Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHẠM THỊ DIỆU
“NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN NẤM KÝ SINH CÔN
TRÙNG CÓ TRONG ĐẤT MỘT SỐ LOẠI RỪNG TRỒNG
TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN”
CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
Mã số: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHẠM THỊ DIỆU
“NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN NẤM KÝ SINH CÔN
TRÙNG CÓ TRONG ĐẤT MỘT SỐ LOẠI RỪNG TRỒNG
TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN”
CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
Mã số: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Phạm Quang Thu
Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
Để có đƣợc nhiều lƣơng thực và các sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng cho sự bùng nổ dân số, con ngƣời đã biến những sinh thái tự nhiên
thành những vùng đất phục vụ mục đích của mình. Kết quả là rừng, đất, cây cối
và những động vật bị phá huỷ nghiêm trọng. Ở nƣớc ta, việc khai thác và sử
dụng tài nguyên rừng bừa bãi đã làm cho diện tích rừng suy giảm nghiêm trọng,
đặc biệt là giai đoạn 1990 – 1995, diện tích rừng nƣớc ta chỉ còn khoảng hơn 9
triệu ha, nhiều diện tích đất trống đồi núi trọc xuất hiện kéo theo xói mòn và
thoái hoá đất. Trong những năm gần đây, Chính phủ đã đầu tƣ thực hiện nhiều
chƣơng trình, dự án nhằm khôi phục diện tích rừng và phát triển sản xuất lâm
nghiệp nhƣ chƣơng trình 327, dự án trồng mới 5 triệu hecta rừng… Diện tích
rừng trồng tăng cùng với nhu cầu sử dụng gỗ phục vụ cho công nghiệp nên việc
trồng rừng theo hƣớng quy mô lớn, thuần loài là nguyên nhân xuất hiện nhiều
loại sâu hại và bùng phát dịch. Sâu róm thông đuôi ngựa là loài sâu nguy hiểm
nhất đối với các loài thông ở nƣớc ta, hàng năm chúng đã gây ra các trận dịch ở
nhiều nơi, ăn trụi hàng nghìn hecta rừng thông nhƣ ở Thanh Hoá, Nghệ An, Hà
Tĩnh, gần đây là các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang. Một số loài sâu hại Keo nhƣ Sâu
nâu, Sâu vạch xám thuộc họ Ngài đêm (Noctuidae) đã gây ra trận dịch từ tháng 4
đến tháng 10 các năm 1998, 1999, 2000 ở các lâm trƣờng thuộc hai tỉnh Tuyên
Quang, Phú Thọ ăn hại trên 5000 ha rừng keo tai tƣợng. Sâu kèn nhỏ và Sâu
chùa thuộc họ Ngài túi (Psychidae) phát dịch vào năm 1999 ở khu vực đảo Suối
Hai, Ba Vì, Hà Tây (Đặng Kim Tuyến, 2008). [13]
Trong cuộc chiến với dịch bệnh dấu mốc đầu tiên đánh dấu sự thắng lợi
của con ngƣời đó là việc sản xuất ra thuốc hóa học. Thuốc bảo vệ thực vật có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
2
nhiều ƣu điểm nổi trội, tuy nhiên nó cũng có nhiều nhƣợc điểm mà đặc biệt là
vấn đề ô nhiễm môi trƣờng và gây ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời. Chính vì
thế các nhà khoa học đã nghiên cứu và áp dụng các biện pháp sinh học trong đó
có việc sử dụng các chế phẩm sản xuất từ vi nấm để phòng trừ sâu bệnh.
Nấm ký sinh côn trùng là một nhóm đặc biệt trong giới nấm, mặc dù cho
đến nay, một số loài nấm ký sinh côn trùng đƣợc biết đến nhƣ là tác nhân gây
bệnh và gây thiệt hại nghiêm trọng cho kỹ nghệ tằm tơ. Tuy nhiên có rất nhiều
loại nấm ký sinh côn trùng đã đƣợc ứng dụng trong y học, sản xuất các hoạt chất
sinh học và enzym, và đặc biệt là dùng làm tác nhân kiểm soát sinh học, sản xuất
thuốc trừ sâu sinh học diệt trừ các loài sâu bọ và Côn trùng gây hại trong Nông
Lâm nghiệp và trong đời sống mà không gây ô nhiễm môi trƣờng và giữ đƣợc
cân bằng sinh thái. Ở nƣớc ta, nhiều chế phẩm thuốc trừ sâu sinh học đã đƣợc sử
dụng với hai chủng nấm đƣợc biết đến phổ biến là Beauveria và Metarhizium.
Tuy nhiên còn rất nhiều chủng nấm ký sinh khác và những hiểu biết về việc xuất
hiện tự nhiên của chúng trong đất rừng, đặc điểm ký sinh và vật chủ của chúng
còn nhiều hạn chế.
Để nắm đƣợc thành phần, tỷ lệ xuất hiện, đặc điểm ký sinh và ứng dụng
của nấm ký sinh côn trùng trong sản xuất, tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu
thành phần nấm ký sinh côn trùng có trong đất một số loại rừng trồng tại tỉnh
Thái Nguyên”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về thành phần, phân loại
Nấm học (Mycology) đƣợc khai sinh bởi nhà thực vật học ngƣời Ý tên là
Pier Antonio Micheli (1729) qua tài liệu công bố “giống cây lạ” (Nova
Plantarum Genera) nhƣng theo Giáo sƣ Ekriksson Gunnan (1978) thì ngƣời có
công nghiên cứu sâu về nấm mốc lại là Elias Fries (1794 - 1874). Theo Elizabeth
Tootyll (1984) nấm mốc có khoảng 5.100 giống và 50.000 loài đƣợc mô tả, tuy
nhiên, ƣớc tính có trên 100.000 đến 250.000 loài nấm hiện diện trên Trái đất.
Nhiều loài nấm mốc có khả năng ký sinh trên nhiều ký chủ nhƣ động vật, thực
vật, đặc biệt trên con ngƣời, cây trồng, vật nuôi, sản phẩm sau thu hoạch chƣa
hoặc đã qua chế biến, bảo quản.[1][4]
Theo Gwynne-Vaughan và Barnes (1937) chia nấm thành 3 lớp chính:
Phycomycetes, Ascomycetes và Basidiomycetes dựa trên khuẩn ty có vách ngăn
ngang hay không và đặc điểm của bào tử. Theo Stevenson (1970) đã phân loại
nấm trong ngành Mycota gồm 6 lớp: Chytridiomycetes, Oomycetes,
Zygomycetes, Ascomycetes, Basidiomycetes, và Deuteromycetes. [1]
Nấm ký sinh côn trùng là một nhóm đặc biệt trong giới nấm, đƣợc phát
hiện cách đây hơn 150 năm và hiện nay có khoảng hơn 700 loài đã đƣợc xác
định và mô tả (Kunimi, 2004).[19]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
4
Nấm ký sinh côn trùng có mặt ở cả 4 lớp: Nấm bậc thấp Phycomycetes,
nấm túi Ascomycetes, nấm đảm Basidiomycetes và nấm bất toàn
Deuteromycetes.
