Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 179 trang )

i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI



HOÀNG ĐÌNH MINH


MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRONG NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM


Chuyên ngành: Kinh tế học
Mã số: 62310101


LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. NGUYỄN VĂN NGHIỄN
2. TS. PHẠM CẢNH HUY






HÀ NỘI - 2014
ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các số liệu sử
dụng phân tích trong luận án có nguồn gôc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định.
Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung
thực, khách quan. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu
nào khác


Nghiên cứu sinh
i

MỤC LỤC

MỤC LỤC i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU vi
DANH MỤC HÌNH VẼ vii
LỜI CẢM ƠN viii
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 3
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 3
1.2 Tình hình nghiên cứu của đề tài 5
1.3 Mục tiêu và nhiệm vụ của nghiên cứu 19
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 20
1.5 Phương pháp nghiên cứu 21
1.6 Ý nghĩa khoa học của luận án 23
1.7 Kết cấu của luận án 24
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
25

2.1 Lý luận chung về lạm phát 25
2.1.1 Các quan điểm khác nhau về lạm phát 25
2.1.1.1 Khái niệm và những quan điểm về lạm phát 25
2.1.1.2 Các nguyên nhân gây ra lạm phát 27
2.1.1.3 Lạm phát theo quan điểm trường phái tiền tệ 32
2.1.1.4 Chỉ số đo lường lạm phát 36
2.1.2 Tác động của lạm phát đến nền kinh tế 37
2.1.3 Kết luận 39
2.2 Lý luận chung về tỷ giá hối đoái 39
2.2.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái 40
2.2.2 Chính sách tỷ giá hối đoái 43
2.2.2.1 Khái niệm và mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái 43
2.2.2.2 Nội dung của chính sách tỷ giá hối đoái 44
2.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái 49
2.2.3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn 52
2.2.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái trong trung hạn và dài hạn 53
2.2.4 Tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế 56
ii

2.2.4.1 Tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại 56
2.2.4.2 Tác động của tỷ giá hối đoái tới tăng trưởng kinh tế 58
2.3 Mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái 59
Kết luận chương 2 65
CHƯƠNG 3 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT
VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 67
3.1 Khái quát mô hình VAR 67
3.1.1 Mục tiêu và nội dung của mô hình 67
3.1.2 Quy trình thực hiện VAR 70
3.2 Các biến số và dữ liệu cho mô hình VAR 72
3.2.1 Các biến số trong mô hình VAR 72

3.2.2 Phân tích dữ liệu cho mô hình VAR 78
Kết luận chương 3 82
CHƯƠNG 4 NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TỶ GIÁ
HỐI ĐOÁI TẠI VIỆT NAM 83
4.1 Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam 83
4.2 Tổng quan về lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012 85
4.2.1 Sự biến động của lạm phát 86
4.2.2 Các nguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt Nam 89
4.2.2.1 Các nguyên nhân gây ra lạm phát từ bên trong 89
4.2.2.2 Những nguyên nhân từ bên ngoài 94
4.3 Diễn biến tỷ giá hối đoái tại Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2012 95
4.3.1 Những chế độ tỷ giá hối đoái trong thời gian qua 96
4.3.2 Biến động của tỷ giá hối đoái trong giai đoạn 2008 - 2012 98
4.3.2 Thực trạng đô la hóa tại Việt Nam 105
4.4 Đánh giá mối quan hệ giữa lạm phát vả tỷ giá hối đoái bằng mô hình VAR 107
4.4.1 Xây dựng và kiểm định mô hình VAR 107
4.4.2 Hàm phản ứng đẩy và phân rã phương sai 114
Kết luận chương 4 120
CHƯƠNG 5 KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ LẠM PHÁT NHẰM ỔN ĐỊNH TỶ GIÁ
HỐI ĐOÁI TẠI VIỆT NAM 122
5.1 Định hướng của Đảng và Chính phủ trong tiến trình hội nhập 124
5.1.1 Định hướng hội nhập quốc tế 124
5.1.2 Định hướng hoàn thiện chính sách tiền tệ tại Việt Nam 126
5.2 Các giải pháp giúp quản lý lạm phát 129
5.2.1 Xây dựng một khung lạm phát mục tiêu 129
iii

5.2.2 Các đề xuất khác cho việc giữ ổn định lạm phát 136
5.2.2.1 Cơ cấu lại Ngân hàng Nhà nước 136
5.2.2.2 Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ ngành khác 141

Kết luận chương 5 146
KẾT LUẬN 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
PHỤ LỤC

iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á
BIS: Ngân hàng thanh toán quốc tế
BTC: Bộ tài chính
CCVL: Cán cân vãng lai
CCTM: Cán cân thương mại
CIF: Giá hàng hóa vận chuyển có bảo hiểm
CPI: Chỉ số giá tiêu dùng
CSTK: Chính sách tài khóa
CSTT: Chính sách tiền tệ
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
DTBB: Dự trữ bắt buộc
DTNH: Dự trữ ngoại hối
ĐTNN: Đầu tư nước ngoài
EU: Cộng đồng các quốc gia Châu Âu
EUR: Đồng Euro
FDI: Đầu tư nước ngoài trực tiếp
FII: Đầu tư nước ngoài gián tiếp
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
ICOR: Incremental Capital - Output Rate
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
KBNN: Kho bạc nhà nước

LPMT: Lạm phát mục tiêu
MB: Khối lượng tiền cơ sở
NĐ: Nghị định
NEER: Tỷ giá danh nghĩa đa phương
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTƯ: Ngân hàng trung ương
ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
OLS: Phương pháp bình phương nhỏ nhất
OMO: Nghiệp vụ thị trường mở
v

RCA: Chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu
TCTD: Tổ chức tín dụng
TCTK: Tổng cục thống kê
TCHQ: Tổng cục hải quan
TGHĐ: Tỷ giá hối đoái
TGHĐDN: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa
TGHĐT: Tỷ giá hối đoái thực
TTCP: Thủ tướng chính phủ
USD: Đô la Mỹ
VAR: Mô hình véc tơ tự hồi quy
VAT: Thuế giá trị gia tăng
VECM: Mô hình véc tơ hiệu chỉnh sai số
VND: Việt Nam đồng
WB: Ngân hàng thế giới
WTO: Tổ chức thương mại thế giới














vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1-1: Tổng hợp các nghiên cứu về lạm phát 6
Bảng 1-2: Tổng hợp các nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái 8
Bảng 1-3: Tổng hợp nghiên cứu về tỷ giá hối đoái tại Việt Nam 11
Bảng 1-4: Tổng hợp các nghiên cứu sử dụng mô hình VAR 16
Bảng 3-1: Mô hình VAR trong các nghiên cứu[109;143;104] 73
Bảng 3-2: Các biến trong mô hình kiểm định 79
Bảng 3-3: Thống kê mô tả các biến 81
Bảng 3-4: Ma trận tương quan giữa các biến 81
Bảng 4-1: Lạm phát và tăng trưởng tại Việt Nam từ 2000 đến 2011 (nguồn TCTK) 85
Bảng 4-2: Tỷ lệ lạm phát tại các quốc gia trong khu vực (%/năm)(nguồn:TCTK, IMF) 86
Bảng 4-3: Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội trong năm 2004 (nguồn: TCTK) 87
Bảng 4-4: Các chỉ số vĩ mô tại Việt Nam 2000-2012(%/năm) (nguồn: NHNN, TCTK) 89
Bảng 4-5: Mức lương tối thiểu trong cơ quan nhà nước (đvt: 1000đ) 93
Bảng 4-6: Chế độ tỷ giá hối đoái tại Việt Nam qua các thời ký (121;142) 96
Bảng 4-7: Kết quả ADF tại sai phân 0 109
Bảng 4-8: Kết quả ADF tại sai phân 1 109

