ học truyền thống và ngôn ngữ học tri nhận. Từ đó xây dựng cơ
sở lý thuyết nền tảng cho đề tài luận án. Cơ sở lý thuyết về từ và nghĩa của từ,
ngôn ngữ học đối chiếu, quan điểm y học về cách phân chia các bộ phận của chi
trên cũng như một số lý thuyết liên quan đến nội dung nghiên cứu của Chương 2,
Chương 3 cũng được tìm hiểu trong luận án.
CHƢƠNG 2
ĐỐI CHIẾU TỪ NGỮ CHỈ TAY GIỮA TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
2.1. Giới ạn n iên cứu
Trong chương này, luận án tập trung vào nghiên cứu đặc điểm của các từ chỉ
tay, bao gồm: các từ chỉ tay và các từ chỉ bộ phận của tay trong tiếng Hán và trong
tiếng Việt; từ những đặc điểm của chúng trong mỗi ngôn ngữ, luận án tiến hành đối
chiếu, nhằm chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa tiếng Hán và tiếng Việt.
Cách thức tiến hành như sau:
Bước 1. Thống kê các từ ngữ chỉ tay và bộ phận của tay.
Bước 2. Miêu tả đặc điểm của các từ chỉ tay và các từ ngữ chỉ bộ phận của tay.
Bước 3. Phân tích, đối chiếu, chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa chúng.
2.2. Đối chiếu cách phân loại các từ chỉ tay và các bộ phận của tay gi a
tiếng Hán và tiếng Việt
2.2.1. Đối chiếu cách phân loại từ chỉ tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt
Trong tiếng Hán chỉ có duy nhất một từ dùng để chỉ tay là từ 手.

Trong tiếng Việt ngồi từ tay dùng để chỉ tay, do có sự tiếp xúc với tiếng Hán
và du nhập các từ Hán với cách đọc Hán Việt nên trong tiếng Việt có thêm một
cách gọi tay nữa là thủ.
Những điểm tương đồng: Từ 手 trong tiếng Hán và từ tay trong tiếng Việt đều
vừa là từ, vừa là yếu tố tạo từ.
Những điểm khác biệt: Số lượng từ chỉ tay trong tiếng Việt có 2 từ (tay và thủ)
nhiều hơn trong tiếng Hán chỉ có 1 từ (手). Từ 手 trong tiếng Hán vừa là từ vừa là
yếu tố tạo từ, nhưng thủ trong tiếng Việt chỉ tham gia với tư cách cấu tạo từ.
2.2.2. Đối chiếu cách phân loại các từ chỉ bộ phận của tay giữa tiếng Hán và
tiếng Việt

6


Do đặc điểm của tiếng Hán cổ là các thực tại khách quan được phân chia rất chi
li, cho nên các từ chỉ bộ phận của tay trong tiếng Hán cổ được gọi tên bằng các đơn
vị đơn tiết rất cụ thể. Còn trong tiếng Hán hiện đại, người ta chỉ dùng một số từ
tiếng Hán cổ, còn lại sẽ theo mơ hình cấu tạo mới, như thêm hậu tố “子” (zi) (tử) ,“
儿”(er) (nhi) đằng sau để tạo nên từ mới, ví dụ: 膀子 bàng tử (cánh tay), 手腕子
thủ uyển tử (cổ tay) , 手腕
儿 thủ uyển nhi (cổ tay),…
Dựa theo lý thuyết quan
hệ cấp loại và quan hệ toàn
bộ - bộ phận, luận án phân
chia các từ chỉ bộ phận của
tay theo cấp loại từ bậc 1
đến bậc 5, tức là sẽ đi từ tên
gọi chỉ toàn bộ đến các tên
gọi chỉ các bộ phận nhỏ nhất
của sự phân chia. Các cấp

loại được đánh số theo
Sơ đồ 2.1. Các từ c ỉ bộ
p ận của tay tron tiến Việt
bậc 1, 2, 3, 4, 5.
Bản 2.1. Bản đối c iếu các ọi tên các bộ p ận của tay
i a tiến Hán và tiến Việt
Bậc
Tiến Hán
Tiến Việt
Tay, thủ
Bậc 1 手
Tay phải, tay mặt
右手 hữu thủ
Tay trái
左手 tả thủ
Cánh tay
Bậc 2 臂 tí, 膊 bác
胳膊 cách bác, 胳臂 cách tí, 臂膀 tí bảng, 臂膊 tí bác, 膀
子 bàng tử, 手臂 thủ tí
腕 uyển, 腕子 uyển tử, 手腕 thủ uyển, 手腕子 thủ uyển tử, Cổ tay
胳膊腕子 cách bác uyển tử
掌 chưởng, 手掌 thủ chưởng, 手板 thủ bản, 巴掌 ba Bàn tay
chưởng
Cánh tay:
Bậc 3 臂 tí, 膊 bác:
Cánh tay (trên)
大臂 đại tí và 上臂 thượng tí
Cẳng tay
前臂 tiền tí và 小臂 tiểu tí
Khuỷu tay

肘 trửu và 手肘 thủ trửu
Cổ tay:
Khớp cổ tay
Bàn tay:

腕子 uyển tử:
腕关节 uyển quan tiết
掌 chưởng

7


手背 thủ bối
掌心 chưởng tâm và 手心 thủ tâm

Bậc 4

Bậc 5

指 chỉ, 手指 thủ chỉ và 手指头 thủ chỉ đầu.
大臂 đại tí, 上臂 thượng tí:
二头肌 nhị đầu cơ
肘 trửu
胳膊肘子 cách bác trửu tử
指 chỉ, 手指 thủ chỉ.
1) 拇 mẫu, 拇指 mẫu chỉ, 大拇指 đại mẫu chỉ, 大指 đại
chỉ.
2) 食指 thực chỉ, 二拇指 nhị mẫu chỉ, 示指 thị chỉ.
3) 中指 trung chỉ, 将指 tướng chỉ.
4) 环指 hồn chỉ, 无名指 vơ danh chỉ, 四拇指 tứ mẫu chỉ.

5) 小拇指 tiểu mẫu chỉ, 小指 tiểu chỉ, 季指 quý chỉ, 尾指
vĩ chỉ, 小手指 tiểu thủ chỉ
手指 thủ chỉ:
手指甲 thủ chỉ giáp, 指甲 chỉ giáp
指纹 chỉ văn, 指印 chỉ ấn, 螺纹 loa văn, 手指斗 thủ chỉ
đẩu, 手指螺 thủ chỉ loa
指节 chỉ tiết
指缝 chỉ phùng