Nấm ký sinh côn trùng thuộc lớp nấm bậc thấp Phycomycetes tập trung ở
3 bộ Chytridiales, Blastocladiales và Entomophthorales, bào tử của chúng phát
tán mạnh trong tự nhiên.
Lớp nấm túi Ascomycetes gồm bộ Laboulbeniales ngoại ký sinh côn trùng
và bộ Hypocreales gồm những giống quan trọng nhƣ Cordyceps, Aschersonia.
Lớp nấm đảm Basidiomycetes tập trung nhiều ở hai giống Septobasidium và
Uredinell. Các nấm ký sinh côn trùng thuộc lớp nấm bất toàn Deuteromycetes
phần lớn nằm trong bộ Moniliales gồm các giống: Beauveria, Metarhizium,
Paecilomycetes, Cephalosporium, Verticillium, Aspergillus, Penicillium,
Sorosporell. Những giống nấm này đã đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới nghiên cứu
và ứng dụng, chúng thƣờng tạo thành hệ sợi dày trên bề mặt của ký chủ; bào tử
hình thành trên bề mặt hệ sợi và không phát tán mạnh.
Nấm gây bệnh cho côn trùng và nhện nhỏ hại cây đƣợc quan tâm nghiên
cứu nhiều gồm các chi nấm bạch cƣơng Beauveria, lục cƣơng Metarhizium, nấm
bột Nomuraea. Một số loài điển hình bao gồm Beauveria bassiana (Bals) Vuill;
B. brongniartii Sacc. (B. tenella); Metarhizium anisopliae (Metchnikoff)
Sorokin ; M. flavoviride Gams; Nomuraea rileyi; Cephalosporium sp; Hirsutella
sp Hai loài nấm đƣợc nghiên cứu và sản xuất chế phẩm sử dụng nhiều nhất
hiện nay là Beauveria bassiana (Bals) Vuill và Metarhizium anisopliae
(Metchnikoff) Sorokin.[2] [9]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
5
Nấm Beauveria bassiana sinh ra những bào tử đơn bào, không màu, hình
cầu hoặc hình trứng, đƣờng kính từ 1 – 4 μm. Sợi nấm có đƣờng nằm ngang,
đƣờng kính 3 – 5 μm, phát triển mạnh trên môi trƣờng nhân tạo hoặc trên cơ thể
côn trùng. Chúng mang nhiều giá sinh bào tử, phồng to ở phía dƣới với kích
thƣớc 3 – 5 x 3 – 6 μm. Các giá của bào tử trần thƣờng tạo thành các nhánh ở
phần ngọn hoặc trực tiếp tạo thành nhánh của giá, phần ngọn của bào tử có dạng
cuống ziczac không đều. Theo R.L Hamill (1969) nấm này tiết độc tố diệt côn
trùng có công thức nguyên là C
45
H
57
O
9
N
3
đƣợc đặt tên là beauvericin, đây là
một loại depxipeptit vòng có điểm sôi 93 – 94
0
C. Trong tự nhiên khi bào tử nấm
Beauveria bassiana rơi vào cơ thể côn trùng gặp điều kiện thuận lợi chỉ sau 12 –
24 giờ thì bào tử nấm nảy mầm. Chúng hình thành sợi đâm xuyên qua lớp vỏ
kitin sau đó phát triển bên trong cơ thể côn trùng, tiết độc tố làm phá hủy ngay cả
tế bào bạch huyết, gây chết cho sâu; sợi nấm phát triển rất nhiều trong cơ thể côn
trùng sau đó chui ra ngoài tạo nên một lớp bào tử phủ trên thân sâu.[3][18][23]
Năm 1954, Macleod phân nấm Bạch cƣơng thành 2 loài chính là
Beauveria bassiana và B. tenella. Năm 1975, Hook lại công bố hai loài nấm
bạch cƣơng không có tác dụng phòng trừ sâu là B. alba và B. vermiconi. Sau đó
Carmichae (1980) và Samson (1982) lại công bố thêm ba loài mới là B. felina, B.
velata và B. amorpha.[9][25]
Năm 1878, Elie Metchnikoff nghiên cứu bọ hung hại lúa mì Anisoplia
austriaca đã quan sát đƣợc một bệnh nấm của loài sâu hại này. Ông đặt tên cho
loại nấm này là Entomophthora anisopliae (nay là Metarhizium anisopliae).
Sợi nấm và bào tử nấm Metarhizium anisopliae lúc đầu có màu trắng sau
chuyển sang xanh, cuống sinh bào tử ngắn, bào tử trần hình cổ chai hình trụ hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
6
hình hạt đậu. Kích thƣớc bào tử khoảng 3,5 – 6,4 μm, đứng riêng rẽ hoặc xếp
thành từng chuỗi. Y.Kodairo (1961 - 1962) đã tách đƣợc 2 chất độc của nấm này
là destruxin A có công thức nguyên C
29
H
47
O
7
N
5, điểm sôi 188
0
C
và destruxin
B công thức nguyên là C
30
H
51
O
7
N
5 có điểm sôi 234
0
C
. [20] [22] [27]
Nấm tựa mốc xanh Paecilomyces Bainier đƣợc phân lập trên thân côn
trùng ngủ nghỉ trong đất, khuẩn lạc dạng thảm nhung, dạng bó sợi, màu trắng,
hồng nhạt, nâu vàng, nâu xám và lục nhạt. Năm 1981, Liang đã phân lập đƣợc
các loài Paecilomyces cateniobliquus, Paecilomyces cateniannulatus,
Paecilomyces tenuipes, Paecilomyces farinosus.
Năm 1983, Riley phát hiện một loài nấm ký sinh côn trùng họ Ngài đêm ở
Bắc Mỹ đặt tên là Botrytis rileyi và Spicaria rileyi. Ở châu Á cũng tìm ra nấm ký
sinh trên sâu họ Ngài đêm là Botrytis prasina và Spicaria prasina. Năm 1903,
Maublane cho rằng chúng không giống hai chi trên và Nomura đặt tên mới là
Nomuraea. Ông chia hai loài trong chi này là N. rileyi có khuẩn lạc màu xanh,
cuống bào tử mộc đơn, bào tử hình bầu dục dài hoặc hình ống và loài N. alypicota
có cuống bào tử đa bào, có khuẩn lạc màu tím, bào tử hình ống hơi cong.