Bảng 4-9: Xác định độ trễ của mô hình 110
Bảng 4-10: Kết quả mô hình VAR 110
Bảng 4-11: Phân rã phương sai của mô hình VAR 117
Bảng 5-1: Mục tiêu và thực hiện CSTT, 2000-2012(%/năm) (nguồn: NHNN, TCTK) 128


vii

DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1-1: Các bước thực hiện nghiên cứu 23
Hình 1-2: Sơ đồ nghiên cứu của luận án 24
Hình 2-1: Lạm phát cầu kéo[18] 28
Hình 2-2: Lạm phát chi phí đẩy[18] 29
Hình 2-3: Các nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát[5;6;44;45;21] 35
Hình 2-4 : Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái[22;26;34] 51
Hình 2-5: Tương tác giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát[28;34;45] 60
Hình 2-6: Mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái[90;45;18] 61
Hình 3-1: Tác động qua lại giữa tỷ giá và lạm phát[34;44;89] 74
Hình 3-2: Mối quan hệ giữa các biến trong mô hình[21;71;78120] 74
Hình 3-3: Hai sự lựa chọn đầu tư[140] 77
Hình 3-4: Sự biến động của các biến trong mô hình 80
Hình 4-1: Tăng trưởng GDP của Việt Nam (nguồn: TCTK) 84
Hình 4-2: Thâm hụt ngân sách, vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài (nguồn: BTC, TCTK) 90
Hình 4-3: tỷ giá VND/USD từ năm 2009 đến 2011 (nguồn NHNN) 100
Hình 4-4: Biến động REER, NEER giữa USD/VND (nguồn: Datastream, Thomson Financial) 101
Hình 4-5: Tỷ giá USD/VND giai đoạn 2010 – 2012(nguồn: NHNN, VCB) 103
Hình 4-6: Diễn biến kinh tế Việt Nam 2006 – 2012 (nguồn: TCTK) 105
Hình 4-7: Biểu đồ hàm phản ứng đẩy của mô hình VAR 115
Hình 4-8: Biểu đồ hàm phản ứng tích lũy của các biến 116
Hình 4-9: Kiểm định khuyết tật của mô hình 119

Hình 5-1: Các loại lãi suất và lãi suất Taylor, 2001-2012 (%/năm, nguồn: NHNN) 135
Hình 5-2: Dự trữ ngoại tệ 10 nước Đông Á (nguồn: WB) 140
Hình 5-3: Kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại (nguồn: TCHQ) 144

viii

LỜI CẢM ƠN
Luận án được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học tận tình của TS. Nguyễn Văn
Nghiến và TS. Phạm Cảnh Huy. Nghiên cứu sinh xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình
đến sự hướng dẫn tận tình của hai thầy hướng dẫn.
Trong khoảng thời gian làm nghiên cứu sinh, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ
và động viên của Ban lãnh đạo Viện Kinh tế và Quản lý, Bộ môn Kinh tế học - Trường Đại
học Bách Khoa Hà Nội. Ngoài ra, khi thực hiện nghiên cứu, tôi cũng đã nhận được nhiều
góp ý và ý kiến về chuyên môn cũng như số liệu về thực trạng kinh tế Việt Nam từ các
chuyên gia kinh tế của Vụ Chính sách tiền tệ thuộc Ngân hàng Nhà Nước, Vụ Ngân sách
của Bộ Tài Chính, Tổng công ty Tái bảo hiểm Việt Nam, các bạn bè và người thân tại
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Trường Đại học Ngoại thương, Học viện Ngân hàng và
tại một số ngân hàng thương mại cổ phần quốc doanh. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Cuối cùng, tôi cũng xin cảm ơn cơ sở quản lý – Viện Đào tạo Sau đại hoc Trường
Đại học Bách Khoa Hà Nội đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể hoàn thành được nghiên
cứu này.
1

LỜI MỞ ĐẦU
Từ năm 1986, Việt Nam chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị
truờng theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế
giới, đặc biệt, sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Trong quá trình cải tổ nền kinh tế, Việt
Nam cũng phải tiến hành đồng thời cải tổ hệ thống tài chính, chính sách tài khóa (CSTK)
và chính sách tiền tệ (CSTT) cho phù hợp với từng giai đoạn hội nhập với nền kinh tế thế
giới. Duy trì sự ổn định các chỉ số vĩ mô trong nền kinh tế là điều kiện thiết yếu giúp tăng

trưởng kinh tế và ổn định xã hội.
Do Nhà nước giữ vai trò điều tiết nền kinh tế thông qua các quyết định về định hướng
phát triển kinh tế, chính trị và xã hội. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ vai trò điều
tiết tỷ giá hối đoái, giá xăng dầu vẫn được Chính phủ kiểm soát nhằm mục đích giữ ổn
định nền kinh tế. Đây là đặc điểm khác với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế
giới. Giá lương thực vẫn luôn được Chính phủ quan tâm, trong một số trường hợp Chính
phủ phải có những chính sách gián tiệp hoặc trực tiếp tác động nhằm giữ ổn định giá gạo
trong nước. Trong khoản thời gian từ năm 2000 đến năm 2012, nền kinh tế Việt Nam đã có
nhiều biến động tích cực và tiêu cực, hướng đến hội nhập với nền kinh tế thế giới
Sự biến động của lạm phát và của tỷ giá hối đoái tại Việt Nam trong thời gian qua ảnh
hưởng mạnh đến xuất nhập khẩu và các mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Hai biến số này trong
tương lai sẽ còn có thể tiếp tục tác động tích cực hoặc tiêu cực đến xuất nhập khẩu cũng
như tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Do đó, các nghiên cứu về hai biến số vĩ mô này là
luôn luôn cần thiết trong mọi thời điểm tại Việt Nam.
Nhận thấy mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái là rất quan trọng đối với
một nền kinh tế nhỏ và mở, lấy định hướng xuất khẩu làm động lực tăng trưởng kinh tế
như nền kinh tế Việt Nam. Do đó, một nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá
hối đoái trong giại đoạn từ năm 2000 đến năm 2012 tại Việt Nam là rất cần thiết.
Luận án sẽ hệ thống hóa các quan điểm về lạm phát, tỷ giá hối đoái, tác động của
hai biến số này đến nền kinh tế và mối quan hệ giữa chúng trên phương diện lý thuyết. Sau
đó, luận án sẽ sử dụng mô hình véc tơ tự hồi quy VAR để kiểm định mối quan hệ giữa lạm
phát và tỷ giá hối đoái cùng với một số biến số vĩ mô quan trong khác có quan hệ mật thiết
với lạm phát và tỷ giá hối đoái. Chuỗi số liệu được đưa vào mô hình gồm các biến giá gạo,
giá dầu, lãi suất tiền gửi kỳ hạn ba tháng, lượng dự trữ ngoại hối, tỷ lệ lạm phát và tỷ giá
hối đoái danh nghĩa giữa VND/USD theo quý trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến
năm 2012.
Từ kết quả nhận được thông qua mô hình VAR, có thể thấy được nhân tố tác động
mạnh nhất đến tỷ giá hối đoái là lạm phát. Do đó, đối với những quốc gia như Việt Nam
lấy xuất khẩu làm động lực tăng trưởng kinh tế, nhưng hơn 70% số nguyên vật liệu đầu
vào phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế phải nhập khẩu thì sự ổn