Mu bàn tay
Lòng bàn tay
/Gan bàn tay
Ngón tay
Cánh tay trên:
Bắp tay
Khuỷu tay:
Cùi chỏ/ cùi tay
Các ngón tay:
1)Ngón cái
2)Ngón trỏ
3)Ngón giữa
4)Ngón áp út/
ngón đeo nhẫn
5) Ngón út
Ngón tay:
Móng tay
Vân tay, hoa tay
Đốt ngón tay
Kẽ tay


a) Những điểm tương đồng
Số lượng các bộ phận của tay trong hai ngơn ngữ như nhau, đều có 23 bộ phận.
Cách phân chia các bộ phận của tay trong hai ngôn ngữ giống nhau, đều chia
thành 5 bậc. Số lượng các bộ phận của tay ở mỗi bậc bằng nhau.
b) Những điểm khác biệt
(1) Số lượng từ mô tả các bộ phận của tay
Trong tiếng Hán chúng tôi thu thập được 60 từ mô tả các bộ phận của tay, cịn
trong tiếng Việt chúng tơi chỉ thu thập được 26 từ mô tả các bộ phận của tay.
Nguyên nhân là do hầu hết các bộ phận của tay trong tiếng Hán đều có nhiều từ mơ
tả. Trong khi đó, có đến 18/23 bộ phận của tay trong tiếng Việt chỉ có một từ mơ tả,
chiếm tỉ lệ 78.2%. Rõ ràng có thể thấy từ mơ tả các bộ phận của tay trong tiếng
Hán phong phú hơn trong tiếng Việt.
(2) Phương thức cấu tạo các từ chỉ bộ phận của tay
Trong tổng số 60 từ chỉ bộ phận của tay trong tiếng Hán, có 8 từ đơn, chiếm tỉ
lệ 13.3% và 52 từ ghép, chiếm tỉ lệ 86.7%; trong tổng số 26 từ chỉ bộ phận của tay
trong tiếng Việt, chỉ có 1 từ đơn, chiếm tỉ lệ 3.8% và 25 từ ghép, chiếm tỉ lệ 96.2%.

8


Trong tiếng Hán có một số bộ phận của tay có cả từ đơn, từ ghép (nhiều từ để
gọi một bộ phận). Trong tiếng Việt thì ngược lại mỗi bộ phận của tay hầu hết chỉ có
một từ ghép. Trong tiếng Việt, các từ chỉ bộ phận của tay là các từ ghép chính phụ,
trong đó, hầu hết đều có từ tay với tư cách là thành tố cấu tạo theo mơ hình X+TAY
(chính trước, phụ sau). Trong khi đó, ở tiếng Hán, các bộ phận của tay thường có một từ
đơn tiết đảm nhận. Bên cạnh đó, cịn có nhiều cách gọi khác bằng cách tạo từ ghép
chính phụ theo mơ hình yếu tố phụ đứng trước, yếu tố chính đứng sau. Đáng lưu ý là,
trong các từ ghép này, thường có một số từ ghép có từ 手 thủ với tư cách là thành tố cấu
tạo theo mô hình ngược với tiếng Việt: THỦ+X; cịn lại, các từ ghép chính phụ khác
đều khơng có sự xuất hiện của thủ với tư cách là thành tố tạo từ.

2.3. Đối c iếu đặc điểm n n ĩa của các từ c ỉ tay và các bộ p ận của tay i a
tiến Hán và tiến Việt
2.3.1. Đối chiếu nghĩa của từ “手” trong tiếng Hán và từ “tay, thủ” trong
tiếng Việt
2.3.1.1. Đặc điểm nghĩa của từ “手” trong tiếng Hán
Theo khảo sát của chúng tôi, trong cuốn 汉语大词典 (第 6 卷) (Đại từ điển
tiếng Hán)(quyển 6)từ 手 có 18 nghĩa, trong đó có 01 nghĩa gốc (nghĩa 1) và 17
nghĩa phái sinh. Từ nghĩa (1) có thể thấy kết cấu nghĩa của từ 手 gồm 02 nét nghĩa
cơ bản với 01 nét nghĩa chỉ sự vật (bộ phận chi trên của cơ thể) tồn tại theo đặc
điểm vật lý và 01 nét nghĩa chỉ chức năng (có thể cầm đồ vật).
(1). Sự chuyển nghĩa bắt nguồn từ đặc điểm vật lý

S
ơ đồ 2.2. Sự c uyển n ĩa của từ “手” dựa t eo đặc điểm vật lý
Qua sơ đồ 2.2. có thể thấy, từ nghĩa gốc (nghĩa 1), dựa theo sự giống nhau về
chức năng, theo phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ 手 sinh ra nghĩa phái sinh (nghĩa
2) làm lượng từ (danh từ chỉ sự vật) của đồ vật, động vật, hoa quả… Tiếp tục với
dòng chuyển nghĩa này, lấy cơ thể làm trung tâm để chia tay thành tay trái và tay
phải 手 sinh ra nghĩa phái sinh (nghĩa 3) biểu thị vị trí, phương hướng (边,面).
Dựa trên sự giống nhau về chức năng, vẫn theo phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ,
手 có thêm nghĩa phái sinh (nghĩa 4) “chỉ thứ tự, trình tự, trật tự”. Người Trung

9


Quốc thường liên tưởng 手 với “寸口” (thốn khẩu), từ đó 手 có nghĩa phái sinh
(nghĩa 5) biểu thị “寸口” (mạch nơi cổ tay/mạch thốn khẩu).
(2). Sự chuyển nghĩa bắt nguồn từ đặc điểm chức năng
Từ nghĩa gốc (nghĩa 1) có thể thấy cấu trúc nghĩa biểu niệm của từ 手 trong
tiếng Hán bao gồm hai nét nghĩa: 01 nét nghĩa chỉ sự vật theo đặc điểm vật lý và 01

nét nghĩa chỉ chức năng. Trong đó nét nghĩa chức năng bao gồm chức năng cơ bản
là dùng để cầm nắm đồ vật và chức năng làm việc. Các nghĩa phái sinh của từ 手
bắt nguồn từ đặc điểm chức năng có số lượng khá lớn, tổng cộng có 13/17 nghĩa
phái sinh, chiếm tỉ lệ 76.5% tổng số nghĩa phái sinh của 手.

Sơ đồ 2.3. Sự c uyển n ĩa của từ “手” dựa t eo đặc điểm c ức năn
2.3.1.2. Đặc điểm nghĩa của từ “tay” trong tiếng Việt
Theo định nghĩa trong “Từ
điển tiếng Việt” (2015) do
Hoàng Phê chủ biên, từ tay
trong tiếng Việt có 09 nghĩa,
trong đó có nghĩa ban đầu
(nghĩa 1) chỉ một bộ phận
thuộc chi trên của cơ thể con
người và 08 nghĩa phái sinh.
Từ nghĩa (1) có thể thấy kết
cấu nghĩa của từ tay gồm 02
nét nghĩa cơ bản với 01 nét
nghĩa chỉ sự vật (bộ phận của
cơ thể người, từ vai đến các
ngón) tồn tại theo đặc điểm
Sơ đồ 2.4. Sự chuyển n ĩa của
từ “tay” tron tiếng Việt

10


vật lý và 01 nét nghĩa chỉ chức năng (dùng để cầm nắm). Luận án sẽ dựa theo 02
đặc điểm của tay là đặc điểm về vật lý và đặc điểm chức năng để tiến hành nghiên
cứu sự chuyển nghĩa của tay trong tiếng Việt.