Mặc dù cho đến nay, một số loài nấm ký sinh côn trùng đƣợc biết đến nhƣ
là tác nhân gây bệnh và gây thiệt hại nghiêm trọng cho kỹ nghệ tằm tơ, nhƣng
cũng có rất nhiều loại nấm ký sinh côn trùng đã đƣợc ứng dụng trong Đông y,
sản xuất thuốc trị bệnh và các chất bổ dƣỡng cho cơ thể con ngƣời có giá trị rất
cao nhƣ nấm Đông trùng - Hạ thảo. Dựa trên đặc điểm hình thái cũng nhƣ đặc
điểm về cấu trúc phân tử, các loài nấm này bao gồm các chi chủ yếu là:
Cordyceps, Elaphocordyceps, Metacordyceps và Ophiocordyceps. Chi nấm
Cordyceps đã đƣợc thu mẫu và định loại trên 400 loài ở các vùng khác nhau trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
7
toàn thế giới, trong đó loài nấm Cordyceps sinensis, Cordyceps militaris và một
số loài khác đƣợc quan tâm nghiên cứu nhiều hơn cả về phân loại, thành phần
hóa học và giá trị dƣợc liệu (Gi-Ho Sung et al. 2007)[26].
1.1.2. Nghiên cứu về ứng dụng
Việc nghiên cứu ứng dụng nấm ký sinh côn trùng đã đƣợc tiến hành ở
nhiều nƣớc trên thế giới từ hơn 100 năm nay. Trong lĩnh vực bảo vệ thực vật,
ngƣời ta đã dùng nấm ký sinh côn trùng để phòng trừ dịch hại do côn trùng gây
ra đặc biệt là nhóm côn trùng thuộc bộ Lepidoptera và Coleoptera.
Một số chủ ng nấm đã đƣợ c ƣ́ ng dụ ng để sản xuất các hoạt chất sinh học và
enzym, và đặc biệt là dùng làm tác nhân kiểm soát sinh học, sản xuất thuốc trừ
sâu sinh học diệt trừ các loài sâu bọ và Côn trùng gây hại trong Nông nghiệp và
trong đời sống mà không gây ô nhiễm môi trƣờng và giữ đƣợc cân bằng sinh
thái. Nấm ký sinh xâm nhập vào côn trùng không qua đƣờng miệng mà nhờ sự
tiếp xúc qua da. Bào tử nấm sau khi nảy mầm thành ống mầm nhờ tác dụng của
enzyme và áp lực cơ giới xuyên qua da côn trùng. Các loài có da mỏng, mềm
nấm có thể xâm nhập trực tiếp; một số loài có da dầy, nấm có thể xâm nhập qua
khớp nối giữa các đốt; các lỗ thở cũng là nơi sợi nấm có thể xâm nhập. Nấm sinh
trƣởng nhanh, bào tử có thể tồn tại lâu dài trong tự nhiên mà hoạt tính hầu nhƣ
không thay đổi.
Năm 1874, Pasteur đã đƣa ra ý kiến để trừ rệp rễ nho Phylloxera vitifoliae
(Fitch) thử sử dụng nguyên sinh động vật gây bệnh ở ong mật hoặc một loài nấm
ký sinh côn trùng nào đó. Theo Steinhaus (1956), Le Conte từ năm 1874 đã bàn
luận việc sản xuất và tung nguồn vật gây bệnh để lây lan bệnh cho côn trùng.
Đây là một đề xuất đầu tiên về sử dụng vi sinh vật gây bệnh để phòng trừ sâu hại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
8
có cơ sở chắc chắn và cụ thể (dẫn theo P.V.Lầm 1995). Năm 1879, Hagen đã đề
xuất dùng “men bia” phun lên côn trùng với mục đích gây bệnh cho côn trùng
hại. Cũng trong năm đó Comstock, Riley đã thử biện pháp này trên đồng ruộng
nhƣng không hiệu quả vì men bia không phải là vi sinh vật gây bệnh cho côn
trùng. Mặc dù ý định và việc thực hiện nhƣng những tác giả này là những ngƣời
rất quan tâm đến sử dụng vi sinh vật trong phòng trừ sâu hại.[2] [6]
Năm 1879, Metchnikoff tiến hành nghiên cứu lây nhiễm loại nấm
Metarhizium anisopliae lên bọ hung hại lúa mì và vòi voi hại củ cải đƣờng
Cleonus punctiventris (Germ.), các thí nghiệm này cho kết quả tốt. Metchnikoff
phát hiện các loài côn trùng khác cũng mẫn cảm với loại nấm gây bệnh này. Ông
bắt đầu sản xuất nấm M. anisopliae để trừ côn trùng hại. Dựa trên kết quả thực
nghiệm đã đạt đƣợc, Metchnikoff và Krassilstschik đã tiến hành xây dựng một
số cơ sở sản xuất chế phẩm nấm Metarhizium anisopliae. Năm 1884, một số nhà
máy đã sản xuất nấm này và thu đƣợc hiệu quả phòng trừ rõ rệt.[1],[10]
Từ năm 1835, Agostino Bassi đã thử nghiệm nấm Bạch cƣơng (Beauveria
bassiana Vuill) gây bệnh cho côn trùng. Năm 1888, ở Hoa Kỳ đã nghiên cứu
dùng nấm Beauveria globulifera để trừ bọ xít lúa mì Blissus leucopterus. Nấm
đƣợc sản xuất với số lƣợng lớn, đóng thành từng gói nhỏ; trong các năm 1891 –
1892, hơn 50.000 gói chế phẩm đã đƣợc phát cho các trang trại để rải lên đồng
lúa mì. Hiệu quả của nấm đối với bọ xít hại lúa mì không giống nhau và các chủ
trại không thích sử dụng biện pháp này. Những năm cuối thế kỷ IXX, nhiều nhà
khoa học Châu Âu đƣợc Metchnikoff cổ vũ đã sản xuất và sử dụng nấm
Beauveria sp. để phòng trừ các loài sâu nhƣ Ngài độc Portheria monacha, Bọ
hung Melolontha sp., Ong ăn lá Diprion hercyniae… Audonin (1939) đã dùng
nấm bạch cƣơng phòng trừ nhiều loài sâu hại. Đây là một loại nấm phổ biến ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
9
trong đất và thực vật; có thể ký sinh trên 700 loài thuộc 149 họ, 15 bộ côn trùng,
hơn 10 loài nhện.[20][23]
Nhiều nghiên cứu đã đƣợc thực hiện để tiến hành phân lập và tách biệt
nấm ký sinh côn trùng. Zimmermann (1986) đề xuất phƣơng pháp dùng côn
trùng làm mồi nhử để tách nấm ký sinh côn trùng từ đất.[28]
Goettel & Inglis (1997) đã cung cấp một danh sách các chọn lựa thích hợp
các vật trung gian để tách biệt Beauveria và Metarhizium từ môi trƣờng đất. Các
nhà nghiên cứu cũng sử dụng phƣơng pháp PCR (Polymerase Chain Reaction)
để nghiên cứu đặc điểm sinh thái của các chủng nấm ký sinh.[21]
Các loài nấm ký sinh côn trùng đã đƣợc nghiên cứu và sản xuất ra các chế
phẩm sinh học phòng trừ sâu hại. Ở Trung Quốc, 2 triệu hécta hàng năm đƣợc
phun BB để ngăn ngừa các loại côn trùng từ rừng. Từ năm 1993, sáu loại
loại thuốc trừ sâu sinh học mới trở nên phổ biến ở Bắc Mĩ và châu Âu.