2

định của tỷ giá hối đoái là hết sức quan trọng. Ổn định tỷ giá hối đoái sẽ giúp cho các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu có thể lập và thực hiện kế hoạch
kinh doanh trong trung hạn và dài hạn của mình, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong phần khuyến nghị các giải pháp giúp xác định một mức lạm phát vừa phải để
giữ được ổn định của tỷ giá hối đoái, luận án cho rằng áp dụng chính sách lạm phát mục
tiêu trong thời gian tới là hoàn toàn hợp lý. Căn cứ và điều kiện hiện nay của Việt Nam và
sự thành công của một số quốc gia trong khu vực (Indonesia, Hàn Quốc, Philippine, Thái
Lan) có điều kiện giống Việt Nam, đã áp dụng thành công chính sách lạm phát mục tiêu,
qua đó giữ ổn định được tỷ giá hối đoái, thì việc áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu tại
Việt Nam hiện nay là có thể làm được.
Tuy nhiên, nếu chỉ áp dụng riêng chính sách lạm phát mục tiêu thì có thể chưa đủ
để ổn định lạm phát tại Việt Nam. Vì vậy, cần có sự phối giữa chính sách tiền tệ với chính
sách tài khóa, chính sách thương mại thì mới có thể đạt được mức lạm phát mong muốn
nhằm giữ ổn định tỷ giá hối đoái.




3

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Chương 1 của luận án sẽ giới thiệu khái quát về nội dung được nghiên cứu. Những
nội dung chính được trình bày trong chương này sẽ bao gồm tính cấp thiết của đề tài, tình
hình nghiên cứu trong nước và trên thế giới về đề tài, mục tiêu và nhiệm vụ cần đạt được
của nghiên cứu, đối tượng và phạm vi cần nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và cuối
cùng là kết cấu của luận án.
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc cải tổ chuyển đổi nền kinh tế từ

cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị truờng theo định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Đặc biệt, sau khi Việt Nam gia nhập WTO,
điều này mang lại nhiều cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp tại Việt Nam. Trong
quá trình cải tổ nền kinh tế, Việt Nam cũng phải tiến hành đồng thời cải tổ hệ thống tài
chính, chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) cho phù hợp với từng giai
đoạn hội nhập với nền kinh tế thế giới. Duy trì sự ổn định các chỉ số vĩ mô trong nền kinh
tế là điều kiện thiết yếu giúp tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội.
Tính từ thời điểm thực hiện “đổi mới” vào năm 1986 đến nay, nền kinh tế Việt Nam
được định hướng lấy xuất khẩu làm động lực tăng trưởng. Trong gần 30 năm thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế lấy xuất khẩu làm động lực tăng trưởng, nền kinh tế Việt Nam
đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực xuất khẩu
chiếm tỷ trọng lớn, thì doanh nghiệp Việt Nam thường xuyên phải nhập các nguyên vật
liệu đầu vào từ thị trường quốc tế để phục vụ cho việc sản xuất hàng xuất khẩu, ví dụ: khối
ngành may mặc, da giầy, đóng tầu thủy, theo số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK) thì
nguyên vật liệu đầu vào chiếm tỷ trọng là 70% giá trị của hàng xuất khẩu. Ngoài ra, một số
ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nuớc cũng có tỷ
trọng nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào lớn, ví dụ như lĩnh vực xây dựng, các công ty
thép, xi măng và đặc biệt trong lĩnh vực xăng dầu. Theo số liệu công bố của Tổng cục Hải
quan(TCHQ), Việt Nam nhập khẩu một lượng xăng dầu trị giá khoảng 10 tỉ đô la Mỹ trong
năm 2011, và 9 tỉ đô la Mỹ trong năm 2012, 7 tỉ đô la Mỹ cho sắt thép trong năm 2011 và
6 tỉ đô la Mỹ trong năm 2012. Căn cứ vào thực tế trên, có thể nhận thấy rằng tỷ giá hối
đoái giữ một vai trò quan trọng đối với giá hàng hoá xuất nhập khẩu tại Việt Nam và đối
với các khoản nợ nước ngoài được vay bằng ngoại tệ của nền kinh tế Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương
khóa X, mục tiêu phát triển đất nước từ 2011 đến 2015 đã được xây dựng theo các chỉ tiêu,
trong đó có đề cập cụ thể “kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập
siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu”[13].

4


Lạm phát và tỷ giá hối đoái là hai biến số quan trọng trong nền kinh tế mở, chúng có sự
tác động qua lại với nhau. Ngoài ra, lạm phát và tỷ giá hối đoái cũng tác động đến các biến
số vĩ mô khác trong nền kinh tế như lãi suất, tốc độ tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp và cán
cân thanh toán quốc tế.
Từ năm 1986 đến năm 1991, lạm phát tại Việt Nam đã luôn ở mức cao, thậm chí có
lúc lạm phát ở mức ba con số vào năm 1986, và tỷ lệ lạm phát thấp nhất trong thời kỳ này
là 34,7% vào năm 1989. Từ năm 1992, Việt Nam thực hiện các chính sách tài khóa
(CSTK) và chính sách tiền tệ thắt chặt qua đó đã kéo được lạm phát từ mức cao trong giai
đoạn trước đó về mức thấp trong một thời gian dài. Thậm chí, tình trạng thiểu phát đã xảy
ra tại Việt Nam trong giai đoạn 1999 đến 2003. Sang năm 2004, mức giá chung đã tăng lên
và Việt Nam đã ra khỏi tình trạng thiểu phát. Tuy nhiên, do các diễn biến phức tạp của
kinh tế thế giới và sự tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán và thị trường bất động
sản trong nước cùng với nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam tăng nhanh sau khi Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của WTO, thì lạm phát đã tăng vọt trở lại từ 12,67% vào năm
2007 lên đến hơn 21% vào năm 2011.
Sự biến động của lạm phát và của tỷ giá hối đoái tại Việt Nam trong thời gian qua ảnh
hưởng mạnh đến xuất nhập khẩu và các mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Hai biến số này trong
tương lai sẽ còn có thể tiếp tục tác động tích cực hoặc tiêu cực đến xuất nhập khẩu cũng
như tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Do đó, các nghiên cứu về hai biến số vĩ mô này là
luôn luôn cần thiết trong mọi thời điểm tại Việt Nam.
Trong giai đoạn từ 2008 đến 2011, Việt Nam liên tục có mức lạm phát hai con số, lạm
phát cao thường đưa đến các tổn thất cho sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Một trong
các nhân tố ảnh hưởng mạnh đến tỷ giá hối đoái được các nhà nghiên cứu kinh tế chỉ ra là
lạm phát. Do đó, việc điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô để giữ ổn định lạm phát luôn
giữ một vị trí quan trọng, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải áp dụng các chính
sách phù hợp trong từng giai đoan nhằm đạt được mục tiêu lạm phát tối ưu và chính sách
tỷ giá hối đoái hợp lý. Những nhà điều hành chính sách tiền tệ tại các Ngân hàng Trung
ương (NHTƯ) trên thế giới hầu như đều có chung một số mục tiêu, trong đó mối quan tâm
hàng đầu của họ là “ổn định giá cả”.
Có thể hiểu ổn định giá cả là ổn định sức mua của đồng nội tệ trong đối nội và đối

ngoại. Do chính sách tiền tệ tại mỗi quốc gia đều có một độ trễ nhất định tính từ thời điểm
bắt đầu áp dụng đến khi chính sách tiền tệ được áp dụng phát huy tác dụng. Vì vậy, trong
mỗi thời điểm nhất định, sự tính toán hợp lý về khung thời gian thích hợp sẽ cho phép
chính sách tiền tệ được bắt đầu từ hôm nay đạt được mục tiêu dài hạn là ổn định giá cả,
đồng thời tạo môi trường vĩ mô ổn định cho các thành phần trong nền kinh tế có thể lập và
thực hiện được các kế hoạch kinh doanh của mình hiệu quả nhất trong tương lai[21].
5