2.3.1.3. Đặc điểm nghĩa của “thủ” trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, bên cạnh từ tay còn có đơn vị Hán Việt là thủ cũng có nghĩa
tay, nhưng có kết hợp hạn chế và sắc thái nghĩa hơi khác với tay, do thủ là yếu tố
tạo từ, có thể kết hợp với một số từ biểu thị nghĩa như sau: 1/Dùng để chỉ người,
như: thủ hạ, thủ túc,… 2/ Biểu thị tham gia vào một hoạt động nào đó, như: hạ thủ
(bắt tay làm); nhập thủ (bắt tay vào); đắc thủ (làm được việc). 3/ Dùng để chỉ một
người làm một cơng việc nào đó, như: thủy thủ, trợ thủ. 4/ Chỉ tài năng của một
người, như: quốc thủ, cao thủ, năng thủ,… .5/ Lấy mất, (không minh bạch, đàng
hoàng), như: thủ tiêu, biển thủ,…
2.3.1.4. Những tương đồng và khác biệt về nghĩa của “手” trong tiếng Hán và
“tay, thủ” trong tiếng Việt
Bảng 2.4. Bản đối chiếu n ĩa của
từ “手” tron tiến Hán và “tay, t ủ” trong tiếng Việt
TT
T ủ
N ĩa của từ
Tay

1.
Bộ phận chi trên của cơ thể, có thể cầm đồ vật
x
x
2.
Làm lượng từ của đồ vật (cái, con, quả,v.v)
x
3.
Dùng sau các phương vị từ để biểu thị phương
hướng, vị trí, có nghĩa là: phía, mặt, đằng,
x
phương hướng

4.
Chỉ thứ tự, trình tự, trật tự
x
5.
(Thuật ngữ trong lĩnh vực y học), có nghĩa là
mạch cổ tay; thốn khẩu (đông y chỉ cổ tay, nơi
x
dễ bắt mạch).
6.
Cầm, nắm (biểu thị động tác của tay)
x
x
7.
Trong tay. Chỉ phạm vi kiểm soát, nắm giữ
x
x
8.
(Lượng từ) Đơn vị tính tốn tiền tệ của dân tộc
x
thiểu số ở khu vực Tây Nam, Trung Quốc.
9.

Giết (biểu thị động tác của tay)

10.
11.

Lấy, chọn (biểu thị động tác của tay);
Các cơ quan cảm giác nhơ ra ở phía trước của
động vật


12.

Một số máy móc thay thế cơng việc làm bằng
tay
Tự tay làm
Người làm việc trong một ngành nào đó hoặc
thực hiện một hành động nào đó

13.
14.

11

x
x

x

x

-

x

-

x

x


x

x

x


15.

Người có một vị trí nhất định trong cơng việc
hoặc trong lĩnh vực công nghệ

x

x

16.
17.
18.
19.

Tay nghề, bản lĩnh, năng lực
(Lượng từ) Dùng để miêu tả kỹ năng, kỹ xảo;
Bút tích.

x
x
x


x
-

Chi trước hay xúc tu của một số động vật,
thường có khả năng cầm, nắm đơn giản.

x

x

20.

Bên tham gia vào một việc nào đó có liên quan
giữa các bên với nhau.

-

x

21.

Bộ phận của vật tương ứng với tay hoặc có
chức năng, hình dáng như cái tay.

-

x

22.


Dùng để chỉ người

x

-

x
x
x

Qua bảng đối chiếu 2.4 chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét như sau:
a) Những điểm tương đồng
Nghĩa gốc (nghĩa 1) của 手 trong tiếng Hán và tay trong tiếng Việt đều giống
nhau. Trong cả hai ngôn ngữ, nghĩa (1) đều được hình thành từ 02 nét nghĩa: nét
nghĩa 01 là chỉ sự vật (bộ phận chi trên của cơ thể người) và nét nghĩa 02 là chỉ
chức năng (dùng để cầm, nắm).
Xét về phương thức chuyển nghĩa, dòng chuyển nghĩa của 手 và tay khá giống
nhau, đều dựa theo phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ và hoán dụ. Phương thức ẩn
dụ sinh ra 10 nghĩa phái sinh của 手 và 05 nghĩa phái sinh của tay, phương thức
hoán dụ sinh ra 07 nghĩa phái sinh của 手 và 03 nghĩa phái sinh của tay. Tổng số
nghĩa phái sinh tương đồng của 手 và tay là 9/22 nghĩa. Các nghĩa phái sinh này có
thể coi là nghĩa biểu trưng của 手 và tay. Từ 手 trong tiếng Hán và thủ trong tiếng
Việt có 4/22 nghĩa phái sinh giống nhau.
b) Những điểm khác biệt
Trên đây là khái quát những nghĩa chung nhất của cả 手 và tay, thủ. Tuy nhiên,
vì chịu ảnh hưởng của các yếu tố ngơn ngữ, văn hóa, xã hội của mỗi dân tộc nên
quá trình chuyển nghĩa của 手 trong tiếng Hán và tay, thủ trong tiếng Việt diễn ra
khác nhau, cụ thể: qua bảng 2.4 có thể thấy các nghĩa phái sinh (nghĩa 2, 5, 8, 9, 12,
17) đều là nghĩa phái sinh đặc trưng, thể hiện nét văn hóa độc đáo riêng của 手
trong tiếng Hán, nên từ tay trong tiếng Việt khơng có các nghĩa phái sinh giống như

vậy. Các nghĩa phái sinh (nghĩa 20, 21) cũng là những nghĩa phái sinh đặc trưng
riêng của tay trong tiếng Việt nên 手 trong tiếng Hán không có những nghĩa phái
sinh này. Do thủ trong tiếng Việt chỉ tham gia với tư cách cấu tạo từ nên ngoài
những nghĩa tương đồng kể trên, phần lớn nghĩa phái sinh của 手 trong tiếng Hán
thì thủ trong tiếng Việt đều khơng có.

12


2.3.2. Đối chiếu nghĩa các từ chỉ bộ phận của tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt
Như trên đã phân tích, các từ chỉ tay, đặc biệt là các bộ phận của tay trong tiếng Hán
và tiếng Việt có sự phân loại khác nhau, nhất là trong tiếng Hán sự phân loại rất chi li
cho nên trong phần này chúng tôi chỉ tập trung đối chiếu nghĩa của một số từ cơ bản có
tương đương cả trong tiếng Hán và trong tiếng Việt, gồm: cánh tay, khuỷu tay, cẳng
tay, cổ tay, bàn tay, lịng bàn tay và ngón tay. Kết quả đối chiếu như sau:
a) Những điểm tương đồng
Tất cả những từ chỉ bộ phận của tay trong hai ngôn ngữ đều là danh từ, là từ tự
thân có nghĩa và hoạt động độc lập. Nghĩa đầu tiên (nghĩa 1) của các từ chỉ bộ phận
của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt đều giống nhau. Trong cả hai ngôn ngữ, đều
có nghĩa biểu vật giống nhau, cùng chỉ bộ phận của chi trên.
b) Những điểm khác biệt
Trên đây là khái quát những nghĩa chung nhất của các từ chỉ bộ phận của tay
giữa tiếng Hán và tiếng Việt. Tuy nhiên, vì chịu ảnh hưởng của các yếu tố ngơn
ngữ, văn hóa, xã hội của dân tộc hai nước nên số lượng nghĩa và quá trình chuyển
nghĩa của các từ cũng diễn ra khác nhau.
Thứ nhất, số lượng nghĩa không giống nhau: số lượng nghĩa của các từ chỉ bộ
phận của tay trong tiếng Hán (22 nghĩa) nhiều gấp đôi số lượng nghĩa của các từ
chỉ bộ phận của tay trong tiếng Việt (11 nghĩa). Nguyên nhân là do trong 7 từ chỉ
bộ phận của tay được khảo sát trong hai ngơn ngữ, trong tiếng Hán chỉ có 1 từ 前臂
(cẳng tay) có duy nhất một nghĩa, chiếm tỉ lệ 14.2%, các từ cịn lại đều có từ 2