Công nghệ lên men rẻ tiền đƣợc sử dụng để sản xuất nấm hàng loạt. Bào tử nấm
đƣợc thu hoạch và đóng gói để có thể sử dụng trên các cánh đồng có sâu
bọ.[8][10]
Tại Malaysia, nấm xanh Metarhizium anisopliae đã đƣợc nghiên cứu để
phòng trừ mối đất đạt hiệu quả 64,75% sau 14 ngày. Tại Philippines, đã nghiên
cứu sử dụng nấm xanh để diệt rầy nâu hại lúa đạt hiệu lực 60% sau 10 ngày. Tại
Úc, năm 1991 Milner đã nghiên cứu nấm Metarhizium anisopliae để phòng trừ
bọ hung hại mía đạt hiệu quả 68%. Tại Nhật Bản, năm 1988 một số nhà khoa
học đã sử dụng nấm xanh để phòng trừ dòi hại rễ củ cải đạt hiệu quả trên 70%,
sau 10 ngày (Phạm Thị Thùy, 2004).[14]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
10
Nhƣ vậy, việc nghiên cứu và ứng dụng nấm ký sinh côn trùng đã có lịch
sử phát triển hàng trăm năm và có ý nghĩa lớn trong công tác phòng trừ sâu hại.
Tuy nhiên, các loài nấm ký sinh trong tự nhiên rất đa dạng nên các tài liệu cũng
nhƣ các nghiên cứu về vấn đề này còn rất phong phú.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
1.2.1. Nghiên cứu về thành phần, phân loại
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới và là một trong những Quốc gia có nguồn
tài nguyên Sinh học đƣợc xếp vào loại đa dạng và phong phú nhất trên Thế giới.
Tuy nhiên, các nghiên cứu về đa dạng và sự phân bố của các loài nấm ký sinh
côn trùng chỉ mới đang ở giai đoạn “khởi động”.
Từ giữa thập niên 1970, trƣờng Đại học Lâm nghiệp đã nghiên cứu nấm
Beauveria bassiana để phòng trừ sâu róm thông Dendrolimus punctatus.
Đầu những năm 1990, Viện Bảo vệ Thực vật và Đại học Lâm nghiệp tiến
hành nghiên cứu, thu thập, tuyển chọn, nhân và bảo quản các chủng nấm ký sinh
côn trùng để sản xuất thuốc trừ sâu. Trong các loài côn trùng hại lúa, ngô, mía,
thông… đã có 31 loài đƣợc ghi nhận bị nấm Beauveria bassiana tấn công và trên
40 loài bị M. anisopliae tấn công. Các loài bị nấm B. bassiana như: Sâu khoang
Spodoptera litura; Sâu keo da láng Spodoptera exgua; Sâu xanh bông
Helicoverpa armigera; Sâu xanh thuốc lá Helicoverpa assulta; Sâu xanh bƣớm
trắng Pieris rapae; Sâu tơ Plutella xylostella; Sâu đục thân ngô Ostrinia
nubilalis; Sâu đục quả đậu Etiella sp; Sâu róm thông Dendrolimus punctatus; Bọ
xít hôi Leptinotasa acuta; Rầy nâu Nilaparvata lugens; Sâu cắn gié Leucania
separata; Bọ xít đen Scotinophora lurida; Bọ xít xanh Neraza viridula; Bọ hà
khoai lang Cylas formicarius; Sâu đo xanh Anomis flava; Câu cấu Hypomesces
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
11
squamosus; Châu chấu Locusta sp.; Châu chấu mía Hieroglyphus tonkinensis;
Châu chấu lƣng vàng Pantaga sucincta; Bọ Hại dừa Brontispa longissima; Sâu
kèn hại keo tai tƣợng Amasstisa sp; Sâu đo hại quế Culculla paterianria; Sâu
xanh ăn lá bồ đề Fentonia sp; Rệp Aphis sp; Mối đất Coptotermes sp….
Các loài côn trùng bị nấm M. anisopliae tấn công nhƣ: Châu chấu sống
lƣng vàng Patanga sucincta; Châu chấu mía Hieroglyphus banian; Châu chấu mía
Hieroglyphus tonkinensis; Châu chấu lúa Oxya chinensis; Châu chấu lúa Oxya
dominuta; Châu chấu Locusta sp.; Bọ hại dừa Brontispa sp.; Bọ hại dừa Brontispa
longissima; Mối đất Coptotermes sp.; Mối đất Coptotermes squamosus; Sâu kèn
hại keo tai tƣợng Amasstisa sp; Sâu đo hại quế Culculla paterianria; Sâu xanh
thuốc lá Helicoverpa assulta; Sâu xanh bông Helicoverpa armigera; Sâu xanh
bƣớm trắng Pieris rapae; Sâu khoang Spodoptera litura; Sâu đục quả đậu Maruca
testulalis; Sâu đục thân ngô Pyrausta nubilalis; Sâu ăn lá đậu Etiella sp; Bọ xít
hôi Leptinotasa acuta; Sâu xanh ăn lá bồ đề Fentonia sp.; Sâu róm thông
Dendrolimus punctatus; Sâu róm quế Malacosoma dentate; Sâu đục cành quế
Arbela bailbarana; Bọ hung nâu Exolontha sp; Bọ hung nâu nhỏ Maladera
orientalis; Xén tóc Bacchisa atritaric; Bọ xít vải Tessaratoma papillosa….[3]
Qua nghiên cứu của các tác giả có thể thấy thành phần các chủng nấm ký
sinh côn trùng ở nƣớc ta khá phong phú, đa dạng; cần có những nghiên cứu về
tuyển chọn và nhân nuôi sinh khối để có thể ứng dụng vào thực tiễn phòng trừ
sâu hại trong sản xuất nông lâm nghiệp.