Có thể thấy bài toán cho việc cân bằng lạm phát, tỷ giá hối đoái của Việt Nam đến thời
điểm hiện nay vẫn chưa có được giải pháp tối ưu. Trong ngắn hạn và trung hạn, Việt Nam
rất khó có thể hội tụ đủ điều kiện để chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi. Vì thế,
luận án tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa hai biến số vĩ mô lạm phát và tỷ giá hối
đoái. Mục tiêu của nghiên cứu hướng đến là tìm ra giải pháp nhằm hạn chế những biến
động không mong muốn của tỷ giá hối đoái tại Việt Nam thông qua việc giữ ổn định lạm
phát. Một số quốc gia trên thế giới (trong đó có một số quốc gia trong khu vực Đông Nam
Á) đã lựa chọn áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu, để giúp ổn định tỷ giá hối đoái trên
thị trường ngoại hối.
Sự phức tạp cũng như thú vị của lạm phát và tỷ giá hối đoái đã tạo động lực để nghiên
cứu sinh chọn đề tài “Mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế
Việt Nam” để tìm hiểu và nghiên cứu chuyên sâu.
1.2 Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trên thế giới và tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về lạm phát và tỷ giá hối đoái. Vì
vậy, đề tài này không phải là một hướng nghiên cứu mới. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp
của lạm phát và tỷ giá hối đoái trong từng thời điểm, tại mỗi quốc gia đều khác nhau. Do
đó, nghiên cứu về hai biến số này tại từng thời điểm đều rất cần thiết đối với mỗi quốc gia.
Luận án đã tổng hơp các nghiên cứu về lạm phát, tỷ giá hối đoái, về mối quan hệ giữa lạm
phát và tỷ giá hối đoái trên thế giới và các mô hình kinh tế lượng được sử dụng trong
những nghiên cứu này theo thứ tự về mặt thời gian.
Trên bình diện quốc tế đã có những nghiên cứu về lạm phát và tỷ giá hối đoái từ rất
sớm. Các nghiên cứu này tập trung nghiên cứu những biến động của giá cả - lạm phát tại

một quốc giá trong những khoảng thời gian khác nhau. Một số nghiên cứu sử dụng phương
pháp tiếp cận định tính, số khác sử dụng phương pháp định lượng thông qua các mô hình
kinh tế lượng để đưa ra các kết luận về những biến động của hai biến số này và ảnh hưởng
của chúng đến nền kinh tế.









6

Bảng 1-1: Tổng hợp các nghiên cứu về lạm phát
Tên nghiên cứu

Thời gian Tổng hợp kết quả nghiên cứu
A.D. White 1932
Đưa ra kết luận về mối quan hệ giữa lượng tiền và
lạm phát tại Pháp trên phương diện định tính
J.M. Keynes 1936
Là căn cứ để các nhà kinh tế tìm hiểu về lạm phát,
thất nghiệp, lãi suất và chính sách tiền tệ.
H. Frisch 1990
Phân tích diễn biến lạm phát từ năm 1960 đến 1980,
tổng hợp các mô hình và lý thuyết về lạm phát.
Callen, Chang 1999
Đánh giá chỉ số nào cung cấp thông tin hữu ích nhất

về xu hướng lạm phát trong tương lai
Gali, Gertler 1999
Sử dụng đường cong Phillips để dự báo lạm phát qua
chi phí cận biên
Gerlach, Peng 2006
Cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và chênh lệch
sản lượng tại Trung Quốc bằng mô hình đường cong
Phillips cho giai đoạn 1982-2003
Một trong những nghiên cứu về lạm phát sớm nhất phải kể đến công trình “Fiat money
inflation in France” của A.D. White (1932)[62], trong công trình nghiên cứu của mình, tác
giả đã đưa ra những dự đoán và quan điểm về việc chính phủ tăng lượng tiền giấy tại Pháp
và Mỹ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Đây có thể là nguồn gốc đưa
đến cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên trong thế kỷ XX. Tiếp theo, là tác phẩm nổi tiếng
của Keynes (1936) “The General Theory of Employment, Interest, and Money”. Tác phẩm
này thường được xem là tác phẩm kinh điển về kinh tế học đối với các nhà kinh tế học ở
Anh và được cho là đã đặt nền móng cho môn kinh tế học vĩ mô hiện đại. Nó đưa ra các lý
luận quan trọng về hàm tiêu dùng, về nguyên lý số nhân tiền gửi, về hiệu suất biên của vốn
và về sự ưa thích sử dụng tiền mặt (bản dịch tiếng Việt là - Lý thuyết tổng quát về việc
làm, lãi suất và tiền tệ - 1994). Điển hình cho nghiên cứu định tính về lạm phát là H.Frisch
(1990)[86] với công trình “Theories of inflation” đã tổng hợp được những quan điểm về
lạm phát của các trường phái kinh tế học khác nhau cũng như các phương pháp tính lạm
phát và các mô hình dự báo tác động của lạm phát đến nền kinh tế. Có thể thấy, cả ba tác
phẩm trên đều là những lý thuyết cơ bản về các biến số vĩ mô, chúng được các nhà kinh tế
học sử dụng làm căn cứ để thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu về kinh tế học vĩ mô trong
các giai đoạn sau đó. Tuy nhiên, do các tác phẩm trên đều ra đời vào thời kỳ thương mại
quốc tế và quá trình toàn cấu hóa chưa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, do đó, vai trò của tỷ
giá hối đoái chưa được đề cập nhiều trong ba tác phẩm trên.
7

