Tải bản đầy đủ (.doc) (159 trang)

Những bài văn hay và xúc động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 159 trang )

Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
Bài văn gây xúc động về thành công
Trên mạng xã hội Facebook, bài văn của một học sinh lớp 10 chuyên Văn một
trường chuyên ở Hà Nội về "một bài học ý nghĩa, sâu sắc mà cuộc sống đã tặng cho
em" đang nhận được nhiều chia sẻ.
Theo giới thiệu, bài văn được viết ngày 6/9/2006 và nhận điểm 9 với lời phê::
"Cảm ơn em đã tặng cô một bài học, một lời động viên vào lúc cô cần nó nhất. Em đã
thực sự thành công đấy. Mong em tiếp tục thành công".
Dưới đây là nội dung bài viết.

Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình theo đuổi?
Phải chăng, đó là kết quả hoàn hảo trong công việc, sự chính xác đến từng chi tiết? Hay
đó là cách nói khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một cuộc sống giàu sang, được mọi
người nể phục? Vậy thì bạn hãy dành chút thời gian để lặng mình suy ngẫm. Cuộc sống
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
1
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
sẽ chỉ cho bạn có những người đạt được thành công theo một cách giản dị đến bất ngờ.
Thành công là khi bố và con trai có dũng khí bước vào bếp, nấu những món ăn mẹ thích
nhân ngày 8-3. Món canh có thể hơi mặn, món cá sốt đáng lẽ phải có màu đỏ sậm thì lại
ngả sang màu… đen cháy. Nhưng nhìn mâm cơm, mẹ vẫn cười. Bởi vì hai bố con không
thể thành công trên “chiến trường” bếp núc, nhưng lại thành công khi tặng mẹ “đoá hồng”
của tình yêu. Một món quà ý nghĩa hơn cả những món quà quý giá, hạnh phúc ấy long
lanh in trong mắt mẹ.
Thành công còn là hình ảnh một cậu bé bị dị tật ở chân, không bao giờ đi lại bình
thường được. Từ nhỏ, cậu đã nuôi ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá. Sau bao nỗ lực khổ
luyện, cậu bé trở thành cầu thủ dự bị trong một đội bóng nhỏ, và chưa bao giờ được chính
thức ra sân. Nhưng đó không phải là thất bại. Trái lại, thành công đã nở hoa khi cậu bé
năm xưa, với bao nghị lực và quyết tâm, đã chiến thắng hoàn cảnh để theo đuổi ước mơ


từ ngày thơ bé. Thành công ấy, liệu có mấy người đạt được?
Sau mỗi mùa thi đại học, có bao “sĩ tử” buồn rầu khi biết mình trở thành “tử sĩ”.
Hai bảy điểm, cao thật đấy. Nhưng cao mà làm gì khi NV1 lấy tới hai bảy phẩy năm? Đó
thật ra không phải là thất bại, chỉ là khi thành công – bị – trì – hoãn mà thôi. Cuộc sống
vẫn chào đón họ với NV2, NV3. Quan trọng là họ đã nỗ lực hết sức để khẳng định mình.
Đó là ý nghĩa vẹn nguyên của các kỳ thi, và cũng là bản chất của thành công.
Ngày còn nhỏ, tôi đã được đọc một câu chuyện rất xúc động. Truyện kể về một cậu
bé nghèo với bài văn tả lại mẹ – người phụ nữ đã che chở cuộc đời em. Cậu bé viết về
một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi bàn tay ram ráp nhăn nheo nhưng dịu hiền
và ấm áp. Cậu kết luận rằng: bà ngoại là người mẹ – người phụ nữ đã nâng đỡ em trong
suốt hành trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề, phải về nhà viết lại. Nhưng đó mới chính là
một tác phẩm thành công, bởi ở đó chất chứa tình yêu thương của đứa cháu mồ côi dành
cho bà ngoại. Liệu có thành công nào, tình cảm nào thiêng liêng hơn thế?
Nhiều năm trước, báo chí từng vinh danh một cậu học trò nghèo thi đậu đại học
với vị trí thủ khoa. Đối với cậu, đó là một thành công lớn. Nhưng có một thành công
khác, lặng thầm mà lớn lao, đó là chiến thắng của một người cha gần 20 năm trời đạp xích
lô nuôi con ăn học. Bao niềm tin và hi vọng hiện lên trên gương mặt vốn đã chịu nhiều
khắc khổ. Và ngày con trai đậu đại học cũng là ngày tốt nghiệp khoá – học – của – một-
người – cha.
Tôi biết có một nữ sinh tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu gần hai mươi năm
trước. Với tài năng của mình, cô có thể gặt hái thành công trên con đường sự nghiệp và
danh vọng. Nhưng cô sinh viên năm ấy đã chấp nhận hi sinh những cơ hội của đời mình
để trở thành một người vợ đảm đang, một người mẹ dịu hiền của hai cô công chúa nhỏ.
Cho tới bây giờ, khi đã là một phụ nữ trung niên, Người vẫn nói với tôi rằng: “Chăm sóc
bố và hai con chu đáo, đối với mẹ đã là một thành công lớn”. Mỗi khi nghe câu nói ấy, tôi
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
2
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu

lại rơi nước mắt. Gia đình là hạnh phúc, là thành quả đẹp đẽ của đời mẹ, và chúng tôi phải
cảm ơn mẹ vì điều đó.
Con người luôn khát khao thành công, nhưng mù quáng theo đuổi thành công thì
thật là vô nghĩa. Bạn muốn mình giàu có, muốn trở thành tỷ phú như Bill Gates? Vậy thì
hãy gấp đồng tiền một cách cẩn thận rồi trao nó cho bà cụ ăn xin bên đường. Với việc làm
đẹp đẽ ấy, bạn sẽ cho mọi người hiểu được bạn không chỉ giàu có về vật chất mà còn giàu
có tâm hồn. Khi đó, bạn đã thực sự thành công.
Cũng có khi bạn ước mơ thành công sẽ đến với mình như đến với Abramovich –
ông chủ của đội bóng toàn những ngôi sao? Thành công chẳng ở đâu xa, chỉ cần bạn dành
thời gian chăm sóc cho “đội bóng” của gia đình bạn. Ở đó, bạn nhận được tình yêu
thương vô bờ bến, thứ mà Abramovich không nhận lại được từ những cầu thủ của ông ta.
Thành công đến với mọi người một cách giản dị và ngọt ngào như thế!
Bạn được sinh ra, đó là một thành công vĩ đại của cha và mẹ. Trách nhiệm của bạn
là phải gìn giữ cho vẻ đẹp hoàn thiện của thành công ấy. Đừng bao giờ ủ ê nghĩ rằng cuộc
sống là một chuỗi của thất bại, bởi như một giáo sư người Anh từng nói: “Cuộc sống này
không có thất bại, có chăng là cách chúng ta nhìn nhận mọi việc mà thôi”. Còn đối với
tôi, thành công là khi ai đó đọc được bài viết nhỏ này. Có thể sẽ chẳng được điểm cao,
nhưng gửi gắm được những suy nghĩ của mình vào trang viết, với tôi, đó là một thành
công.
Theo VietNamNet
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
3
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
Bài văn đạt điểm 10 kỳ thi Đại học năm 2009
Thủ khoa khối D1 ngành Tài chính ĐH Cần Thơ Nguyễn Trung Ngân, đạt điểm 10 môn
Văn. Nữ sinh này từng đoạt giải "Bài văn gây xúc động nhất" trong một cuộc thi gần đây.
Nguyễn Trung Ngân ngồi giữa cùng cha mẹ
Câu 1 (2 điểm): Anh/ chị hãy nêu những nét chính trong quan điểm nghệ thuật

của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám.
Nam Cao là một nhà văn lớn của nền văn học hiện thực phê phán nói riêng và là
một nhà văn lớn của văn học Việt Nam nói chung. Sở dĩ Nam Cao có một vị trí xứng
đáng như vậy bởi cả cuộc đời cầm bút của mình, ông luôn trăn trở để nâng cao "Đôi Mắt"
của mình. Tất cả những gì Nam Cao để lại cho cuộc đời chính là tấm gương của một
người "trí thức trung thực vô ngần" luôn tự đấu tranh để vươn tới những cảnh sống và tâm
hồn thật đẹp. Với những nét tiêu biểu như vậy, Nam Cao đã thể hiện qua một hệ thống
các quan điểm sáng tác của mình trước cách mạng tháng Tám.
Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám được thể hiện
qua "Trăng Sáng" và "Đời Thừa". Trong "Trăng Sáng", nhà văn quan niệm văn chương
nghệ thuật phải "vị nhân sinh", nhà văn phải viết cho hay, cho chân thực những gì có thật
giữa cuộc đời, giữa xã hội mà mình đang sống. Ông viết "Chao ôi! Nghệ thuật không là
ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ
kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than". Đó chính là quan điểm nghệ thuật của Nam
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
4
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
Cao. Trước cách mạng, Nam Cao mang tâm sự u uất, đó không chỉ là tâm trạng của một
người nghệ sĩ "tài cao, phận thấp, chí khí uất" (Tản Đà) mà đó còn là tâm sự của người
người trí thức giàu tâm huyết nhưng lại bị xã hội đen tối bóp nghẹt sự sống. Nhưng Nam
Cao không vì bất mãn cá nhân mà ông trở nên khinh bạc. Trái lại ông còn có một trái tim
chan chứa yêu thương đối với người dân nghèo lam lũ. Chính vì lẽ đó mà văn chương của
ông luôn cất lên "những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than".
Trong "Đời thừa", một tác phẩm tiêu biểu của văn Nam Cao trước cách mạng,
Nam Cao cũng có những quan điểm nghệ thuật. Khi mà ta đã chọn văn chương nghệ thuật
làm nghiệp của mình thì ta phải dồn hết tâm huyết cho nó, có như thế mới làm nghệ thuật
tốt được. "Đói rét không có nghĩa lý gì đối với gã tuổi trẻ say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp.
Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo

vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, suy ngẫm, tìm tòi, nhận
xét, suy tưởng không biết chán. Đối với hắn lúc ấy, nghề thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật
không có gì đáng quan tâm nữa ". Nam Cao còn quan niệm người cầm bút phải có lương
tâm và trách nhiệm đối với bạn đọc, phải viết thận trọng và sâu sắc: "sự cẩu thả trong bất
cứ nghề gì cũng là sự bất lương rồi, còn sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện".
Với Nam Cao, bản chất của văn chương là đồng nghĩa với sự sáng tạo "văn chương không
cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ
dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng
tạo những gì chưa có". Quan điểm của Nam Cao là, một tác phẩm văn chương đích thực
phải góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc: Nó phải chứa đựng một cái gì đó vừa lớn
lao vừa cao cả, vừa đau đớn vừa phấn khởi: "Nó ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công
bình, nó làm người gần người hơn".
Văn nghiệp của Nam Cao (1915-1951) chủ yếu được thể hiện trước cách mạng
tháng Tám. Quan điểm sáng tác thể hiện trong hai truyện "Trăng Sáng" và "Đời Thừa"
giúp ta hiểu sâu hơn về Nam Cao. Qua đó, ta thấy được những đóng góp về nghệ thuật
cũng như tư tưởng của Nam Cao cho văn học Việt Nam. Từ đấy giúp ta hiểu vì sao Nam
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
5
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
Cao - một nhà văn chưa tròn bốn mươi tuổi lại để lại cho cuộc đời một sự nghiệp văn
chương vĩ đại đến như vậy.
Câu 2 (5 điểm): Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm
cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).
Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô
Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "truyện
Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc
(1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính
điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong

"Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng
nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều
biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và
hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và
thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa
đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của
cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là tâm lý của
một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch.
Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị
không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi,
lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà
thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một
người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém.
Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá
ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi".
Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai
sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
6
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc
sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể
hiện trong đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình
cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo
quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm
đẹp thời xa xưa Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng

sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói"
được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với
mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự
sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là
một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về
vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ
khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức
thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc
sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.
Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và
buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm
nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ
đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay
"Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự
việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý
Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người
khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy
đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ
cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
7
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng
nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi
hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế
kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt

nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm
thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt
trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra
“Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì
bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với
cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ
không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi.
Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân
phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn
biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này,
chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc
gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do
gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị
bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên
cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ
sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa
chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng
nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng
lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A
Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị
nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến
thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại
tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
8
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo
và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện
động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy
đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang
trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở
đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt
chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy
quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt
bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao
nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống
và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn
đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô
hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai
người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi
buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến
Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức
quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ
cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã
ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người
phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm
hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu
thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng
nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng
định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống
lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu
được nhiều điều trong cuộc sống.
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
9

Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung,
ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong
cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời
văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện
Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao
tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng
bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện
ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.
Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ
của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát
vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân
đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.
Phần riêng (3 điểm): Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”
của Hàn Mặc Tử:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Cảm nhận thơ trữ tình xét cho cùng là cảm nhận "cái tình" trong thơ và tâm trạng
của nhân vật trữ tình trước thiên nhiên, vũ trụ, đất trời. Đến với thơ ca lãng mạn Việt
Nam, giai đoạn 1932 -1945 "ta thoát lên trên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình
cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng
Xuân Diệu" (Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam). Đúng thế, bạn đọc đương thời và hôm
nay yêu thơ của Hàn Mặc Từ bởi chất "điên cuồng" của nó. Chính "chất điên" ấy đã làm
nên phong cách nghệ thuật độc đáo, riêng biệt, mới mẻ của Hàn Mặc Tử. "Chất điên"
trong thơ ông chính là sự thay đổi của tâm trạng khó lường trước được. Nét phong cách
đặc sắc ấy đã hội tụ và phát sáng trong cả bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của nhà thơ rất tài
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động

Trang
10
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
hoa và cũng rất đỗi bất hạnh này. "Đây thôn Vĩ Dạ" trích từ tập Thơ Điên của Hàn Mặc
Tử. Chất điên cuồng ấy thể hiên cụ thể và rõ nét trong khổ thơ:
"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Với lời trách cứ nhẹ nhàng dịu ngọt vừa như một lời mời, Hàn Mặc Tử trở về với
thôn Vĩ Dạ trong mộng tưởng:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cây nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ - một làng kề sát thành phố Huế bên bờ Hương Giang với
những vườn cây trái, hoa lá sum suê hiện lên thật nên thơ, tươi mát làm sao. Đó là một
hàng cau thẳng tắp đang tắm mình dưới ánh “nắng mới lên” trong lành. Chưa hết, rất xa là
hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” còn rất gần lại là “vườn ai mướt quá xanh như
ngọc”. “Mướt quá” gợi cả cây non tràn trề sức sống xanh tốt. Màu “mướt quá” làm cho
lòng người như trẻ hơn và vui tươi hơn. Lời thơ khen cây cối xanh tốt nhưng lại như
huyền ảo, lấp lánh mới thấy hết cẻ đẹp của “vườn ai”. Trong không gian ấy hiện lên
khuôn “mặt chữ điền” phúc hậu, hiền lành vừa quen vừa lạ, vừa gần, vừa xa, vừa thực
vừa ảo bởi “lá trúc che ngang”. Câu thơ đẹp vì sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.
“Trúc xinh” và “ai xinh” bên nhau làm tôn lên vẻ đẹp của con người. Như vậy tâm trạng
của nhân vật trữ tình ở đoạn thơ này là niềm vui, vui đến say mê như lạc vào cõi tiên, cõi
mộng khi được trở về với cảnh và người thôn Vĩ.
Thế nhưng cũng cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian có sự biến đổi từ
“nắng mới lên” sang chiều tà. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng có sự biến đổi lớn.
Trong mắt thi nhân, bầu trời hiện lên “Gió theo lối gió mây đường mây” trong cảnh chia

li, uất hận. Biện pháp nhân hóa cho chúng ta thấy điều đó. “Gió theo lối gió” theo không
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
11
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
gian riêng của mình và mây cũng thế. Câu thơ tách thành hai vế đối nhau; mở đầu vế thứ
nhất là hình ảnh “gió”, khép lại cũng bằng gió; mở đầu vế thứ hai là “mây”, kết thúc cũng
là “mây”. Từ đó cho ta thấy “mây” và “gió” như những kẻ xa lạ, quay lưng đối với nhau.
Đây thực sự là một điều nghịch lí bởi lẽ có gió thổi thì mây mới bay theo, thế mà lại nói
“gió theo lối gió, mây đường mây”. Thế nhưng trong văn chương chấp nhận cách nói phi
lí ấy. Tại sao tâm trạng của nhân vật trữ tình vốn rất vui sướng khi về với thôn Vĩ Dạ
trong buổi ban mai đột nhiên lại thay đổi đột biến và trở nên buồn như vậy?. Trong mộng
tưởng, Hàn Mặc Tử đã trở về với thôn Vĩ nhưng lòng lại buồn chắc có lẽ bởi mối tình đơn
phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và người con gái xứ Huế mộng mơ làm nên tâm
trạng ấy. Quả thật “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nên cảnh vật xứ Huế vốn thơ
mộng, trữ tình lại bị nhà thơ miêu tả vô tình, xa lạ đến như vậy. Bầu trời buồn, mặt đất
cũng chẳng vui gì hơn khi “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.
Dòng Hương Giang vốn đẹp, thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt nam thế mà
bây giờ lại “buồn thiu” – một nỗi buồn sâm thẳm, không nói nên lời. Mặt nước buồn hay
chính là con sóng lòng "buồn thiu” của thi nhân đang dâng lên không sao giấu nổi. Lòng
sông buồn, bãi bờ của nó còn sầu hơn. “Hoa bắp lay” gợi tả những hoa bắp xám khô héo,
úa tàn đang “lay” rất khẽ trong gió. Cảnh vật trong thơ buồn đến thế là cùng. Thế nhưng
đêm xuống, trăng lên, tâm trạng của nhân vật trữ tình lại thay đổi:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Sông Hương “buồn thiu” lúc chiều dưới ánh trăng đã trở thành “sông trăng” thơ
mộng. Cắm xào đậu bên trên con sông đó là “thuyền ai đậu bến”, là bức tranh càng trữ
tình, lãng mạn. Hình ảnh “thuyền” và “sông trăng” đẹp, hài hòa biết bao. Khách đến thôn
Vĩ cất tiếng hỏi xa xăm “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu “thuyền ai” đó có chở trăng