1.2.2. Nghiên cứu về ứng dụng
Từ đầu những năm 1990, các chủng nấm B. bassiana, M. anisopliae và M.
flavoviride đƣợc nghiên cứu ở Viện Bảo vệ Thực vật. Chế phẩm sinh học từ các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
12
nấm này đƣợc sản xuất ở dạng thô (hỗn hợp môi trƣờng và bào tử nấm) của nấm
Beauveria và Metarhizium, tƣơng ứng chứa 5x10
8
và 5,8x10
8
bào tử/g. Trong
phòng thí nghiệm, hiệu lực của nấm Beauveria đối với rầy nâu N. lugens và sâu đo
xanh A. flava tƣơng ứng là 30,3 - 44,4% và 59,7 - 78,1% ở ngày thứ 7 - 10 sau xử
lý. Tỷ lệ này của nấm Metarhizium tƣơng ứng là 23,6 - 46,1% và 58,7 - 88,5%.
Trong điều kiện đồng ruộng, ở ngày thứ 7 – 10 sau khi phun chế phẩm, hiệu quả
của Beauveria đối với rầy nâu và sâu đo xanh đạt 16,3 - 69,9% và 66,4 - 86,4%.
Đối với Metarhizium, hiệu quả tƣơng ứng là 15,9 - 79,5% và 73,3 - 79,5%.[12][15]
Tác giả Phạm Thị Thùy đã tiến hành nghiên cứu khảo nghiệm nấm
Beauveria bassiana Vuill và Metarhizium anisopliae Sorokin để phòng trừ rầy
nâu hại lúa từ 1991 đến 1995.[14]
Ở Hƣng Yên, năm 1993 đã sử dụng nấm xanh để phòng trừ sâu đo chỉ sau
7 – 10 ngày hiệu quả khoảng 70 – 89%. Nghiên cứu thử nghiệm chế phẩm nấm
Metarhizium anisopliae và M. flavoviridae trừ châu chấu hại ngô, mía ở Bà Rịa
Vũng Tàu trong 2 mùa mƣa 1994, 1995 của tác giả Phạm Thị Thuỳ và các cộng
sự cho kết quả trừ châu chấu đạt 39,9 - 66,2% và 60,1 - 72,0% tƣơng ứng ở ngày
thứ 13 và 20 [12].
Tại Tiền Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu đã sử dụng Metarhizium anisopliae
để phòng trừ rầy nâu, bọ xít, sâu cắn gié bọ cánh cứng hại dừa đạt hiệu quả
cao.[13]
Trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2002, nhóm nghiên cứu của
bộ môn Bảo vệ thực vật thuộc Khoa Nông học – trƣờng Đại học Nông Lâm
Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành điều tra thành phấn nấm ký sinh trên côn
trùng gây hại ở cây trồng: lúa, khoai lang, cây ăn quả, cây cảnh tại một số vùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
13
ngoại thành thành phố và một số tỉnh lân cận. Kết quả đã thu đƣợc 8 loại nấm ký
sinh trên một số đối tƣợng sâu hại cây trồng khác nhau trong đó có hai loại nấm
Metarhizium và Beauveria hiện diện rất phổ biến.[11]
Tại Cần Thơ, từ năm 2005-2007 đã sử dụng nấm Metarhizium anisopliae
để phòng trị sâu ăn tạp, rầy mềm đạt hiệu quả khá cao trên 70% sau 7-12 ngày
(Trần Văn Hai, 2006). [7]
Cuối năm 2006, nhóm nghiên cứu ở trƣờng đại học Nông Lâm Thành phố
Hồ Chí Minh đã công bố nghiên cứu thành công việc xác định gene gây độc của
nấm Metarhizium ký sinh trên sâu hại cây trồng bằng kỹ thuật PCR. Từ những
mẫu côn trùng bị nấm ký sinh trên cây lúa, rau, cây ăn trái thu thập đƣợc ở
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dƣơng, Bến Tre, Tiền Giang… nhóm nghiên cứu
đã phân lập và tách đƣợc 8 chủng nấm ký sinh và chọn lọc đƣợc chủng nấm
Metarhizium có tính độc cao, có hoạt tính trừ sâu cao và ổn định. Điều quan
trọng là nó có khả năng sản xuất ra một loại thuốc trừ sâu sinh học mới, không
gây hại cho môi trƣờng tự nhiên và sức khỏe con ngƣời.
Đề tài “Nghiên cứu công nghệ sản xuất chế phẩm nấm Metarhizium
anisopliae (Metchnikoff) Sorokin để ứng dụng phòng trừ sâu hại cây trồng” của
tác giả Lê Thùy Quyên và Phạm Thị Thùy năm 2006 đã cho ra đời chế phẩm
nấm Metarhizium diệt trừ đƣợc các loại sâu xanh bƣớm trắng, sâu khoang ăn lá
và đặc biệt là khả năng tiêu diệt đƣợc một số loại côn trùng hại cây sống trong
đất nhƣ bọ hung, mối đất Ứng dụng thực tế của nấm Metarhizium để tiêu diệt
bọ hung đen ăn mía; mối đất ăn thông trắng, bồ đề, hại cây điều, cây ăn quả; sâu
xanh bƣớm trắng ăn su hào, bắp cải; sâu khoang hại cà chua cho kết quả diệt
trừ sâu bệnh hơn 70%. [17]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
14
Sau gần 8 năm nghiên cứu, năm 2008, từ chủng “nấm xanh” và “nấm
trắng”, Tiến sĩ Nguyễn Thị Lộc đã cho ra đời hai chế phẩm sinh học là Ometar
(nấm xanh) và Biovip (nấm trắng) ứng dụng rộng rãi trừ sâu, rầy hại lúa tại Cần
Thơ, An Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Tiền Giang… Ruộng lúa sử dụng chế
phẩm này trừ rầy nâu có hiệu quả kinh tế cao, có lợi cho nông dân từ 1.350.000 –
1.650.000 đồng. Chế phẩm có hiệu lực bền lâu, thuốc có tác dụng lây lan mầm
bệnh từ con rầy đã chết sang con rầy non mới nở trong một vụ lúa, nên chỉ phun
một lần có thể duy trì hiệu quả trừ rầy cho suốt vụ. Ở giai đoạn lúa ngậm sữa có
thể phun chế phẩm Ometar một lần để trừ bọ xít nếu lúa bị bọ xít tấn công. Chế
phẩm Ometar còn đƣợc ứng dụng để trừ bọ cánh cứng hại dừa.