nghĩa trở lên, nhưng trong tiếng Việt có đến 4 từ chỉ bộ phận của tay (cánh tay,
cẳng tay, cổ tay, lòng bàn tay) chỉ có một nghĩa, chiếm tỉ lệ 57.1%, các từ cịn lại
đều có từ 2 nghĩa trở lên, trong đó từ chỉ bộ phận ngón tay có nhiều nghĩa nhất với
3 nghĩa. Thứ hai, nghĩa phái sinh của các cặp từ không giống nhau, cụ thể: nghĩa
phái sinh của 肘 và khuỷu tay. Thứ ba, từ 手腕 trong tiếng Hán ngồi nghĩa gốc
cịn có thêm 1 nghĩa phái sinh biểu thị thủ đoạn của một người nào đó nhưng từ cổ
tay trong tiếng Việt khơng có nghĩa phái sinh nào. Thứ tư, từ bàn tay trong tiếng
Việt chỉ có 1 nghĩa phái sinh, cịn các nghĩa phái sinh của từ 掌 trong tiếng Hán
phong phú hơn trong tiếng Việt, từ 掌 có 5 nghĩa phái sinh. Thứ năm, từ nét nghĩa
chỉ bộ phận trung tâm, theo dòng chuyển nghĩa ẩn dụ, từ 手心 trong tiếng Hán sinh
ra nghĩa phái sinh biểu thị phạm vi khống chế. Từ lòng bàn tay trong tiếng Việt
khơng có nghĩa phái sinh giống như vậy. Thứ sáu, nghĩa phái sinh của 指 trong
tiếng Hán và từ ngón tay trong tiếng Việt có nhiều điểm khác nhau.
2.4.Tiểu kết c ƣơn 2
Chương này chúng tôi tập trung vào hai vấn đề lớn:
Thứ nhất là đối chiếu các cách phân loại từ chỉ tay và các bộ phận của tay giữa
tiếng Hán và tiếng Việt, từ đó chỉ ra những điểm giống nhau và khác nhau.
Thứ hai là đối chiếu đặc điểm ngữ nghĩa. Thông qua đối chiếu về đặc điểm ngữ
nghĩa của các từ chỉ tay và bộ phận của tay (qua một số từ cơ bản), kết quả đối
chiếu cho thấy:
Những điểm tương đồng: Nghĩa đầu tiên của các từ chỉ tay và các bộ phận của
tay giống nhau, đều là các danh từ chỉ bộ phận chi trên của cơ thể con người, là từ

13


tự thân có nghĩa và hoạt động độc lập. Xét về phương thức chuyển nghĩa, dòng
chuyển nghĩa của các từ chỉ tay và các bộ phận của tay giống nhau, đều dựa theo
phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ và hoán dụ.
Những điểm khác biệt: Do sự khác nhau về văn hoá, về tư duy dân tộc nên các

từ chỉ tay và các bộ phận của tay trong tiếng Hán và trong tiếng Việt có nhiều nghĩa
phái sinh khơng giống nhau.
CHƢƠNG 3
ĐỐI CHIẾU CÁC ĐỘNG TỪ BIỂU THỊ
HOẠT ĐỘNG CỦA TAY GIỮA TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
3.1. Giới ạn vấn đề n iên cứu
Trong chương này chúng tôi sẽ liệt kê các động từ biểu thị hoạt động của tay
giữa tiếng Hán và tiếng Việt. Theo khảo sát của chúng tôi, các từ chỉ hoạt động của
tay trong cả hai ngôn ngữ rất phong phú và đa dạng, có những động từ chuyên chỉ
hoạt động của tay (按(ấn), 抱 (bế), 拿 (cầm), 挠 (gãi), 握(nắm), 摸 (sờ)… ) và có
những động từ có sự kết hợp với các bộ phận khác của cơ thể để chỉ hoạt động
chung khác (扛 (vác), 担(gánh)…). Hơn nữa, trong các từ chỉ hoạt động của tay
cịn có thể phân thành các từ chỉ hoạt động của một tay (按 (ấn), 捏 (nhón), 捻 (vê),
提 (xách), 挠 (gãi), 握 (nắm)…), các từ chỉ hoạt động của cả hai tay (捧 (nâng), 端
(bưng), 搀(đỡ), 撕扯 (xé), 抱 (bế)...). Vì thế trong luận án này chúng tơi sẽ thống
kê nhưng đồng thời cũng chỉ tập trung vào nghiên cứu các động từ chuyên chỉ hoạt
động của tay. Để phục vụ cho việc nghiên cứu của chương này chúng tơi giới hạn
một số khái niệm mang tính tác nghiệp như sau:
3.1.1. Động từ
Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Lương (2007) đã đưa ra định nghĩa về động từ như
sau: “Động từ có ý nghĩa ngữ pháp khái quát là chỉ hoạt động, trạng thái (trạng
thái vật lí, tâm lí, sinh lí). Ví dụ: ăn, đi, rơi, chảy, đau đớn, yêu mến.”
3.1.2. Động từ biểu thị hoạt động của tay
Cho đến nay đã có rất nhiều học giả đưa ra các khái niệm về động từ biểu thị
hoạt động của tay. Tổng hợp kết quả nghiên cứu của các học giả đi trước đồng thời
dựa theo ngữ liệu khảo sát, để phạm vi nghiên cứu chính xác hơn, luận án cũng đưa
ra định nghĩa về động từ biểu thị hoạt động của tay như sau: trong hệ thống từ vựng
tiếng Hán và tiếng Việt, những động từ chuyên chỉ hoạt động của tay, tác động trực
tiếp vào đối tượng khiến đối tượng được hình thành, biến đổi hoặc mất đi được gọi
là động từ biểu thị hoạt động của tay.

Trong nội dung tiếp theo, chúng tôi sẽ dựa theo định nghĩa về động từ biểu thị
hoạt động của tay được nêu ở trên làm căn cứ thống kê các động từ biểu thị hoạt
động của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt.
3.2. Đối c iếu các từ c ỉ oạt độn của tay i a tiến Hán và tiến Việt
Khi khảo sát hai cuốn 现代汉语词典(第七版) (Từ điển tiếng Hán hiện đại)
(Tái bản lần thứ 7) và Từ điển tiếng Việt (2015) do Hồng Phê chủ biên, chúng tơi
đã thu thập được một số các động từ biểu thị hoạt động của tay được sử dụng trong
phương ngữ, từ cũ, ít dùng. Tuy nhiên, trong nội dung chương này, đối tượng
nghiên cứu chính của chúng tơi là các động từ biểu thị hoạt động của tay được dùng

14


phổ biến trong tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt, nên các động từ biểu thị hoạt động
của tay được dùng trong các phương ngữ, từ cũ, ít dùng khơng thuộc phạm vi
nghiên cứu của chúng tôi.
3.2.1. Các từ chỉ hoạt động của tay trong tiếng Hán
Sau khi khảo sát từ điển 现代汉语词典 (第 7 版) (Từ điển tiếng Hán hiện đại)
(tái bản lần thứ 7) và Từ điển Hán - Việt do Phan Văn Các chủ biên, chúng tôi đã
thu thập được 185 động từ biểu thị hoạt động của tay trong tiếng Hán, trong đó có
128 từ đơn (chiếm tỉ lệ 69.2%) và 57 từ ghép (chiếm tỉ lệ 30.8%).
3.2.2. Các từ chỉ hoạt động của tay trong tiếng Việt
Khảo sát Từ điển tiếng Việt (2015) do Hoàng Phê chủ biên, chúng tôi đã thu
thập được 172 động từ biểu thị hoạt động của tay trong tiếng Việt, trong đó có 153 từ đơn
(chiếm tỉ lệ 88.9 %) và 19 từ ghép (chiếm tỉ lệ 11.1%).
3.2.3. Những tương đồng và khác biệt
Bản 3.3. Bản đối chiếu phân loại trƣờn n ĩa các động từ
biểu thị hoạt động của tay gi a tiếng Hán và tiếng Việt
TT
Biểu t ị oạt độn