về kịp nơi bến hẹn, bến đợi hay không? Câu hỏi tu từ vang lên như một nỗi lòng khắc
khoải, chờ đợi, ngóng trông được gặp gương mặt sáng như “trăng’ của người thôn Vĩ
trong lòng thi nhân. Như thế mới biết nỗi lòng của nhà thơ giành cho cô em gái xứ Huế
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
12
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
tha thiết biết nhường nào. Tình cảm ấy quả thật là tình cảm của “Cái thưở ban đầu lưu
luyến ấy. Ngàn năm nào dễ mấy ai quên” (Thế Lữ).
Đến đây ta hiểu thêm về lòng “buồn thiu” của nhân vật trữ tình trong buổi chiều.
Như vậy diễn biến tâm lí của thi nhân hết sức phức tạp, khó lường trước được. Chất
“điên” của một tâm trạng vui với cảnh, buồn với cảnh, trông ngóng, chờ đợi vẫn được thể
hiện ở khổ thơ kết thúc bài thơ này:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Vẫn là một tâm trạng vui sướng được đón “khách đường xa” - người thôn Vĩ đến
với mình, tâm trạng nhân vật trữ tình lại khép lại trong một nỗi đau đớn, hoài nghi “Ai
biết tình ai có đậm đà?”. “Ai” ở đây vừa chỉ người thôn Vĩ vừa chỉ chính tác giả. Chẳng
biết người thôn Vĩ có còn nặng tình với mình không? Và chẳng biết chính mình còn mặn
mà với “áo em trắng quá” hay không? Nỗi đau đớn trong tình yêu chính là sự hoài nghi,
không tin tưởng về nhau. Nhân vật trữ tình rơi vào tình trạng ấy và đã bộc bạch lòng mình
để mọi người hiểu và thông cảm. Cái mới của thơ ca lãng mạn giai đoạn 1932 - 1945
cũng ở đó.
Đọc xong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, nhất là khổ thơ “Gió theo
lối gió -…. kịp tối nay” để lại trong lòng người đọc những tình cảm đẹp. Đoạn thơ giúp ta
hiểu thêm tâm tư của một nhà thơ sắp phải giã từ cuộc đời. Lời thơ vì thế trầm buồn, sâu
lắng, đầy suy tư.

Bạn đọc đương thời yêu thơ của Hàn Mặc Tử bởi thi nhân đã nói hộ họ những tình
cảm sâu lắng nhất, thầm kín nhất của mình trong thời đại cái “tôi”, cái bản ngã đang tự
đấu tranh để khẳng định. Tình cảm trong thơ Hàn Mặc Tử là tình cảm thực, do đó nó sẽ ở
mãi trong trái tim bạn đọc. Ấn tượng về một nhà thơ của đất Quảng Bình đầy nắng và gió
sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí người Việt Nam

Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
13
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
Nguyễn Trung Ngân (dự thi ĐH Cần Thơ)
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
14
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
Bài văn đạt giải nhất môn Ngữ văn khối chuyên tỉnh Thừa
Thiên Huế năm học 2010-2011
Câu 1: Anh/chị hãy trình bày những suy ngẫm của mình sau khi đọc câu
chuyện sau:
NHỮNG DẤU CHẤM CÂU
Có một người chẳng may đánh mất dấu phẩy. Anh ta trở nên sợ những câu phức
tạp và chỉ tìm những câu đơn giản. Đằng sau những câu đơn giản là những ý nghĩa đơn
giản.
Sau đó, không may, anh ta lại làm mất dấu chấm than. Anh bắt đầu nói khe khé,
đều đều, không ngữ điệu. Anh không cảm thán, không xuýt xoa. Không gì có thể làm anh
ta sung sướng, mừng rỡ hay phẫn nộ nữa cả. Đằng sau đó là sự thiếu quan tâm với mọi
điều.
Một thời gian sau, anh ta đánh mất dấu hai chấm. Từ đó anh ta không liệt kê được,

không còn giải thích được hành vi của mình nữa, lúc nào cũng chỉ trích dẫn lời của người
khác. Thế là anh ta hoàn toàn quyên mất cách tư duy.
Cứ như vậy, anh ta đến dấu chấm hết.
Thiếu những dấu chấm câu trong một bài văn, có thể bạn chỉ bị điểm thấp vì bài
văn của bạn mất ý nghĩa. Nhưng mất những dấu chấm câu trong cuộc đời, tuy không ai
chấm điểm nhưng cuộc đời bạn cũng mấy ý nghĩa như vậy.
Mong bạn giữ gìn cẩn thận những dấu chấm câu của mình, bạn nhé!
(Theo Hạt giống tâm hồn, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2010)
Câu I:
Cuộc sống là kết nối, vũ trụ bao la, vô tận là sự góp nhặt, là sự tổng hợp từ những
điều bé nhỏ nhất. Chính những lẽ đơn giản ấy làm nên một cuộc sống có ý nghĩa, hay như
nhà văn Cleck đã nói, đại ý rằng: Ai trong chúng ta cũng mong muốn làm những điều lớn
lao nhưng không biết rằng cuộc sống làm nên từ những điều thật nhỏ bé. Cuộc đời chỉ có
ý nghĩa khi ta biết nâng niu, trân trọng và gìn giữ những điều vi mô ấy. Những dòng văn
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
15
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
tự sự trong mạch suy ngẫm, tự nhận thức của câu chuyện "Những dấu chấm câu" đã đem
đến cho tôi thật nhiều xúc cảm, thật nhiều suy nghĩ về cuộc sóng, về những hạt giống tâm
hồn bé nhỏ đang ươm lên trong tâm hồn ta đợi ngày kết trái, đơm hoa.
Câu chuyện "Những dấu chấm câu" gợi cho ta trường suy nghĩ về cuộc đời. Ngay
khi đọc tiêu đề câu chuyện, ta đã không khỏi bất ngờ và đề câu chuyện, ta đã không khỏi
bất ngờ và tự hỏi: Tại sao lại là "những dấu chấm câu"? Nó thì có liên quan gì đến ta?
Trong ngôn ngữ, mỗi dấu chấm câu có chức năng riêng của mình, tuy nhỏ nhưng "thiếu
những dấu chấm câu trong bài văn" thì "bài văn của bạn mất ý nghĩa". Bởi lẽ, những dấu
chấm câu có nhiệm vụ chia tách thành phần câu, hay làm rõ, các thành phần phụ chú,
hoặc chỉ đơn giản là biểu hiện ngữ điệu câu. Từ nghĩa tường minh của "những dấu chấm
câu" ta có thể nhận ra rằng chính nhờ những dấu câu mà bài văn rõ ràng, mạch lạc, hợp