Về định lượng, mô hình hiệu chỉnh sai số ECM đã được Callen, Chang (1999)[72] sử

dụng để phân tích các yếu tố tác động đến lạm phát tại Ấn Độ trong nghiên cứu “Modeling
and Forecating Inflation in India”. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng lạm phát tại Ấn Độ bắt nguồn
từ sự biến động giá của các sản phẩm cơ bản (primary product), chúng thay đổi hàng năm
và phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố thời tiết và trong cách quản lý giá của chính phủ. Nhân tố
tiếp theo là lượng tiền cơ sở M1, lượng tiền M2 được xem là hai thông số dự báo tốt nhất
cho lạm phát trong tương lai tại Ấn Độ. Tuy nhiên, nghiên cứu này không tập trung nhiều
đến sự biến động của tỷ giá hối đoái, giá hàng nhập khẩu đối với lạm phát.
Một số nhà nghiên cứu khác như Gali, Gertler (1999)[87] sử dụng mô hình đường cong
Phillips trong lý thuyết New Keynesian để phân tích và giải thích hiện tượng lạm phát tại
Mỹ trong công trình “Inflation Dynamics: A structural Econometric Approach”. Trong
nghiên cứu này, các tác giả cho thấy chi phí cận biên có thể là một tín hiệu quan trọng để
đánh giá sự biến động của lạm phát trong tương lai. Còn Gerlach, Peng (2006)[88] công bố
nghiên cứu “Output gap and Inflation in Mainland China” dùng mô hình đường cong
Phillips để đánh giá sự chênh lệch sản lượng của nền kinh tế và lạm phát tại Trung Quốc,
kết quả của nghiên cứu cho thấy nếu chỉ áp dụng mô hình đường cong Phillips thì không
phù hợp trong việc đánh giá sự tương tác của các biến, trong điều kiện chính sách của
Trung Quốc thay đổi về việc quy định giá cả, tự do hóa thương mại và thay đổi của chính
sách tỷ giá hối đoái. Điều này chứng tỏ nghiên cứu đã bỏ qua một số biến mà nghiên cứu
không quan sát được.
Mối quan hệ giữa lạm phát và các biến số vĩ mô luôn được các nhà nghiên cứu quan
tâm. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay, xu hướng toàn cầu hóa đã diễn ra nhanh
hơn, trao đổi thương mại giữa các quốc gia không ngừng tăng lên cả về chất và lượng. Vì
vậy, tỷ giá hối đoái giữ vai trò vô cùng quan trọng trong quan hệ thương mại và cán cân
thanh toán quốc tế của mỗi quốc gia.











8

Bảng 1-2: Tổng hợp các nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái

Tên nghiên cứu Năm

Tổng hợp kết quả nghiên cứu
N.Thygesen 1977

Thay đổi tỷ giá hối đoái của các quốc gia trong EC
trong khoảng thời gian từ 1960 đến 1975 chủ yếu là
do chênh lệch lạm phát giữa các quốc gia này.
Andres, Hernando,
Krueger
1996

Nghiên cứu chỉ ra được mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với lạm phát và tỷ giá hối đoái tại
các quốc gia OECD.
Kara, Nelson 2002

Chỉ ra được mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá
hối đoái tại Vương quốc Anh
Achsani, Fauzi, Abdullah 2010

So sánh phản ứng về sự thay đổi của lạm phát ảnh

hưởng đến tỷ giá hối đoái thực tại Đông Nam Á,
EU và Bắc Mỹ, áp dụng mô hình Granger để kiểm
định nhân quả giữa hai biên số trên.
Mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái đã được nghiên cứu từ rất sơm trên thế
giới. Thygesen (1977)[138] với công trình nghiên cứu “Inflation and exchange rate,
evidence and policy guidelines for the Eurpopean Community” đã cho thấy những thay đổi
tỷ giá hối đoái của các đồng tiền thuộc công đồng các quốc gia Châu Âu trong giai đoạn từ
đầu những năm 1960 đến giữa những năm 1970 chủ yếu là chênh lệch lạm phát. Trong
nghiên cứu này các tác giả đã sử dụng chỉ số giá bán buôn để đo lượng lạm phát tại các
quốc gia trong EU, và lý thuyết ngang giá sức mua được áp dụng để đo lường sự tác động
giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái. Nghiên cứu có thể coi là cơ sở cho các nghiên cứu tiếp
theo về lạm phát và tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, vì phạm vi của nghiên cứu chỉ dừng lại trên
các nước thành viên của EU và thời điểm nghiên cứu được thực hiện chưa diễn ra cuộc
khủng hoảng giá xăng dầu lần thứ nhất. Do đó, nghiên cứu không kiểm định được tác động
của giá xăng dầu lên lạm phát và tỷ giá hối đoái tại các nước EU.
Andres, Hernando, Krueger (1996)[67] đã đưa ra công trình nghiên cứu “Growth,
inflation and the exchange rate regime” dựa trên hiệu ứng Balassa – Samuelson, các tác giả
đã chỉ ra được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với lạm phát và tỷ giá hối đoái tại các
quốc gia OECD. Nghiên cứu này cho thấy, sự chênh lệch năng suất lao động giữa các quốc
gia cũng là nguyên nhân gây ra sự biến động của tỷ giá hối đoái và tỷ giá hối đoái sẽ thay
đổi khi chính phủ chấp nhận tăng lạm phát để hướng tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Kara, Nelson (2002)[101] trong nghiên cứu “The exchange rate and inflation in the
UK” đã phân tích các số liệu thực tế về sự biến động của lạm phát tại UK và tập trung đặc
biệt vào sự kết nối giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát tại đây. Nghiên cứu này đã chứng minh
9

được mối liên hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát tại Vương quốc Anh. Công trình tập
trung nghiên cứu mối quan hệ giữa giá hàng hóa sản xuất trong nước, giá hàng hóa nhập
khẩu để tiêu dùng trong nước với tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Sau đó, nghiên cứu đã chứng
minh chính sách lạm phát mục tiêu được áp dụng tại Anh đã giúp ổn định được tỷ giá hối

đoái danh nghĩa. Nghiên cứu này không đề cập nhiều đến hàng hóa xuất khẩu của Anh ra
thế giới.
Tiếp theo, Achsani, Fauzi, Abdullah (2010)[63] đã công bố nghiên cứu “The
Relationship between Inflation and Real Exchange Rate: Comparative Study between
ASEAN+3, the EU and North America” (không có Việt Nam) cho thấy mối quan hệ giữa
lạm phát và tỷ giá hối đoái trên phương diện lý thuyết, mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá
hối đoái tại Châu Á mạnh hơn so với tại Châu Âu và Bắc Mỹ. Nghiên cứu chỉ ra tầm quan
trọng của quản lý lạm phát để ổn định các chỉ số kinh tế khác và quản lý lạm phát tại Châu
Á thì phức tạp hơn so với tại Liên minh Châu Âu và Bắc Mỹ. Đây có thể coi là một tài liệu
tham khảo quan trọng cho luận án.
Còn theo Frankel (2003)[84] trong nghiên cứu “A proposed monetary regime for small
commodity exporters: peg to the export price (pep)” đưa ra đề xuất về chế độ tỷ giá đối với
các quốc gia xuất khẩu nhỏ, tác giả cho rằng các quốc gia này có thể xây dựng chế độ tỷ
giá hối đoái neo với giá của mặt hàng xuất khẩu chính của quốc gia đó, điều này sẽ hợp lý
đối với các quốc gia tập trung chuyên môn hóa sản xuất hàng nông nghiệp hoặc khoáng
sản đặc thù. Tuy nhiên, điều này rất khó áp dụng đối với Việt Nam, vì hiện này Việt Nam
xuất khẩu nhiều mặt hàng nhưng không có mặt hàng nào có thể coi là chủ lực để có thể neo
tỷ giá hối đoái vào giá của mặt hàng đó.
Trong thời gian gần đây có xuất hiện một số nghiên cứu về hiệu ứng trung chuyển tỷ
giá hối đoái (Exchange rate pass through) vào lạm phát, trong nghiên cứu “Exchange rate
pass – through and monetary policy”, Mishkin (2008)[112] đã chỉ ra sự tác động của hiệu
ứng trung chuyển tỷ giá đến việc thực thi chính sách tiền tệ. Tiếp theo, Nguyen Cam
Nhung (2011)[115] trong nghiên cứu “Exchange rate pass – through into vietnam’s import:
Empirical evidence from Japanese trade data” cho thấy có sự chuyển dịch biến động tỷ giá
hối đoái vào giá nhập khẩu trong công nghiệp chế tạo máy của Việt Nam từ Nhật. Ngược
lại điều này không phổ biến trong ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam, lý giải cho
điều này tác giả cho rằng trường hợp này đồng đô la Mỹ đã được sử dụng trong thương
mại giữa Việt Nam và Nhật. Các nghiên cứu này tập trung trên góc độ, khi tỷ giá hối đoái
thay đổi sẽ ảnh hưởng đến giá hàng hóa nhập khẩu. Khi giá của hàng hóa nhập khẩu thay
đổi sẽ làm thay đổi mức giá chung trong nước. Mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối

đoái là mối quan hệ hai chiều, có thể coi những nghiên cứu này là những nghiên cứu về
nguyên nhân gây ra lạm phát từ tỷ giá hối đoái.
10

Sau khi một số quốc gia áp dụng thành công chính sách lạm phát mục tiêu, mang lại
một mức lạm phát thấp và tỷ giá hối đoái được giữ ổn định. Một số công trình nghiên cứu
về mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tỷ giá hối đoái đã được thực hiện. Sớm nhất là
các công trình nghiên cứu của Mishkin từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước về chính sách lạm
phát mục tiêu và tỷ giá hối đoái. Đầu tiên là nghiên cứu “From monetary targeting to
inflation targeting: lesson from the industrialized countries” Mishkin (2000)[110] đã chỉ ra
những thành công của chính sách lạm phát mục tiêu tại Thụy Sĩ và Đức, và đưa ra những
kinh nghiệm cho các quốc gia muốn áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu. Tiếp theo,
Mishkin công bố công trình nghiên cứu “Can inflation targeting work in emerging market
countries” (2004)[111] đã cho thấy hai quốc gia thị trường mới nổi (emerging market) là
Chile và Brasil đã áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu và thu được những thành tựu nhất
định, điều này sẽ mở ra một hướng đi mới cho chính sách tiền tệ tại các quốc gia thị trường
mới nổi.
Tại khu vực Châu Á, nghiên cứu của Ito, Hayashi (2004)[137] “Inflation targeting in
Asia” đã chỉ ra mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát mục tiêu, đồng thời phân tích
những thành công của chính sách lạm phát mục tiêu giúp ổn định tỷ giá hối đoái tại một số
nước Châu Á bao gồm Hàn Quốc, Thái Lan và Phillipine.
Một công trình công bố gần đây về tác động của lạm phát mục tiêu đến tỷ giá hối đoái
của A.Widyasanti [65] “Inflation targeting and exchange rates in emerging economies”
(2010), tập trung phân tích mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái tại Indonesia. Tác
giả đã sử dụng mô hình véc tơ tự hồi quy (VAR) để chỉ ra mối quan hệ hai chiều giữa
chính sách lạm phát mục tiêu và tỷ giá hối đoái trong các nền kinh tế mới nổi như
Indonesia, sau khi áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu từ năm 1999, Indonesia đã duy trì
được một mức tỷ giá hối đoái ổn định.
Trong các nghiên cứu về lạm phát mục tiêu, các tác giả đều nêu ra ưu điểm của chính
sách lạm phát mục tiêu là xây dựng được niềm tin quốc gia đối với các đối tác thương mại

và các thành phần kinh tế về việc giữ một mức lạm phát ổn định trong trung hạn và dài
hạn. Điều này sẽ giúp giữ ổn định được giá trị của đồng bản tệ so với các đồng ngoại tệ
khác, thực tế đã chứng minh kết quả đạt được từ các quốc gia như Hàn Quốc, Chile,Thái
Lan, Indonesia, Úc, Anh, Thụy Sĩ. Tuy nhiên, chính sách lạm phát mục tiêu vẫn còn có
những nhược điểm như, rất khó xác định khung giao động lạm phát cho mỗi quốc gia tại
mỗi thời điểm khác nhau, và khi lạm phát vượt quá khung giao động thì ai sẽ phải chịu
trách nhiệm, cũng như ảnh hưởng của việc này đến các biến số vĩ mô khác như thế nào.
Song hành với những nghiên cứu về lạm phát và tỷ giá hối đoái trên thế giới, các tổ
chức nghiên cứu kinh tế, các trường đại học và các nhà kinh tế tại Việt Nam cũng tiến hành
những nghiên cứu về lạm phát và tỷ giá hối đoái tại Việt Nam trong mỗi giai đoạn khác
nhau. Tuy nhiên, các nghiên cứu tại Việt Nam không phong phú như trên thế giới, do Việt
11

Nam mới bắt đầu thực sự có một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ
năm 1986 sau khi xóa bỏ bao cấp. Đến năm 1994, Việt Nam mới bắt đầu thực hiện thống
kê các số liệu cho các chỉ số vĩ mô theo tiêu chuẩn quốc tế. Những nghiên cứu về tỷ giá hối
đoái tại Việt Nam chủ yếu là đánh giá tác động của chính sách tỷ giá hối đoái đến cán cân
thương mại nói riêng và cán cân thanh toán quốc tế nói chung, hoặc đánh giá về chính sách
tỷ giá hối đoái tại Việt Nam và đưa ra khuyến nghị để hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái
tại Việt Nam. Còn phần lớn các nghiên cứu về lạm phát tại Việt Nam lại tập trung tìm hiểu
và đánh giá mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Bảng 1-3: Tổng hợp nghiên cứu về tỷ giá hối đoái tại Việt Nam
Tên nghiên cứu Thời gian

Tổng hợp kết quả nghiên cứu
Nguyễn Thị Thu Thảo 1995
Phân tích chính sách tỷ giá hối đoái tại Việt
Nam và đưa ra khuyến nghị sử dụng chính
sách tỷ giá hối đoái hỗn hợp.
Võ Trí Thành 2000

Đánh giá được tác động của tỷ giá hối đoái đến
lạm phát, sản lượng công nghiệp thực và lượng
tiền cung ứng tại Việt Nam.
Nguyễn Thị Thư 2001
Chứng minh được tác động của chính sách tỷ
giá hối đoái đến hoạt động xuất nhập khẩu tại
Việt Nam.
Dương Thị Thanh Mai 2002
Ước lượng hệ số co dãn cầu xuất nhập khẩu
của Việt Nam đối với tỷ giá hối đoái thực.
Lê Thị Tuấn Nghĩa 2004
Đánh giá hiệu quả các công cụ của chính sách
tiền tệ.
Mai Thu Hien 2006
Đánh giá thực trạng chính sách tỷ giá hối đoái
tại Việt Nam và đưa ra khuyến nghị giúp ổn
định tỷ giá trong tương lai
Có thể kể đến một số nghiên cứu điển hình sau, Nguyễn Thị Thu Thảo (1995)[50] công
bố công trình nghiên cứu “Đổi mới và hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay”, tác giả đã phân tích chế độ tỷ giá hối đoái cố định và chế độ tỷ
giá hối đoái linh hoạt và đưa ra kết luận chế độ tỷ giá hối đoái hỗn hợp kết hợp của hai chế
độ tỷ giá hối đoái trên sẽ phù hợp và đạt được kết quả tối ưu cho Việt Nam. Do nghiên cứu
được thực hiện cách đây đã 18 năm, trong khi nền kinh tế và các điều kiện xã hội tại Việt
Nam thay đổi liên tục trong suốt thời gian đó. Mặc dù vậy, công trình nghiên cứu của tác
giả vẫn là một nguồn tham khảo có giá trị cho các nghiên cứu kế tiếp về tỷ giá hối đoái.
12