Tiến Hán
Tiến Việt
của tay và các bộ
Các độn từ
Số
Các động từ
Số
p ận của tay
lƣợn
lƣợng
1. Hoạt động của ngón 按 、 摁 、 摸 、
12
Ấn, bấm, nhấn,
20
tay
vê, ngắt, vuốt,
捻、捏、掐 、 捋
bấu, véo, búng,
(lǚ) 、捋(luō) 、
cào, cấu, cù,
挠 、搔、弹、握
củng, day, gãi,

mó, sờ, nhón,
bắt mạch, bấm
đốt
2. Hoạt động của bàn 掴 、 搓 、 拾 、
11
Bợp, nhặt, tát,
11

tay
vả,
té,
vốc,
xoa,
批、摭、按 摩、
bắt tay, đấm
捏弄、按脉 、拍
bóp, xoa bóp,
手、拾取、推拿
vỗ tay
3. Hoạt động cầm nắm 拿、取、握 、把
9
Cầm, lấy, nắm,
4
vật trong tay
bắt
、执、操、 捉 、
握手、拿获
4. Hoạt động dùng tay 捡 、 掏 、 挖 、
13
Moi, móc, đào,
11
hoặc dùng tay sử 抠 、 拔 (bá) 、
bới, cời, gắp,
dụng dụng cụ để lấy 抽、捞、擢 、抠
khều,
kho,
cái gì đó, kéo cái gì
nhổ, rút, kht

搜、挖掘、拔
đó ra
除、捞取、拨弄
5. Hoạt động giữ chặt 抓 、 揪 、 扒
4
Tóm,
chộp,
4
vật thể trong tay
bốc, bám
(bā) 、攀

15


6. Hoạt động của tay
khiến vật thể thay đổi
vị trí
7. Hoạt động dùng một
tay hoặc hai tay khiến
vật thể hướng lên trên
8. Hoạt động khiến vật
thể bị chia cắt, phá vỡ
9. Hoạt động cố định
vật thể ở vị trí nào đó
10. Hoạt động dùng lực
tác động khiến vật thể
di chuyển

11. Hoạt động dùng tay

(hoặc dụng cụ) gõ,
đập lên vật thể
12. Hoạt động dùng tay
kết hợp sử dụng dụng
cụ để trộn, quấy
13. Hoạt động dùng tay
hoặc sử dụng dụng cụ
để phủi, quét, đánh
(người hoặc đồ vật)

14. Hoạt động vung tay,
huơ tay, chỉ tay hoặc
khiến vật thể bị đung
đưa

扔、摔、投、
丢、抛、撇、
掷、抡、甩 、丢
弃、抛掷、投射
捧、抬、托、
举、搀、提 、挑
(tiǎo) 、 扬 、 扛
(gāng)
折、撕、掰、
摘 、采 、撕扯、
撕毁

12

Ném,

quăng,
quẳng, lia, lăng,
lao, tung, vứt,
gảy

9

9

Nâng,
nhấc,
giơ, bưng, bê,
xách

6

7

10

放、摆、搁、
挂、搭、撂 、放

拉 、 推 、 拨
(bō) 、 拖 、 扯 、
拽 (zhuài) 、 牵 、
挽、搬、挪 、拖
带、搬移、拉
扯、挪动、搬弄
打、拍、捶、

敲、捣、捶 打、
打击、敲打

7

Bẻ, hái, bứt,
tách, tẽ, bổ,
chặt, chẻ, tuốt,

Đặt, để, xếp,
kê, treo, mắc

15

Kéo, lôi, ẩy,
đẩy, dắt, cuốn,
giật, níu

8

8

Đánh,
đấm,
đập, gõ, giã,
nện, vỗ, dần,
đấm đá
Quấy,
trộn,
khoắng, ngốy


9

6

搅、拌、搅 拌、
拌和

4

掸、扑、扫、
抖 、 扑 打 (pū
dǎ) 、 扑 打
(pūda) 、 抽 打 、
抖搂、摔打 、拍

招、挥、摇 、甩
手、摆手、招
手、挥手、挥
动、挥舞、指
画、摇手

10

Giũ, phẩy, phủi,
quét

4

11


Chỉ, khoát, quờ,
vung, vẫy, chỉ
trỏ, phẩy tay,
vung vẩy

8

16

4


15. Hoạt động cố định
vật thể bằng dây,
giấy, vải
16. Hoạt động của tay
khiến vật thể thay đổi
hình dạng
17. Hoạt động dùng tay
và dụng cụ khiến vật
thể bị thủng, rụng
18. Hoạt động dùng tay
và dụng cụ để làm
sạch
19. Hoạt động của hai tay

20. Hoạt động của tay kết
hợp với vai
21. Hoạt động sử dụng

tay để bày tỏ lịng tơn
kính
22. Hoạt động làm cho
vật thể khơng cịn ở
trạng thái bị đóng
kín, bịt kín
23. Hoạt động dùng tay
và dụng cụ làm vật
thể kết nối lại với
nhau
24. Hoạt động khoanh
tay trước ngực
25. Hoạt động khác của
tay

扎(zā)、拴、括、
捆、捆扎、捆绑

6

Buộc, bọc, gói,
trói, bó, thắt

6

挤 、 揉 、 拧
( níng ) 、 扭 、
拧 (nǐng) 、揉搓
扎(zhā)、捅


6

Nặn, bóp, vặn,
vắt, vị, nhào

6

2

Chọc, thọc

2

擦、抹 (mā)、抹
(mǒ) 、擦拭

4

Lau, chùi, cọ, kì
cọ

4

扶 、 抱 、 搂
(lǒu) 、 搂 (lōu) 、
端、挎、搂抱

7

11


担、 扛 (káng)、
挑(tiāo)
拱、 揖

3

Vịn, dìu, đỡ,
ẵm, bế, bồng,
ơm, qng, ẵm
ngửa, ấp ủ,
bồng bế
Gánh,
vác,
khốc

2

Vái, lạy, khấn
vái, vái lạy

4

掀、拆、撬、
揭、打开

5

Mở, bóc, cởi,
giở, cạy, nạy


6

扣、拼、拼 凑、
拼合、拼接

5

Cài, gài, đan,
vá, ghép, chắp

6

抄手、揣手

2

Khoanh tay

1

3

11
Băm, đút, với,
9
够 、 揣 、 扒
nghiền,
vén,
(pá) 、 掂 、 撩 、

vẩy, cắp, bạt tai,
擂、夹、撞、
bắt quyết
揍、掂量、折叠
Tổn số lƣợn
185
172
a) Những điểm tương đồng
Số lượng nhóm tiểu trường biểu thị hoạt động của tay và các bộ phận của tay ở
hai ngôn ngữ giống nhau. Có 8/25 nhóm tiểu trường biểu thị hoạt động của tay và
các bộ phận của tay trong hai ngơn ngữ Hán và Việt có số lượng động từ ở mỗi
nhóm bằng nhau. Mỗi tiểu trường trong cả hai ngơn ngữ đều có những từ ngữ trung tâm