logich và quan trọng hơn cả dấu chấm câu chia tách ý nghĩa các câu văn. Thiếu dấu chấm
câu cũng đồng nghĩa với việc bài văn mất đi sự mạch lạc trong bố cục và sự tường minh
trong ý nghĩa. Vậy nên chính những dấu câu là nền tảng sự thành công của một bài văn.
Câu chuyện là dòng nhận thức khi con người mất dần từ dấu phẩy, rồi dấu chấm than,
chấm hỏi, tiếp đó là hai chấm, cuối cùng dẫn đến anh ta đi đến dấu chấm hết nghĩa là anh
ta mất tất cả. Bởi anh ta đã mất dần đi sự suy nghĩ, sự tư duy của chính bản thân mình. Ý
nghĩa câu chuyện chính là đánh mất giá trị của bản thân.
Từ trong câu chuyện "Những dấu chấm câu" ta đã thấy được quá trình đánh mất
chính bản thân mình, đi đến dấu chấm hết của nhân vật "anh". Ban đầu, anh ta "chẳng
may đánh mất dấu phẩy" và trở nên "sợ những câu phức tạp", "chỉ tìm những câu đơn
giản". Cuộc sống của anh không có sự tìm hiểu, suy xét mà chỉ đơn giản sống một cách
bằng phẳng, nhợt nhạt - một lỗi "sống mòn". Rồi anh ta mất dấu chấm than, anh "không
cảm thán , xuýt xoa, không gì làm anh ta sung sướng, mừng rỡ hay phẫn nộ nữa cả". Anh
ta thờ ơ với mọi điều tức là anh ta đã bước một chân vào hỗ sâu của sự vô cảm và đến khi
anh ta đánh mất dấu chấm hỏi, nghĩa là anh không còn khả năng học hỏi, không còn quan
tâm mọi điều. Anh ta đã rơi vào hỗ sâu của bóng tối, đứng ngoài cuộc đời - vô cảm, lãnh
đạm với tất cả. Một thời gian sau, anh ta "mất dấu hai chấm", đồng nghĩa với việc không
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
16
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
thể liệt kê, giải thích hành vi của mình" và chỉ biết "trích dẫn lời người khác" tức là anh ta
chỉ là cái bóng, chỉ có thể sống trông theo cách nghĩ của người khác, "không được là tôi
trọn vẹn". Cuối cùng, anh mất tất cả. Anh đã không còn là anh, cuộc đời cũng mất ý
nghĩa. Những dấu chấm câu tuy chỉ bé nhỏ, đơn giản nhưng nó cũng chính là điều vĩ mô.
Lời nhận xét cuối câu chuyện cũng là lời nhận thức, lời đánh giá nhẹ nhàng mà vô cùng
sâu sắc: Mất những dấu chấm câu trong bài viết của mình bạn có thể bị điểm thấp vì bài
văn mất ý nghĩa "nhưng mất dấu chấm câu trong cuộc đời, tuy không ai chấm điểm nhưng
cuộc đời của bạn cũng mất ý nghĩa như vậy". Lời tác phẩm cũng như một lời khuyên nhẹ

nhàng "mong bạn giữ gìn, những dấu chấm câu của mình", mong bạn hãy giữ gìn những
điều nhỏ bé làm nên cuộc sống của mình và đừng bao giờ đánh mất bản thân mình. Từ
trong câu chuyện nhân vật anh đã rơi rớt, đã đánh mất dần những thứ nhỏ bé nhất, những
dấu chấm câu ngỡ nhỏ nhoi ấy, nhưng khi mất đi cũng có nghĩa là anh ta đã mất đi những
điều lớn lao, những giá trị của cuộc sống. Bạn có biết vì sao lá cây có màu xanh không?
Bởi lá được cấu tạo từ chất diệp lục - những chất diệp lục ngỡ như nhỏ bé ấy đã làm nên
sự sống của lá, mất dần đi chất diệp lục, lá xanh sẽ thành lá vàng rồi sẽ rơi, sẽ "chết". Bạn
có biết để xây một ngôi trường người ta cần những hạt cát bé nhỏ, những viên gạch, viên
đá. Bạn thấy không, tất cả những gì quanh ta đều được cấu thành từ những điều bé nhỏ.
Vậy tại sao trong cuộc sống hiện nay chúng ta lại đánh mất những điều nhỏ bé? Biểu hiện
rõ ràng nhất của sự đánh mất bản thân là khi ta không còn là ta 'bên ngoài một đằng, bên
trong một nẻo", ta sống bằng những thứ của chính mình. Từ một con người giản dị ta có
thể ào theo cơn lốc thời trang, cơn lốc thần tượng, khoác lên mình những vỏ bọc không
phù hợp với bản thân mình. Ta không còn ăn những bát cơm mẹ nấu bên gia đình mà đến
với những quán bar, quán cà phê xập xình tiếng nhạc. Chúng ta mất dần sự liên kết với
phần hồn trinh bạch ban đầu và đi đến sự đánh mất bản thân khi ta rơi mất những điều
thật nhỏ bé.
Nguyên nhân của lỗi sống ấy chính là do ngày nay chúng ta sống quá vội - lỗi
sống "mì ăn liền". Chính vì lỗi sống không biết nghĩ đến tương lai giữ gìn giá trị bản thân
đã dẫn đến sự đánh mất chính mình. Thế giới không ngừng thay đổi, bố mẹ lao vào guồng
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
17
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
quay bạc tiền, con cái cũng rời xa sự chăm lo gia đình êm ấm, và chỉ mải mê học hoặc
mải mê ăn chơi chạy theo những giá trị vật chất tầm thường bên ngoài.
Một trong nhiều điều đáng lo ngại là lối sống ấy hiện nay đang lan ra rất nhiều, rất
nhanh, rất mạnh mẽ, như một 'khối u" băng hoại nhân cách con người. Dù lối sống đánh
mất giá trị con người ấy chỉ tồn tại trong một nhóm ít giới trẻ những ai dám chắc rằng:

"khối u" ấy không di căn? Đất nước ta đang ngày càng phát triển và những giá trị truyền
thống của dân tộc như: "tranh Đông Hồ gà lợ nét tươi trong" như phẩm chất, vẻ đẹp lỗi
sống "lối sống dùng dằng con sông không chảy/sông chảy vào dòng nên Huế rất sâu".
Cũng dễ dàng bị mất đi. Tôi đã chứng kiến rất nhiều người để tuột khỏi tay mình "những
dấu chấm câu" rồi đi đến "dấu chấm hết" trong đời. Trong truyền thống Á Đông, con
người Việt Nam luôn hiền hòa, biết yêu thương con người và người phụ nữ luôn là những
người hiền hòa, biết yêu thương con người hiền lành, nhỏ nhẹ. Nhưng một câu hỏi lớn
đang đặt ra: Nạn bạo hành trong xã hội của lớp trẻ ngày nay liệu có phải là sự mất dần
bản thân? ngay trong văn hóa ứng xử đi đường - văn hóa giao thông tôi cũng đã thấy
người ta dần mất đi chính bản thân mình, người ta chen lẫn xô đẩy nhau. Đâu rồi những
con người hiền hậu? trong tiếng còi xe, tôi cũng nghe thấy lời de dọa: tránh ra không tôi
sẽ cho anh biết tay! Những clip học sinh đánh nhau, lột áo, lăng mạ nhau được phát tán
rộng rãi trên mạng chứng tỏ giới trẻ đang thiếu trầm trọng văn hóa ứng xử, ký năng sống
cũng như cách tháo gỡ mâu thuẫn.
"Những dấu chấm câu" cấu thành nên những cuộc đời đang dần bị ta đánh mất
nhưng trong tôi vẫn ánh lên những niềm tin về con người Việt - nhân cách Việt. Những
làng nghề được xây dựng để bảo vệ, gìn giữ, và ai trong chúng ta cũng biết đến vẻ đẹp
nhân cách Việt tỏa sáng cùng trí thức hoa hậu Nguyễn Thị Huyền, Mai Phương Thúy
Cuộc sống bộn bề kia, cuộc sống công nghiệp đang giành lấy, cướp đi nhiều thứ
nhưng ta phải biết gìn giữ, nâng niu, coi trọng những điều bé nhỏ nhất, "yêu cái cây trồng
ở trước nhà yêu con đường đổ ra phố nhỏ" và hơn hết là yêu chính bản thân mình như lẽ
sống mà nhân vật "Trương ba" trong tác phẩm "Hồn Trương Ba - Da Hàng Thịt" (Lưu
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
18
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
Quang Vũ) đã gửi gắm: "không thể sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được, tôi
muốn đưa được là tôi trọn vẹn".
Ta hãy yêu hơn chính mình, yêu hình hài, dáng vóc cái tên mà cha mẹ đã cho ta để

ta sống là chính mình. "Một ngày là quá ngắn ngủi so với đời người. Nhưng đời người lại
được làm nên từ những ngày thật ngắn ngủi ấy". Từ cách sống trân trọng những gì nhỏ
nhất, chúng ta sẽ làm nên thành công lớn của mình. Bởi bản chất của thành công chính là
sự nâng niu, gìn giữ những giá trị sống bé nhỏ của cuộc đời.
Thông điệp trao gửi từ câu chuyện "những dấu chấm câu" cũng đã dõng lên hồi
chuông cảnh báo về lỗi sống vội vàng không ai coi trọng giá tri bản thân bởi hạnh phúc
của một cuộc đời không phải là ở những trang phục thời thượng bạn khoác lên hay phong
cách sống bạn theo đuổi mà là ở việc, ở lẽ sống là chính mình.

Nguyễn Đào Phương Thúy - học sinh lớp 12 Chuyên Văn trường PTTH Chuyên Quốc Học Huế
Theo website Sở GD&ĐT Thừa Thiên, Huế, 02/03/2011
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
19
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
Bài văn đạt giải nhì quốc gia bảng A năm 1988
Đề bài (bảng A - đề 2)
Trong truyện ngắn Trăng sáng, Nam Cao viết:
“Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa
dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”và ở
truyện ngắn Đời thừa ông cho rằng một tác phẩm có giá trị phải “chứa đựng được một cái
gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái,
sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”.
Còn Vũ Trọng Phụng, khi đáp lời báo Ngày nay của Tự Lực văn đoàn, đã nói:
“Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi
muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”.
Anh, chị hãy bình luận những ý kiến nêu trên.
Bài làm
Cuộc sống xung quanh ta không bao giờ phẳng lặng mà luôn sôi động. Cũng như