Tiếp theo, Võ Trí Thành và các công sự công bố công trình “Exchange rate
arrangement in Vietnam: information content and policy options” vào năm 2000[142]. Đây
là công trình nghiên cứu chính sách tỷ giá hối đoái tại Việt Nam trong giai đoạn trước năm

2000 và đưa ra những lựa chọn về chính sách tỷ giá hối đoái cho Việt Nam trong giai đoạn
tiếp theo. Sau đó là nghiên cứu “Tỷ giá hối đoái: chính sách và tác động của nó đối với
ngoại thương qua thực tiễn phát triển kinh tế của một số nước” của Nguyễn Thị Thư vào
năm 2001[52]. Năm 2002, Dương Thị Thanh Mai [31] công bố công trinh nghiên cứu
“Vận dụng mô hình phân tích chính sách tỷ giá ở Việt Nam” ước lượng hệ số co giãn cầu
xuất nhập khẩu của Việt Nam đối với tỷ giá hối đoái thực. Nghiên cứu cho kết quả là hệ số
co giãn của cầu xuất nhập khẩu tại Việt Nam với tỷ giá hối đoái là nhỏ hơn 1. Cụ thể độ co
giãn của cầu xuất nhập khẩu đối với tỷ giá hối đoái thực bằng 0,227. Do vậy, sự thay đổi
của tỷ giá hối đoái thực trong giai đoạn này không có tác động đến xuất nhập khẩu. Kết
quả kiểm định này cũng phù hợp với cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam tập trung chủ
yếu là các mặt hàng ở dạng thô hoặc sơ chế và những mặt hàng chế biến có tỷ trọng nguồn
nguyên liệu đầu vào nhập khẩu cao, còn cơ cấu nhập khẩu chủ yếu vẫn là tư liệu sản xuất
cho giai đoạn từ năm 1989 - 2000. Trong nghiên cứu của mình, kinh nghiệm điều hành tỷ
giá hối đoái tại 3 quốc gia là Venezuela, Thái Lan và Trung Quốc đã đước tác giả phân tích
làm dẫn chứng cho trường hợp Việt Nam.
Có thể thấy, những công trình này đã được thực hiện cách đây hơn một thập kỷ, vào
thời điểm đó, mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới chưa
mạnh như tại thời điểm hiện nay. Vì vậy, những nghiên cứu này có thể được sử dụng làm
nền tảng rất tốt cho các nghiên cứu tiếp theo về tỷ giá hối đoái tại Việt Nam.
Trong năm 2004, Lê Thị Tuấn Nghĩa [37] công bố công trình nghiên cứu “Hoàn thiện
cơ chế điều hành tỷ giá nhằm nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ ở Việt Nam”. Nghiên
cứu này tập trung vào phân tích các công cụ của chính sách tiền tệ như nghiệp vụ thị
trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất, tỷ giá hối đoái. Tác giả tập trung vào hai nội
dung phân tích là cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái và chính sách tiền tệ tại Việt Nam.
Trong nghiên cứu, tác giả đã dựa vào kinh nghiêm tại Mỹ, Hàn Quốc và Trung Quốc để
làm dẫn chứng cho việc áp dụng các công cụ của chính sách tiền tệ tại Việt Nam.
Vào năm 2006, Trương Văn Phương [41] đưa ra nghiên cứu “Lựa chọn cơ chế phù hợp
và điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong quá trình hội nhập”. Tác giả
phân tích về chính sách tỷ giá hối đoái tại Việt Nam trong quá khứ và đưa ra khuyến nghị
cho việc lựa chọn cơ chế tỷ giá hối đoái khi Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên, nghiên

cứu này không đi sâu phân tích ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô đến tỷ giá hối đoái. Cũng
vào thời điểm này, Mai Thu Hien công bố công trình “Solutions for exchange rate policy
of transition economy of Vietnam”[107]. Tác giả cũng đã tổng hợp diễn biến của tỷ giá hối
đoái tại Việt Nam trong giai đoạn từ thời kỳ đổi mới 1986 đến đầu những năm 90 của thế
kỷ XX và đánh giá tác động của tỷ giá hối đoái đến các biến số vĩ mô khác theo cách tiếp
13

cận định tính. Cuối cùng tác giả đưa ra khuyến nghị Việt Nam cần áp dụng chính sách lạm
phát mục tiêu để qua đó ổn định lạm phát giúp tỷ giá hối đoái giao động trong phạm vi cho
phép. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của mình tác giả không chứng minh mối quan hệ giữa
lạm phát và tỷ giá hối đoái tại Việt Nam bằng số liệu, và không đưa ra khung lạm phát mục
tiêu cho Việt Nam.
Tiếp theo, trong công trình “Exchange rate policy in Viet Nam, 1995 – 2008”, Nguyen
Tran Phuc, Nguyen Duc Tho (2009)[121] đã cho thấy Chính phủ và NHNN Việt Nam
nghiêng về quản lý hơn là thả nổi đối với tỷ giá hối đoái, chính sách tiền tệ đa mục tiêu đã
không định hướng được mục tiêu nào là quan trọng cho từng thời điểm: ổn định tỷ giá hối
đoái? kiểm soát lạm phát trong một phạm vi nhất định? Hay hạn chế thâm hụt cán cân
thanh toán. Hai tác giả đã chỉ ra được sự lúng túng và bị động của chính sách tiền tệ tại
Việt Nam khi nền kinh tế thế giới và Việt Nam có những biến động.
Ngân hàng Nhà nước, Vụ Quản lý Ngoại hối (2009)[61] đã thực hiện nghiên cứu “Cơ
chế điều hành tỷ giá hối đoái phù hợp trong điều kiện hiện này” để chỉ ra rằng Việt Nam
đang thực hiện cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt có quản lý. Năm 2010, Trung tâm Nghiên
cứu Kinh tế và Chính sách, Trường Đại học kinh tế thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã
công bố công trình nghiên cứu “Lựa chọn chính sách tỷ giá trong bối cảnh phục hồi kinh
tế” của nhóm tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng, Đinh Tuấn Minh, Tô Trung Thành, Lê Hồng
Giang, Phạm Văn Hà[23], cho rằng Việt Nam đang theo đuổi cơ chế neo tỷ giá hối đoái có
điều chỉnh và cơ chế này hiện nay không hiệu quả, nhóm tác giả đưa ra đề xuất, là Việt
Nam nên chuyển sang cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý.
Nhóm tác giả Vũ Quốc Huy, Nguyễn Thị Thu Hằng và Vũ Phạm Hải Đăng (2011)[26]
đã đưa ra công trình nghiên cứu “Tỷ giá hối đoái giai đoạn 2000 – 2011: Mức độ sai lệch

và tác động của nó với xuất nhập khẩu”. Nghiên cứu đã tổng hợp các diễn biến của tỷ giá
hối đoái tại Việt Nam trong thời gian qua và sử dụng mô hình kinh tế lượng đánh giá tác
động của tỷ giá hối đoái đến xuất nhập khẩu tại Việt Nam.
Gần đây nhất là công trình nghiên cứu của Đặng Thị Huyền Anh (2012)[1] “Tác động
của tỷ giá thực đến cán cân thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế”. Tác giả đã tính toán độ co giãn của cầu xuất nhập khẩu khi tỷ giá hối đoái biến động
theo điều kiện Marschall – Lerner. Tuy nhiên, tại thời điểm tác giả lấy làm mốc để thu thập
số liệu thì Việt Nam chưa gia nhập WTO. Do đó, nghiên cứu chưa đưa những đối tác
thương mại chính của Việt Nam sau khi gia nhập WTO vào để tính tỷ giá hối đoái thực tại
Việt Nam. Hoàng Thị Lan Hương (2012)[25] với công trình “Hoàn thiện chính sách tỷ giá
ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020” với mục đích đề xuất giải pháp giải quyết các vấn đề
của chính sách tỷ giá hối đoái, lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái và sử dụng công cụ trong
điều tiết tỷ giá hối đoái, đặc biệt là công cụ giảm giá đồng nội tệ. Tác giả đã sử dụng mô
hình véc tơ tự hồi quy VAR để kiểm định tác động của tỷ giá hối đoái với các biến số vĩ
14