17


đặc trưng cho tiểu trường đó. Có một số từ chỉ hoạt động của tay trong tiếng Hán và
tiếng Việt có thể thuộc nhiều tiểu trường khác nhau. Số lượng từ đa nghĩa biểu thị
hoạt động của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt đều chiếm 2/3 số lượng từ thống
kê, cụ thể là tiếng Hán có 119/185 từ và tiếng Việt có 114/172 từ.
b) Những điểm khác biệt
Số lượng từ chỉ hoạt động của tay trong tiếng Hán (185 từ) nhiều hơn trong
tiếng Việt (172 từ). Số lượng các từ có nhiều nghĩa (từ 9 nghĩa trở lên) biểu thị
hoạt động của tay và các bộ phận của tay trong tiếng Hán phong phú hơn trong
tiếng Việt, cụ thể: trong tiếng Hán có 4 từ có 10 nghĩa, 1 từ có 11 nghĩa, 1 từ có 13
nghĩa và 1 từ có 14 nghĩa, nhưng trong tiếng Việt khơng có từ nào có số lượng
nghĩa giống như vậy.
3.3. Đối c iếu n ĩa của các độn từ biểu t ị oạt độn của tay i a tiến
Hán và tiến Việt
Do các từ biểu thị hoạt động của tay trong tiếng Hán (185 từ) và tiếng Việt (172

từ) có số lượng lớn, hơn nữa số lượng các tiểu trường khá nhiều (25 tiểu trường)
nên trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát trường hợp: đối
chiếu nghĩa của một số nhóm động từ và đối chiếu một số động từ cụ thể.
3.3.1. Đối chiếu nghĩa của một số nhóm động từ biểu thị hoạt động của tay giữa
tiếng Hán và tiếng Việt
3.3.1.1. Nhóm động từ biểu thị hoạt động cầm nắm vật trong tay
Nhóm từ biểu thị hoạt động
cầm nắm vật trong tay trong tiếng
Hán bao gồm 9 từ, cụ thể: 拿、取

、握、把、执、操、捉、握手
、拿获, trong tiếng Việt có 4 từ,
cụ thể: cầm, lấy, nắm, bắt. Kết
quả nghiên cứu cho thấy các từ
trong nhóm từ này ở cả hai ngơn
ngữ đều có nét nghĩa biểu thị
chức năng “cầm, nắm đồ vật”.
Đây là nét nghĩa trung tâm, hạt
nhân của nhóm từ này và xuất
hiện ở tất cả các từ trong nhóm. Trong đó, từ 拿 là từ ngữ trung tâm, đặc trưng cho
nhóm từ này trong tiếng Hán và từ cầm là từ đặc trưng cho nhóm từ này trong tiếng Việt.
3.3.1.2. Nhóm từ biểu thị “hoạt
động dùng tay (hoặc dụng cụ) gõ,
đập lên vật thể”
Trong tiếng Hán nhóm từ này
gồm 8 từ, cụ thể: 打、拍、捶、敲
、捣、捶打、打击、敲打 , trong
tiếng Việt có 9 từ, cụ thể: đánh,
đấm, đập, gõ, giã, nện, vỗ, dần, đấm
đá. Các từ trong nhóm từ này ở cả


18


hai ngơn ngữ đều có nét nghĩa dùng tay hoặc dụng cụ tạo ra hành động tác động lên
vật thể. Đây là nét nghĩa trung tâm, hạt nhân của nhóm từ này và xuất hiện ở tất cả
các từ thuộc nhóm từ. Ngồi ra số lượng các từ thuộc mỗi nhóm từ trong hai ngơn
ngữ đều tương đương nhau.
3.3.1.3. Nhóm từ biểu thị “hoạt động cố
định vật thể ở vị trí nào đó”
Nhóm từ này trong tiếng Hán có 7 từ, bao
gồm: 放 、 摆 、 搁 、 挂 、 搭 、 撂 、 放 置 ,
trong tiếng Việt có 6 từ, bao gồm đặt, để, xếp,
kê, treo, mắc. Các từ trong nhóm từ này ở cả
hai ngơn ngữ đó là đều có nét nghĩa [đặt, để].
Có thể thấy tiếng Hán có hiện tượng một từ
trong tiếng Hán có thể tương đương với một
số từ trong tiếng Việt.
3.3.2. Đối chiếu nghĩa của từ biểu thị
hoạt động của tay và các bộ phận của tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt
3.3.2.1.Nghĩa gốc trùng nhau một phần và nghĩa chuyển có nghĩa giống nhau
có nghĩa khác nhau
Trong giới hạn của nghiên cứu, chúng tôi xin tập trung nghiên cứu cặp động từ
拿 và cầm. Kết quả đối chiếu cho thấy: Các nghĩa phái sinh của từ 拿 và từ cầm
đều có thể quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với nghĩa gốc và tất cả các nghĩa đều
liên hệ với nhau làm thành một hệ thống. Các nghĩa phái sinh đều có xu hướng
chuyển nghĩa xa dần với nghĩa gốc. Các nghĩa phái sinh của từ 拿 và từ cầm đều
phát triển dựa trên một thuộc tính nào đó của nghĩa gốc. Dòng nghĩa phái sinh của
cả hai từ (拿 và cầm) chủ yếu phát triển dựa vào chức năng (cầm nắm, giữ) của từ,
tuy nhiên nghĩa phái sinh của chúng có nhiều điểm khác biệt.

3.3.2.2. Nghĩa gốc gần giống nhau nhưng nghĩa phái sinh khác nhau hoàn toàn
Trong giới hạn của nghiên cứu, chúng tôi xin tập trung nghiên cứu cặp động từ
摸 trong tiếng Hán và sờ trong tiếng Việt. Kết quả đối chiếu cho thấy: các nghĩa
phái sinh của từ 摸 và từ sờ đều được sinh ra theo phương thức chuyển nghĩa ẩn
dụ và hoán dụ. Từ 摸 trong tiếng Hán có 03 nghĩa phái sinh nhưng từ sờ chỉ có 01
nghĩa phái sinh.nghĩa, hơn nữa nghĩa phái sinh của chúng hoàn toàn khác nhau.
3.3.2.3. Nghĩa gốc gần giống nhau nhưng từ trong tiếng Hán có nghĩa phái
sinh mà tiếng Việt khơng có và ngược lại
Trong giới hạn của nghiên cứu, chúng tôi xin tập trung nghiên cứu cặp động từ
挠 trong tiếng Hán và gãi trong tiếng Việt. Kết quả đối chiếu cho thấy: trong số các
nét khu biệt của hai từ đều có nét nghĩa chỉ chức năng (gãi, cào) và nét nghĩa chỉ sự
vật (ngón tay, móng tay). từ 挠 có 02 nghĩa phái sinh nhưng từ gãi khơng có nghĩa
phái sinh nào.