mặt biển nhiều lúc êm ả và thanh thản nhưng trong lòng nó luôn có những đợt sóng ngầm.
Là một hình thái ý thức xã hội, văn học nghệ thuật bám chặt lấy sự sống để lớn lên và
với tư cách là đứa con tinh thần, nó lại trở về noi sinh ra nó để góp phần khám phá, hiểu
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
20
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
biết và sáng tạo đời sống. Nghĩ về văn học và hiện thực đời sống, trong truyện ngắn
Trăng sáng, Nam Cao viết: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối,
nghệ thuật có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”Khi đáp lời báo
Ngày nay của Tự lực văn đoàn, Vũ Trọng Phụng đã nói: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là
tiểu thuyết. tôi và các nhà văn cùng chí hướng nhưng tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở
đời”. Và ở tác phẩm Đời thừa, Nam Cao cho rằng: Một tác phẩm có giá trị khi tác phẩm
ấy “chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng
lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”.
Cuộc sống là một vườn hoa đầy màu sắc. Như những con ong cần mẫn đi tìm mật
cho đời, nhà văn không chỉ đem đến cho người đọc một nội dung có tính thông điệp mà
còn mong muốn tác phẩm của mình có sức mạnh làm rung động hàng triệu tâm hồn.
Muốn thế phải làm cho người ta tin, mà chỉ tin được nhờ ở sự chân thực. Đó là lí do đơn
giản để Nam Cao cho rằng nghệ thuật “không cần” và “không nên là ánh trăng lừa dối”.
Ánh trăng cao xa, huyền ảo và thơ mộng thật nhưng làm sao nó có thể lại là sự phản
quang của cuộc đời chủ yếu là đói, rét, bệnh tật và bất công? Có người cho rằng cái đẹp là
những gì ở bên trên cuộc sống và tác phẩm nghệ thuật chỉ là vẻ đẹp kì diệu của thế giới
siêu thoát, thanh cao, là mở đầu và tận cùng của tất cả. Tác phẩm như vậy làm sao có thể
rung động được tâm hồn người đọc; bởi lẽ cuộc sống siêu thoát ấy đau có phải là cuộc
sống của họ. Là một nhà văn hiện thực phê phán sống gần tầng lớp cùng đinh, Nam Cao
hiểu sâu sắc thế nào là hiện thực đời sống, hiện thực của những ngày thuế thúc, trống dồn,
những kiếp người méo mó, tội nghiệp, những cuộc sống mốc, mòn, mục, gỉ ra. Dù anh
viết về ai, viết về cái gì thì cũng không nên, không thể quay lưng lại, lẩn tránh cái thực tế

đau khổ và lầm than.
Có bắt rễ vào hiện thực đời sống mà phải là sống thật, văn học mới bền vững và
tồn tại được. M.Gorki cho rằng: “Người tạo nên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết
định số phận của tác phẩm lại là độc giả”. Người đọc chỉ ủng hộ và tạo nên số phận tốt
đẹp cho những tác phẩm chân chính một khi những tác phẩm ấy đề cập đến hiện thực đời
sống đích thực là của họ. Bởi thế Vũ Trọng Phụng mới cho rằng tiểu thuyết là “sự thực ở
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
21
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
đời” đến một tác phẩm có sức mạnh còn tuỳ thuộc vào một điều kiện hết sức quan trọng
nữa, ấy là khả năng chiếm lĩnh cuộc sống một cách sâu xa của nhà văn. Chỉ có thể tạo nên
giá trị của tác phẩm, một khi nghệ sĩ phải sống hết mình, biết nghĩ suy và trăn trở với
những nỗi đau của thân phận con người, biết khơi lên từ cuộc sống những vấn đề mà
nhiều người không nhìn thấy, biết góp phần kiến giải những hiện tượng xã hội,…bằng
toàn bộ vốn liếng tri thức, tình cảm, niềm tin và dũng khí của mình, như A. Muytxê nói:
Hãy đập vào tim anh, thiên tài là ở đó. Lênin nói, đại ý: từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn-đó là con đường biện chứng của sự
nhận thức hiện thực.
Văn học góp bàn tay nhân ái của mình để góp phần cải tạo con người, cải tạo xã
hội, một khi nó chứa đựng cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi.
Hiện thực trong văn học phải là muối của biển. Nó phải được gạn lọc từ hiện thực xô
bồ của đời sống xã hội với biết bao hiện tượng đan cài, chồng chéo nhau giữa bao cái có
nghĩa và vô nghĩa, tất yếu và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng. Nhà văn phải biết chọn
lọc những cái gì tinh tuý nhất, cốt lõi nhất, cái thần của sự vật, mang tính khái quát và điển
hình cao độ, để từ những phát hiện cụ thể ấy, người đọc thấy được những nét bản chất của
đời sống, để có thể rút ra được những bài học về triết lí, đạo đức và nhân sinh. Văn học
không sao chép thụ động những mảng tủn mủn, nhỏ nhặt của đời sống. Ngược lại, nhìn vào
tác phẩm, ta thấy được bản chất cuộc đời ở một điểm sáng hội tụ, nó tiêu biểu và chân thực

hơn cả trạng thái tự nhiên và hoàn tàon có thật ở cuộc sống ngoài đời. Người đọc thấy rõ
đâu là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thông qua những xung đột văn học trong tác phẩm. Và
đó chính là thước đo giá trị và sự trường tồn của tác phẩm văn chương.
Bằng nghệ thuật của mình, văn học lắng đọng đến tận nơi sâu kín, tiềm ẩn trong
con người. Những giọt nước mắt khóc thương cho cuộc đời đau khổ, cho mỗi số phận bị
biến dạng,…sẽ làm cho tâm hồn người dân trong sạch hơn lên, tư tưởng và tâm hồn được
nâng cao lên về chất, để có thể vượt qua những nhỏ nhặt, tầm thường của cái vị kỉ, để hoà
nhập được với cuộc sống tâm hồn của đồn loại, đồng cảm với họ, cùng chiến đấu cho sự
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
22
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
hoàn thiện của con người, làm cho người gần người hơn. Đó chính là chức năng nhân đạo
hoá con người của tác phẩm nghệ thuật.
Đương nhiên văn học không chỉ nói đến những cái gì mạnh mẽ, lớn lao; không chỉ
nói đến lạc quan, chiến thắng. Nó không né tránh việc biểu hiện những mất mát, hi sinh,
những bi kịch của đời sống, sự đê tiện,ngu dốt và phản bội của con người trên tư cách
công dân cũng như trong cuộc sống riêng tư: trong lao động và đấu tranh, trong quan hệ
bạn bè, vợ chồng, trong tình yêu,…Trong quá trình biểu hiện như thế, nhà văn thông qua
tác phẩm của mình, đấu tranh cho sự công bình, kêu gọi tình thương và lòng bác ái,…
Chính những điều đó tạo nên giá trị của tác phẩm.
Thực tế sáng tác của Nam Cao chứng tỏ khả năng lĩnh hội cuộc sống của nhà văn.
Ông không chỉ thấy cuộc sống đương thời là đói rét, là bệnh tật, mà còn thấy được thảm
trạng sự tha hoá của con người, những cuộc đời bị méo mó, xiêu vẹo, biến dạng và cả
những cuộc sống “sống mòn” hay chết mòn thì cũng chẳng khác gì nhau cả. từ cuộc đời
của một Chí Phèo, một Thị Nở khái quát lên thành cả một “hiện tượng Chí Phèo”, Nam
Cao không chỉ nói lên nỗi đau đớn về thể xác của người nông dân, mà từ đây khơi lên
lòng căm phẫn đối với những bất công và những thế lực gây tội ác, kêu gọi mọi người hãy
đấu tranh để góp phần giữ lấy những tia sáng lương tri còn le lói, còn chưa tắt hẳn trong