Trên các cánh đồng bị rầy nâu, phun chế phẩm Ometar một lần vào 40
ngày sau sạ, rầy nâu giảm dần và mật độ rất thấp vào cuối vụ. Chế phẩm nấm
xanh Ometar có hiệu lực rất cao đối với rầy nâu, sau khi phun từ 5 – 7 ngày, hiệu
lực diệt trừ rầy nâu đạt 73,5 – 91,5% và hiệu lực trừ bọ xít hại lúa là 73 – 88%.
Chế phẩm nấm trắng Biovip cũng có hiệu lực rất cao với rầy nâu, kết quả
diệt rầy sau 5 – 7 ngày là 65 – 87%, hiệu lực trừ bọ xít 69 – 85%. Cả hai chế
phẩm có hiệu lực bền lâu và kéo dài hàng tháng sau khi phun nên trong một vụ
lúa, nếu bị rầy nâu, bọ xít phá hại thì chỉ cần phun 1 – 2 lần là đủ do các bào tử
nấm xanh và nấm trắng có khả năng lây lan từ lứa rầy này sang lứa rầy sau. [17]
Trong lĩnh vực Lâm nghiệp, nấm gây bệnh côn trùng Beauveria bassiana
đã đƣợc sử dụng trong phòng trừ sâu róm hại thông ở Hà Bắc, Thanh Hóa. Ở
Nghệ An, chế phẩm Bôvêrin cũng đƣợc sử dụng trong phòng trừ sâu róm hại
thông.[5]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
15
Tuy nhiên đa số những nghiên cứu mới chỉ dừng lại trong việc nghiên cứu
và áp dụng trong phòng trừ côn trùng gây hại với các loại nấm ký sinh phổ biến
nhƣ Beauveria, Metarhizium. Trong lâm nghiệp ít có các nghiên cứu về vấn đề
này, chủ yếu là áp dụng các chế phẩm trong phòng trừ bệnh. Đặc biệt việc
nghiên cứu sự tồn tại của các loài nấm ký sinh côn trùng phân bố trong tự nhiên
và tính đa dạng về thành phần loài và tính đa dạng về loài vật chủ ký sinh còn ít.
Những nghiên cứu về các vấn đề sẽ có ý nghĩa lớn trong việc áp dụng quản lý dịch
hại tổng hợp và đáp ứng các yêu cầu trong phát triển rừng bền vững hiện nay.
1.3. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
1.3.1.1. Vị trí địa lý
Thái Nguyên là tỉnh thuộ c vù ng miền núi phí a Bắ c , cách thủ đô Hà Nội
80,4 km về phía Bắc, có toạ độ địa lý nhƣ sau:
- Tƣ̀ 20
0
20' đến 22
0
03' vĩ tuyến Bắc;
- Từ 105
0
28' đến 106
0
14' kinh tuyến Ðông.
Về mặ t đị a giớ i hà nh chín h, Thái Nguyên giáp các tỉnh sau :
- Phía Bắc tiếp giáp tỉnh Bắc Kạn;
- Phía Tây giáp các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang;
- Phía Đông giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang;
- Phía Nam tiếp giáp với thủ đô Hà Nội;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
16
Tổ ng diệ n tí ch tự nhiên là 3.541 km². Thái Nguyên đƣợc coi là trung tâm
chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi Đông
Bắc nói chung, là cửa ngõ giao lƣu kinh tế xã hội giữa vùng trung du miền núi
với vùng đồng bằng Bắc bộ.
1.3.1.2. Ðịa hình, địa thế
Mặc dù là một tỉnh trung du miền núi nhƣng địa hình tỉnh Thái Nguyên lại
không phức tạp lắm so với các tỉnh trung du, miền núi khác. Đây là một thuận lợi
của tỉnh cho việc canh tác nông, lâm nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội nói
chung so với các tỉnh trung du miền núi khác.
Diện tích vùng núi chiếm khoảng 90,73%; diện tích vùng trung du chiếm
9,27%. Ðịa hình chủ yếu là đồi núi thấp. Thái Nguyên có nhiều dãy núi cao chạy
theo hƣớng Bắc Nam và thấp dần xuống phía Nam. Cấu trúc vùng núi phía Bắc
chủ yếu là đá phong hóa mạnh, tạo thành khá nhiều hang động và thung lũng
nhỏ. Phía Tây Nam có dãy Tam Đảo (với đỉnh cao nhất là 1.590 m), các vách núi
dựng đứng và kéo dài theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam. Ngoài ra, dãy núi Ngân
Sơn bắt đầu từ Bắc Kạn chạy theo hƣớng Đông Bắc - Tây Nam đến Võ Nhai và
dãy núi Bắc Sơn chạy theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam. Cả ba dãy núi Tam Đảo,
Ngân Sơn và Bắc Sơn đều là những dãy núi cao che chắn gió mùa Đông Bắc.
1.3.1.3. Khí hậu, thuỷ văn
Về đặc điểm khí hậu
Theo số liệu hàng năm của Trung tâm Khí tƣợng thủy văn tỉnh Thái
Nguyên, nhiệt độ trung bình hàng năm trên địa bàn tỉnh là 22,5
0
C - 23,2
0
C, biên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
17
độ nhiệt độ ngày và đêm khá cao từ 7,0 - 7,3
0
C. Nhiệt độ trung bình tối đa là
37
0
C (tháng 7, 8), cao tuyệt đối là 40,3
0
C, trung bình tối thấp là 7
0
C (tháng 1).
Nhiệt độ trung bình tháng cao nhất tập trung vào các tháng 6, 7, 8, nhiệt độ tháng
thấp nhất từ tháng 12 đến tháng 1, tháng 2 năm sau. Điều đáng lƣu ý là nhiệt độ
trung bình hàng năm ở phía Bắc và phía Nam của tỉnh chỉ chênh nhau khoảng
0,5
0
- 1,0
0
C, song nhiệt độ thấp tuyệt đối trong mùa đông chênh lệch nhau khá
nhiều (ở Định Hóa là 0,4
0
C còn ở thành phố Thái Nguyên là 3
0
C). Tổng số giờ
nắng trong năm dao động từ 1.300 đến 1.750 giờ và phân phối tƣơng đối đều cho
các tháng trong năm.