19


3.4. Tiểu kết c ƣơn 3
Xét ở góc độ loại hình ngơn ngữ, tiếng Hán và tiếng Việt đều là ngơn ngữ đơn
lập nên có nhiều điểm tương đồng. Tuy nhiên, do sự khác biệt về tư duy dân tộc
cũng như quy luật của ngôn ngữ nên bên cạnh những điểm tương đồng về một số
nét nghĩa chung trong trường nghĩa biểu thị hoạt động của tay, hai ngôn ngữ cũng
có một số điểm khác biệt. Dựa vào khái niệm về động từ và động từ biểu thị hoạt
động của tay, luận án đã thống kê được 185 động từ biểu thị hoạt động của tay
trong tiếng Hán trong đó có 128 từ đơn và 57 từ ghép; 172 động từ biểu thị hoạt
động của tay trong tiếng Việt, trong đó có 153 từ đơn và 19 từ ghép. Dựa theo tiêu
chí phân loại trường nghĩa và dựa theo ngữ liệu thống kê, luận án đã chia các động
từ biểu thị hoạt động của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt thành 25 nhóm tiểu
trường. Luận án dựa theo kết quả khảo sát, chia các cặp động từ trong tiếng Hán và
tiếng Việt thành ba dạng, sau đó tiến hành đối chiếu các cặp động từ điển hình của

mỗi dạng.
KẾT LUẬN
1. Như đã trình bày ở trên, luận án nghiên cứu và đối chiếu về hiện tượng nhiều
nghĩa của các từ chỉ tay và các từ chỉ hoạt động của tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt.
Luận án đã chỉ ra được việc nghiên cứu đề tài đối chiếu từ ngữ chỉ tay và các động
từ biểu thị hoạt động của tay giữa tiếng Hán và tiếng Việt vẫn chưa được chú ý đúng
với vị trí quan trọng của nó trong cả hai ngơn ngữ. Chính vì thế, luận án đã cố gắng
nêu bật vai trị của nhóm từ này, đặc biệt tính cấp thiết phải nghiên cứu sự chuyển
nghĩa của nhóm từ này trong cả hai ngơn ngữ, từ đó chỉ ra sự giống nhau và khác
nhau giữa chúng.
2. Để giải quyết được nhiệm vụ đề ra, luận án đã thống kê được trong tiếng Hán
chỉ có một từ đơn tiết để gọi tay (手 thủ) còn tiếng Việt có hai cách để gọi tay là tay
và thủ, ngồi ra cả tiếng Hán và tiếng Việt đều có 23 bộ phận của tay, trong đó tiếng
Hán có 60 từ chỉ bộ phận của tay và tiếng Việt chỉ có 26 từ. Sở dĩ có sự khác biệt về
cách phân loại này là do tiếng Hán cổ có đặc điểm là các thực tại khách quan được
phân chia rất chi li, cho nên các từ chỉ bộ phận của tay trong tiếng Hán cổ được gọi
tên bằng các đơn vị đơn tiết rất cụ thể. Còn trong tiếng Hán hiện đại, người ta chỉ
dùng một số từ tiếng Hán cổ, cịn lại sẽ theo mơ hình cấu tạo mới, như thêm hậu tố “子”
(zi) (tử) ,“儿”(er) (nhi) đằng sau để tạo nên từ mới.
Nhiều bộ phận của tay trong tiếng Hán do cả từ đơn và từ ghép đảm nhận và các
từ ghép chính phụ chỉ bộ phận của tay thường được cấu tạo theo mơ hình yếu tố phụ

20


đứng trước, yếu tố chính đứng sau. Đặc biệt là trong các từ ghép có từ 手 thủ với tư
cách là thành tố cấu tạo sẽ theo mơ hình: THỦ + X. Khác với tiếng Hán, các từ chỉ
bộ phận của tay trong tiếng Việt chỉ do các từ ghép chính phụ đảm nhận, trong đó
hầu hết các từ đều có từ tay với tư cách là thành tố cấu tạo theo mơ hình ngược với
tiếng Hán: X + tay (chính trước, phụ sau).

Nghiên cứu hiện tượng nhiều nghĩa của các từ chỉ tay và các bộ phận của tay
trong tiếng Hán và tiếng Việt, luận án dựa vào lý thuyết về từ và ngữ nghĩa, các
phương thức chuyển nghĩa của từ trên quan điểm truyền thống, phổ biến của các nhà
Việt ngữ học, trên tư liệu từ điển tường giải kết hợp với những kiến giải mới ở mức độ cần thiết.
3. Khi tiến hành nghiên cứu đối chiếu nghĩa của 手 trong tiếng Hán và tay, thủ
trong tiếng Việt, kết quả nghiên cứu cho thấy: Nghĩa gốc của các từ chỉ tay và các
bộ phận của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt đều giống nhau và nghĩa của 手 trong
tiếng Hán (có 18 nghĩa) phong phú hơn tay (có 9 nghĩa) và thủ (5 nghĩa) trong tiếng Việt.
Cả 手 trong tiếng Hán và tay trong tiếng Việt, ngồi việc chỉ chi trên của cơ thể
con người, cịn dùng để chỉ người, biểu thị chuyên môn, kỹ thuật, khả năng kiểm
sốt và cơng việc của một người. Khơng những vậy, cả 手 và tay còn được dùng để
chỉ khả năng cầm nắm đồ vật hay biểu thị động tác, hành động do bản thân tự thực
hiện cũng như phương hướng, địa điểm và chỉ thứ tự, trình tự ra đời của tác phẩm
văn học hay tài liệu. Nghĩa của 手 trong tiếng Hán và thủ trong tiếng Việt ngoài
dùng để chỉ người hay dùng để biểu thị tay nghề, năng lực, vị trí của một người
trong cơng việc còn được dùng để chỉ hành động tham gia vào hoạt động nào đó của
một người.
Do sự khác biệt về tư duy văn hoá và phong tục tập quán của người dân ở hai
nước Trung Quốc và Việt Nam dẫn đến 手 trong tiếng Hán và tay, thủ trong tiếng
Việt có nhiều nghĩa phái sinh khác nhau. Từ 手 trong tiếng Hán ngồi làm danh từ
cịn có thể làm lượng từ (danh từ chỉ loại) cho một số đồ vật, làm lượng từ miêu tả
kỹ năng, kỹ xảo và còn được coi là đơn vị tiền tệ, dùng để trao đổi hàng hoá của
người dân tộc ở khu vực Tây Nam, Trung Quốc trước đây. Không những vậy, 手
trong tiếng Hán cịn có nghĩa chỉ mạch “寸口” (mạch thốn khẩu) theo quan niệm của
Đông y, Trung Quốc. Từ tay trong tiếng Việt đều khơng có các nghĩa phái sinh này.
Ngược lại, vì có sự giống nhau về hình dạng bên ngồi nên theo tư duy của người
Việt Nam, tay cịn dùng để chỉ chi trên của một số động vật (tay gấu, tay vượn) hoặc
bộ phận của một số đồ vật có hình dáng giống như hình dáng của tay (tay ghế, tay
đẫy, tay vịn, tay thang). Ngoài ra, khi xuất hiện trong một số cụm từ như “tay đôi,
tay ba… ” tay cịn có nghĩa chỉ bên tham gia vào một việc nào đó và biểu thị ở tình

trạng khơng có gì trong tay.