cuốc sống tinh thần của kiếp người bị tha hoá, để giữ cho con người không bị biến thành
thú vật, để con người đúng là Người với ý nghĩa cao đẹp của nó.
Tôi có đọc được ở một tác phẩm lí luận kinh điển đại ý như thế này: Vũ khí phê
phán dĩ nhiên không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí; chỉ có lực lượng vật chất
mới đánh đỗ được lực lượng vật chất; nhưng lí luận cũng có thể trở thành lực lượng vật
chất khi nó đã thâm nhập vào quần chúng. Văn học với sức mạnh lớn lao của nó trong
việc khám phá, nhận thức và sáng tạo thực tại, luôn được xem là một vũ khí đấu tranh giai
cấp. Các lực lượng tiến bộ và phản tiến bộ đều sử dụng văn học làm công cụ để tuyên
truyền tập hợp quần chúng. Các nhà văn, nhà thơ của chúng ta cần nâng cao trình độ tư
tưởng và năng lực biểu hiện cũng như thái độ trung thực và dũng cảm trong việc phản ánh
hiện thực để nâng cao hơn nữa giá trị của tác phẩm. Văn học phải cố gắng phản ánh
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
23
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
những “sự thực ở đời” với tất cả sự đa dạng và phức tạp của nó, có cả nỗi đau và niềm
vui, có cả cái thấp hèn và cao thượng, chứ không phải là những tác phẩm tụng ca xuôi
chiều, tô hồng hiện thực mà lảng tránh những nỗi đớn đau của đồng bào, đồng chí. Tác
phẩm văn học cùng cần góp phần kiến giải những vấn đề của hiện thực đời sống, đồng
thời là tiếng nói dự báo cho những vấn đề của hiện thực xã hội rộng lớn trong tương lai.
Như vậy văn học mới làm được chức năng giáo dục con người bằng con đường tình cảm,
mới góp phần làm cho con người với đúng nghĩa của nó: không là thánh cũng không trở
thành thú. Những tác phẩm văn học bắt nguồn từ những ánh trăng mờ ảo, thơ mộng và
dối lừa, những tiểu thuyết chỉ là tiểu thuyết, quay lưng hay bàng quan trước sự thực cuộc
đời thì những tác phẩm ấy hoàn toàn không có ích cho đời sống, con người.
Đương nhiên văn học có tính độc lập tương đối của nó. Hiện thực trong văn học và
hiện thực ngoài cuộc đời không phải là hai bàn tay úp kít vào nhau mà đan cài vào nhau.
Ở đây mọi sự đơn giản hoá và mô hình hoá, mọi sự áp đặt, mệnh lệnh, khiên cưỡng “đeo
chân cho vừa giày” đều là những điểm nên tránh. Chúng ta phản bác những lập luận và

sáng tác của những trường phái siêu thực, hiện sinh, cũng đồng thời phê phán cách biểu
hiện của những tác phẩm cứ tưởng như được viết bằng phương pháp hiện thực xã hội chủ
nghĩa nhưng thực chất không biểu hiện được cuộc sống, chỉ biết ca tụng một chiều, giấu
giếm nỗi đau; những tác phẩm đã không nói được thực trạng của hiện thực đương thời,
càng không thể có chức năng dự báo.
Aimatôp cho rằng: chân lí trong nghệ thuật không chỉ là sự phơi bày những thiếu
sót và khó khăn, những mặt tốt của cuộc sống chúng ta; mà quan trọng hơn, tác phẩm
nghệ thuật phải có khả năng thôi thúc con người suy tư sâu sắc, bắt con người phải xúc
động tận đáy lòng.
Văn học làm cho con người nhận rõ diện mạo của mình hơn, vạch rõ đâu là tốt,
xấu, đâu là cao cả, thấp hèn, thấy hết để có thể tự điều chỉnh: “Hãy nhìn xem ngay tại đây,
ngay tại chỗ này những gì mà con người còn chưa nhận ra vì một lí do nào đó” (Lời giới
thiệu Đoạn đầu đài của Aimatôp).
Nhiệm vụ của văn học, của những người sáng tạo ra tác phẩm thật nặng nề. Cuộc
sống đang ngổn ngang, bề bộn và có nhiều điều khiển ta nhức nhối, trăn trở. Bởi vậy,
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
24
Thư viện trường THCS Phạm Văn Chiêu
chúng ta cần biết bao những tác phẩm văn học đích thực, những chính phẩm, góp tiếng
nói cải tạo cuộc sống.

Giải nhì Phạm Bích Thuỷ
Trường THPT Lê Quý Đôn-TP. Hồ Chí Minh (Nguồn Internet)
Tư liệu sưu tầm môn Ngữ Văn Những bài văn hay và xúc
động
Trang
25

×