Mùa đông thƣờng chia thành 3 vùng rõ rệt: Vùng lạnh nhiều (nằm ở huyện
Võ Nhai); vùng lạnh vừa (gồm các huyện Định Hóa, Phú Lƣơng và phía nam
huyện Võ Nhai); vùng ấm (gồm các huyện Đại Từ, thành phố Thái Nguyên,
Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên và thị xã Sông Công).
Lƣợng mƣa trung bình hàng năm đạt khoảng 2.000 - 2.500 mm (cao nhất
vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1). Mƣa thƣờng tập trung từ tháng 5 đến
tháng 10, lƣợng mƣa trong thời gian này đạt 1.471 mm ở Định Hóa và 1.726 mm
ở thành phố Thái Nguyên, chiếm khoảng 85 - 87% tổng lƣợng mƣa cả năm.
Theo số liệu thống kê theo dõi của Trạm khí tƣợng thủy văn tỉnh Thái Nguyên,
riêng lƣợng mƣa tháng 8 chiếm gần 30% tổng mƣa cả năm nên thƣờng gây ra lũ
lụt. Vào mùa khô, lƣợng mƣa trong tháng chỉ bằng 0,5% lƣợng mƣa cả năm.
Tần suất sƣơng muối thƣờng xảy ra vào cuối tháng 12 và tháng 1 hàng
năm. Khu vực thƣờng hay xuất hiện thời tiết sƣơng muối là Võ Nhai, Phú Bình.
Độ ẩm không khí trung bình từ 80 - 85%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
18
Về chế độ thủy văn
Thái Nguyên có hai sông chính chảy qua là sông Công và sông Cầu. Hai
sông này là nguồn cấp nƣớc chính cho nền kinh tế, dân sinh của tỉnh.
Sông Công có lƣu vực 951 km
2
, bắt nguồn từ vùng núi Ba Lá huyện Định
Hoá, chạy dọc theo chân núi Tam Đảo. Dòng sông đã đƣợc ngăn lại ở Đại Từ, tạo
thành Hồ Núi Cốc có mặt nƣớc rộng khoảng 25 km
2
. Hồ này chứa đƣợc 175 triệu
m
3
nƣớc, chủ động tƣới tiêu cho 12.000 ha lúa 2 vụ, hoa màu, cây công nghiệp và
cung cấp nƣớc sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công.
Sông Cầu nằm trong hệ thống sông Thái Bình, có lƣu vực 3.480 km
2
, bắt
nguồn từ Chợ Đồn chảy theo hƣớng Bắc - Đông Nam. Lƣu lƣợng nƣớc mùa mƣa
là 3500 m
3
/s, mùa kiệt là 7,5 m
3
/s. Trên sông này có hệ thống thuỷ nông sông
Cầu (trong đó có đập dâng thác Huống) tƣới cho 24.000 ha lúa 2 vụ của huyện
Phú Bình (Thái Nguyên) và Hiệp Hoà, Tân Yên (Bắc Giang).
Mùa lũ trên các sông trong tỉnh bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào cuối
tháng 10, đầu tháng 11, tỷ lệ xuất hiện lũ nhiều vào các tháng 6 - 9. Số trận lũ
trung bình/năm từ 1,5 - 2,0 trận, năm nhiều có tới 4 trận lũ. Mùa khô bắt đầu vào
tháng 11 và kết thúc vào cuối tháng 4. Lƣợng nƣớc trên sông trong các tháng này
bình quân mỗi tháng chỉ bằng 0,5 - 2,0% tổng lƣợng nƣớc trên sông cả năm. Do
lƣợng mƣa phân bố không đều giữa các tháng trong năm nên vào những tháng
mùa cạn nƣớc trên sông suối thƣờng không đáp ứng đƣợc cho nhu cầu dùng
nƣớc cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
1.3.1.4. Địa chất, thổ nhưỡng
Theo tài liệu thổ nhƣỡng và kết quả điều tra bổ sung những năm gần đây cho thấy
tỉnh Thái Nguyên có nhiều loại đất khác nhau đƣợc hình thành bởi quá trình feralit.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
19
- Đất núi chiếm 48,1% diện tích tự nhiên, phân bố ở độ cao trên 200m.
- Đất đồi chiếm 31,1% diện tích tự nhiên.
- Đất dốc tụ và đất đồng bằng trên thềm phù sa cổ, phù sa sông suối chiếm
12,4% diện tích tự nhiên.
Điều này cho thấy tài nguyên đất của tỉnh Thái Nguyên khá đa dạng, phần
lớn đất đai thích hợp cho phát triển nông, lâm nghiệp.
1.3.1.5. Hiện trạng đất đai và tài nguyên rừng
Tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 354.150,15 ha, trong đó diện tích
đất cho sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 23%, diện tích đất có rừng chiếm
gần 48%, còn lại là diện tích đất phi nông nghiệp (đất ở, đất chuyên dùng, …).
Theo số liệu củ a Bộ NN &PTNT tính đến ngày 31/12/2008, diện tích có
rừng của tỉnh Thái Nguyên là 167.904 ha với độ che phủ là 45,3%, trong đó diện
tích rừng tự nhiên là 99.922 ha (chiếm gần 59,5%), diện tích rừng trồng là
67.982 ha (chiếm 40,5%) và diện tích mới trồng là 7.571 ha, trong đó rừng tự
nhiên phân bố tập trung ở các huyện: Võ Nhai, Định Hóa, Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú
Lƣơng.
* Hệ động thực vật rừng: Theo ƣớc tính, hệ thực vật toàn tỉnh có khoảng
490 loài thuộc 344 chi, 130 họ của 8 ngành thực vật bậc cao có mạch, trong đó,
có 207 loài cây gỗ nhỡ và lớn thuộc 60 họ (có 117 loài chiếm ƣu thế trong các
loài cây rừng), các loài dây leo thuộc 17 họ. Ngoài ra, còn có 20 loài thực vật bậc
cao thủy sinh thuộc các họ Hòa thảo, Cói, Rong tóc tiên,… Hệ động vật rừng của
tỉnh có khoảng 213 loài, trong đó lớp thú có 51 loài thuộc 19 họ, lớp chim có 140
loài thuộc 45 họ, lớp bò sát 5 loài thuộc 15 họ, lƣỡng cƣ 17 loài thuộc 5 họ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
20
1.3.2. Điề u kiệ n kinh tế - xã hội
Tỉnh Thái Nguyên có 9 đơn vị hành chính: Thành phố Thái Nguyên; Thị
xã Sông Công và 7 huyện: Phổ Yên, Phú Bình, Đồng Hỷ, Võ Nhai, Định Hóa,
Đại Từ, Phú Lƣơng. Tổng số gồm 180 xã, trong đó có 125 xã vùng cao và miền
núi, còn lại là các xã đồng bằng và trung du.