21


Qua khảo sát các bộ phận của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt, chúng tôi thấy
rằng tất cả các từ chỉ tay trong tiếng Hán và tiếng Việt đều cùng một từ loại là danh
từ và có cùng chức năng cơ bản là định danh. Dựa theo quan điểm giải phẫu định
khu chi trên, các tác giả ở Trung Quốc và Việt Nam đều có quan điểm chung là chia
chi trên thành 6 đoạn, bao gồm: vai, cánh tay, khuỷu, cẳng tay, cổ tay và bàn tay.
Khi đối chiếu nghĩa của một số từ (7 từ) chỉ bộ phận của tay giữa tiếng Hán và
tiếng Việt chúng tôi thấy rằng nghĩa gốc của các từ đều giống nhau nhưng nghĩa
phái sinh khác nhau. Trong số các từ chỉ bộ phận của tay được khảo sát, tiếng Hán
chỉ có 1 từ là từ đơn nghĩa, chiếm tỉ lệ 14.2% và 6 từ là từ đa nghĩa, chiếm tỉ lệ
85.8%; tiếng Việt có đến 4 từ là từ đơn nghĩa, chiếm tỉ lệ 57.1% và 3 từ là từ đa
nghĩa, chiếm tỉ lệ 42.9%. Do vậy, số lượng nghĩa của các từ chỉ bộ phận của tay
trong tiếng Hán phong phú và đa dạng hơn trong tiếng Việt. Các từ đa nghĩa chỉ bộ
phận của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt đều được chuyển nghĩa theo phương thức
ẩn dụ và hốn dụ.
Áp dụng phương pháp phân tích thành tố nghĩa phân giải lời định nghĩa từ điển
của các từ chỉ bộ phận của tay trong tiếng Hán và tiếng Việt, chúng tơi nhận thấy
cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm trường từ vựng ngữ nghĩa này xuất hiện 4 nét nghĩa,
bao gồm: 1. Tên gọi chỉ loại, 2. Vị trí, 3. Chức năng, 4. Hình dạng. Trong cấu tạo
nội dung nghĩa của trường từ vựng ngữ nghĩa này, mỗi nét nghĩa có vai trị, vị trí
khác nhau.
Từ trường nghĩa chỉ tay và bộ phận của tay, sau khi kết hợp với một số tổ hợp
từ, sinh ra nghĩa mới, các từ chỉ tay và bộ phận của tay đã chuyển sang các trường
từ vựng ngữ nghĩa khác nhau, như: chỉ đồ vật ( “手铐” (cịng tay), “手轮” (vơ
lăng/bánh lái), tay bàn, tay ghế, tay đòn), chỉ bộ phận của cơ thể động vật (熊掌
(bàn chân gấu), 鸭掌 (chân vịt)), chỉ thực vật (鹅掌楸 (cây chân ngỗng), chỉ hoa

quả (佛手柑 quả phật thủ.) , chỉ món ăn (酱肘子 chân giị dầm tương), chỉ cơng
cụ (马掌 móng ngựa), chỉ bộ phận của dịng sông (khuỷu sông).
4. Dựa theo khái niệm về động từ và động từ chỉ các hoạt động của tay, luận án
thống kê được 185 động từ chỉ hoạt động của tay trong tiếng Hán, trong đó có 128
từ đơn (chiếm tỉ lệ 69.2%), 57 từ ghép (chiếm tỉ lệ 30.8%), có 66 từ đơn nghĩa,
chiếm tỉ lệ 35.7% và có 119 từ đa nghĩa (có từ 2 nghĩa trở lên), chiếm tỉ lệ 64.3%.;
thống kê được 172 động từ chỉ hoạt động của tay trong tiếng Việt, trong đó có 153
từ đơn (chiếm tỉ lệ 88.9 %), 19 từ ghép (chiếm tỉ lệ 11.1%), có 57 từ đơn nghĩa,
chiếm tỉ lệ 33.1% và có 115 từ đa nghĩa (có từ 2 nghĩa trở lên), chiếm tỉ lệ 66.9%.

22


Con số thống kê nêu trên chúng tôi chưa dám khẳng định là đầy đủ, nhưng cũng
đạt được vấn đề cho việc cần thống kê và nghiên cứu về nhóm động từ quan trọng và được
sử dụng phổ biến trong cuộc sống hàng ngày này.
Dựa vào lý thuyết phân loại trường nghĩa cũng như tham khảo nghiên cứu của
các tác giả đi trước, chúng tôi phân lập các động từ biểu thị hoạt động của tay trong
tiếng Hán và tiếng Việt thành 25 nhóm trường từ vựng ngữ nghĩa. Sau khi tiến
hành tiến hành khảo sát trường hợp: đối chiếu nghĩa của một số nhóm động từ và
đối chiếu một số động từ cụ thể giữa tiếng Hán và tiếng Việt, chúng tơi rút ra nhận
xét như sau:
Mỗi nhóm tiểu trường có đặc điểm chung là đều có những từ ngữ trung tâm đặc
trưng cho tiểu trường đó. Trong đó, một số từ chỉ hoạt động của tay trong tiếng Hán
và tiếng Việt có thể thuộc nhiều tiểu trường khác nhau. Các động từ trong cùng một
nhóm tiểu trường thơng thường sẽ có nét nghĩa biểu thị chức năng giống nhau. Đây là
nét nghĩa trung tâm, hạt nhân của nhóm từ và xuất hiện ở tất cả các từ trong nhóm.
Cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm trường từ vựng ngữ nghĩa chỉ hoạt động của tay trong
tiếng Hán và tiếng Việt xuất hiện 5 nét nghĩa, bao gồm: 1/ Nét nghĩa chỉ chủ thể của
hoạt động, 2/ Nét nghĩa chỉ hoạt động (nắm), 3/ Nét nghĩa chỉ mục đích của hoạt động,

4/ Nét nghĩa chỉ đối thể của hoạt động (đồ vật) và 5/ Nét nghĩa chỉ vị trí.
Số lượng nghĩa của các động từ chỉ hoạt động của tay không tương đồng, nghĩa
phái sinh của các động từ trong tiếng Hán phong phú hơn tiếng Việt. Nguyên nhân
là do sự vận động và hướng chuyển nghĩa của các nghĩa phái sinh của các từ trong
hai cộng đồng ngôn ngữ không giống nhau.
Nghĩa phái sinh của các từ đều được tạo ra theo phương thức chuyển nghĩa ẩn
dụ và hoán dụ. Các nghĩa phái sinh của các cặp động từ đều có thể quan hệ trực
tiếp hoặc gián tiếp với nghĩa gốc và tất cả các nghĩa đều liên hệ với nhau làm thành
một hệ thống. Các nghĩa phái sinh đều có xu hướng chuyển nghĩa xa dần với nghĩa
gốc, như: từ “拿” trong tiếng Hán có 9 nghĩa phái sinh, với nghĩa gốc biểu thị hoạt
động cầm nắm của tay và ngón tay, theo dịng chuyển nghĩa hốn dụ sinh ra nghĩa
biểu thị cố ý làm ra vẻ gì đó (拿架子 (làm ra vẻ, kênh kiệu), 拿腔作势 (làm bộ làm
tịch)), tiếp tục với dòng chuyển nghĩa này sinh ra nghĩa biểu thị vật thể bị thay đổi
do một hành động tác động vào. Từ “cầm” trong tiếng Việt đều khơng có các nghĩa
phái sinh này nhưng từ nghĩa gốc ban đầu từ cầm trong tiếng Việt tạo ra nghĩa phái
sinh biểu thị coi như là chủ quan đã nắm được vấn đề (cầm được phần thắng), hay
là biểu thị việc giữ chân ai đó tại một vị trí (cầm chân). Từ 拿 trong tiếng Việt khơng có các
nghĩa phái sinh này.

23


×