1.3.2.1. Dân tộ c, dân số và lao động
Theo số liệu thống kê năm 2007, dân số tỉnh Thái Nguyên là 1.137 nghìn
ngƣời thuộc trên 30 dân tộc cùng sinh sống vớ i mật độ dân số trung bình là 321
ngƣời/km
2
(tại thành phố Thái Nguyên mật độ dân cƣ là 1260 ngƣời/ km
2
, trong
khi đó ở vùng cao nhƣ huyện Võ Nhai chỉ có 74 ngƣời/ km
2
). Tốc độ tăng dân số
hàng năm trong những năm gần đây là 0,9%.
Số ngƣời trong độ tuổi lao động khoảng trên 700 nghìn ngƣời chiếm 58%
dân số và bình quân mỗi năm có thêm khoảng 15 nghìn ngƣời đến tuổi lao động.
Lực lƣợng lao động dồi dào, nhƣng chƣa sử dụng hết. Hiện nay còn rất nhiều
ngƣời ở độ tuổi lao động chƣa có việc làm thƣờng xuyên, con số này còn cao
hơn vào những tháng nông nhàn.
Đời sống của ngƣời dân gầ n đây đã đƣợc cải thiện rõ rệt: Mức thu nhập bình
quân đầu ngƣời tăng từ 450.000 đ/ngƣời/năm (2005) lên 800.000 đ/ ngƣời/năm
(2007). Sản lƣợng lƣơng thực đạt ngƣỡng 400 nghìn tấn/năm; sản lƣợng chè đạt gần
150 nghìn tấn/năm, giá trị thu nhập bình quân đạt 46 triệu đồng/ha/năm.
1.3.2.2. Giáo dục, y tế
* Giáo dục: Thái Nguyên đƣợc cả nƣớc biết đến là một trung tâm đào tạo
nguồn nhân lực lớn thứ 3 sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với 6 Trƣờng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
21
Đại học, 11 trƣờng Cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, 9 trung tâm dạy nghề,
mỗi năm đào tạo đƣợc khoảng gần 100.000 lao động.
* Y tế: Thái Nguyên đƣợc coi là một trung tâm y tế của vùng Đông Bắc
với 01 Bệnh viên Đa khoa TW, 9 Bệnh viện cấp tỉnh và 14 Trung tâm y tế cấp
huyện với hệ thống khá hiện đại và hoàn chỉnh. Hoạt động y tế đƣợc duy trì
thƣờng xuyên, liên tục, đan xen với các chƣơng trình quốc gia, từ tuyến tỉnh đến
các trạm y tế cơ sở đã đẩy lùi nhiều bệnh tật, tăng cƣờng chăm sóc sức khỏe
ngƣời dân, tạo đƣợc niềm tin trong đồng bào dân tộc.
1.3.2.3. Cơ sở hạ tầng
* Giao thông: Thái Nguyên có vị trí rất thuận lợi về giao thông, cách sân
bay quốc tế nội bài 50 km, cách biên giới Trung Quốc 200 km, cách trung tâm
Hà Nội 75 km và cảng Hải Phòng 200 km. Thái Nguyên còn là điểm nút giao lƣu
thông qua hệ thống đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng sông hình rẻ quạt kết nối với các
tỉnh thành, đƣờng quốc lộ 3 nối Hà Nội đi Bắc Kạn; Cao Bằng và cửa khẩu Việt
Nam - Trung Quốc; quốc lộ 1B Lạng Sơn; quốc lộ 37 Bắc Ninh, Bắc Giang. Hệ
thống đƣờng sông Đa Phúc - Hải Phòng; đƣờng sắt Thái Nguyên - Hà Nội -
Lạng Sơn.
* Mạng lưới điện: Thái Nguyên là tỉnh có lƣới điện tƣơng đối hoàn chỉnh.
Toàn bộ các huyện trong tỉnh đều có lƣới điện quốc gia, trong đó thành phố Thái
Nguyên, thị xã Sông Công và các thị trấn, huyện có lƣới điện hoàn chỉnh, đáp
ứng tốt cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất.
* Hệ thống nước sạch và tưới tiêu: Thái Nguyên có 2 nhà máy nƣớc là
Thành phố Thái Nguyên và Thị xã Sông Công (công suất của Nhà máy nƣớc
Thái Nguyên đạt 30.000 m
3
/ngày đêm; nhà máy nƣớc thị xã Sông Công với công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
22
suất thiết kế 30.000 m
3
/ngày đêm). Một số thị trấn huyện lỵ của tỉnh đã có hệ
thống cấp nƣớc sạch.
Toàn tỉnh có 1.146 công trình thuỷ lợi, hơn 1,4 nghìn km kênh mƣơng
đƣợc kiên cố, bảo đảm tƣới tiêu ổn định cho 23 nghìn ha lúa vụ đông xuân, 34
nghìn ha lúa vụ mùa, 5 nghìn ha ngô đông,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
23
Chƣơng 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu
- Xác định thành phần các loài nấm ký sinh côn trùng gây hại có trong đất
rừng trồng.
- Nắm đƣợc các đặc điểm sinh học của chủng nấm ký sinh côn trùng có
hiệu lực cao.
- Đề xuất các biện pháp ứng dụng nấm ký sinh côn trùng trong phòng trừ
sinh học cho cây rừng.
2.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu là các loài nấm ký sinh côn trùng có trong đất một
số rừng trồng tại Thái Nguyên.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
- Về địa điểm: Mẫu đất đƣợc lấy tại rừng trồng Keo tai tƣợng, Keo lai, Thông tại
các huyện Đồng Hỷ, Phú Lƣơng, Đại Từ, Võ Nhai, Định Hóa, Phú Bình và
Thành phố Thái Nguyên.
- Mẫu đất sử dụng là đất lấy từ các tầng đất có độ sâu 0 – 10cm.
2.4. Nội dung nghiên cứu
2.4.1. Phân lập các loài nấm có trong đất rừng trồng
2.4.2. Tuyển chọn chủng nấm có hiệu lực ký sinh côn trùng cao
+ Tuyển chọn các chủng nấm có hiệu lực cao