mô khác. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ tập trung vào tác động của chính sách phá giá tiền tệ
tới các biến số kinh tế vĩ mô. Nguyễn Thị Tuyết Nga (2012)[35] nghiên cứu đề tài “Các
giải pháp nâng cao vai trò của tỷ giá hối đoái trong quá trình hội nhập đối với nền kinh tế
tại Việt Nam”. Đây là một công trình nghiên cứu bằng phương pháp định tính, tác giả chỉ
phân tích diễn biến của chính sách tỷ giá hối đoái tại Việt Nam trong thời gian qua và mô
tả thực trạng đô la hóa trong nền kinh tế Việt Nam.
Ngoài ra, tại Việt Nam, một số nghiên cứu về lạm phát cũng được thực hiện, Vo Tri
Thanh (1997)[141] đưa ra công trình “'Inflation stabilization: the Vietnamese experience in
the 1980s and 1990s” về các tác động chính lên tỷ lệ lạm phát giai đoạn trước 2000. Đây
có thể coi là một trong những công trình nghiên cứu về lạm phát sớm nhất tại Việt Nam.
Tác giả đã sử dụng mô hình trễ đa thức SVAR để nghiên cứu tác động của lạm phát đến
các biến số vĩ mô khác trong nền kinh tế Việt Nam giai đoạn thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ
XX. Nghiên cứu này trở thành cơ sở cho rất nhiều nghiên cứu tiếp theo về lạm phát tại Việt
Nam. Tuy nhiên, khung thời gian của nghiên cứu là thời điểm quá độ tại Việt Nam, quá

trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nền kết quả của nghiên cứu sẽ khác với các kết quả nghiên cứu về lạm phát trong
thời kỳ hội nhập sau đó.
Tiếp theo, Nguyen Quang Thang (2001)[118] công bố nghiên cứu “Inflation and
growth: the case of Vietnam in the period 1986-2000”. Tác giả nghiên cứu mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi mô hình kinh
tế tại Việt Nam với kết luận lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế tại Việt
Nam trong giai đoạn này. Tai thời điểm đó, đây là một nghiên cứu mới trong lĩnh vực kinh
tế học vĩ mô tại Việt Nam. Sau đó, vào năm 2005, Phan Thị Hồng Hải [20] có nghiên cứu
“Lạm phát trong các nước chuyển đổi kinh tế và vấn đề kiềm chế lạm phát ở Việt Nam”.
Đây là một nghiên cứu định tính về lạm phát tại các nước Đông Âu và đánh giá diễn biến
của Việt Nam trong giai đoạn này. Tác giả đã chỉ ra các nguyên nhân gây ra lạm phát tại
Việt Nam và đưa ra một số giải pháp. Tuy nhiên, do trong giai đoạn khảo sát, nền kinh tế
Việt Nam chưa hội nhập với kinh tế thế giới, nên vai trò của tỷ giá hối đoái không được đề
cập nhiều đến trong nghiên cứu. Năm 2008, Vương Thị Thảo Bình [7] có nghiên cứu về
“Tiếp cận và phân tích động thái giá cả - lạm phát của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
bằng một số mô hình toán kinh tế”. Đây là nghiên cứu kết hợp cả hai phương pháp định
tính và định lượng, tác giả đã chỉ ra được lạm phát tại Việt Nam chiu ảnh hưởng của yếu tố
kỳ vọng, ảnh hưởng của tăng cung tiền đến lạm phát lớn hơn ảnh hưởng của tăng giá xăng
dầu. Nghiên cứu được thực hiện với bộ số liệu từ năm 1997 đến năm 2007, và tỷ giá hối
đoái không được đề cập nhiều đến trong nghiên cứu, mặc dù Việt Nam có kim ngạch xuất
nhập khẩu tăng đều qua các năm. Nguyễn Thị Thu Hằng, Nguyễn Đức Thành (2010)[23]
đưa ra nghiên cứu “Các nhân tố vĩ mô quyết định lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 –
2010: các bằng chứng và thảo luận”. Trong nghiên cứu này, các tác giả sử dụng phương
15

pháp tiếp cận dựa theo các bằng chứng nhằm xác định và phân tích các nguyên nhân cơ
bản của lạm phát ở Việt Nam trong những năm gần đây. Nhìn chung, các nghiên cứu về
lạm phát của Việt Nam không nhiều và đều được thực hiện tập trung vào các giai đoạn
trước 2007. Những nghiên cứu này đều đi sâu phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lạm

phát hay mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế để cuối cùng đưa ra biện pháp
kiềm chế lạm phát.
Đối với chính sách lạm phát mục tiêu, năm 2000, Nguyễn Duệ [15] đã xuất bản công
trình nghiên cứu “Chính sách mục tiêu lạm phát”, dựa trên tài liệu nghiên cứu của nhà kinh
tế học người Mỹ Mishkin. Tiếp theo, Phí Trọng Hiền [24] “Lạm phát mục tiêu: kinh
nghiệm thế giới và giải pháp cho Việt Nam” Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 322 (4/2005).
Vào năm 2011, nhóm tác giả Tô Thị Ánh Dương, Bùi Quang Tuấn, Phạm Sỹ An, Phạm
Thị Thanh Bình, Trần Thị Kim Chi [16] đã công bố công trình nghiên cứu “Lạm phát mục
tiêu và hàm ý đối với khuôn khổ chính sách tiền tệ ở Việt Nam”. Nghiên cứu đã đánh giá
chính sách lạm phát mục tiêu tại các quốc gia đã áp dụng thành công chính sách này, tổng
hợp lại các diễn biến của chính sách tiền tệ tại Việt Nam trong thời gian qua và cuối cùng
đưa ra khuyến nghị nên áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu tại Việt Nam trong thời gian
tới.
Gần đây nhất là nghiên cứu của Tô Kim Ngọc, Nguyễn Khương Duy (2012)[40] với
chủ đề “Chính sách mục tiêu lạm phát – kinh nghiệm của một số nước châu Á và bài học
cho Việt Nam”, tiếp theo là công trình “Cơ chế tỷ giá và chính sách mục tiêu lạm phát” của
Tô Kim Ngoc, Lê Thị Tuấn Nghĩa (2012)[39]. Hầu hết các công trình nghiên cứu về lạm
phát mục tiêu tại Việt Nam chỉ dừng lại ở nghiên cứu định tính và chưa có nghiên cứu về
mặt định lượng. Các nghiên cứu nêu ra cơ sở lý thuyết về lạm phát mục tiêu, bài học từ các
quốc gia đã áp dụng thành công chính sách mục tiêu và khuyến nghị Việt Nam nên áp
dụng chính sách lạm phát mục tiêu.

Để có được bằng chứng thuyết phục hơn về mối liên hệ của chính sách tiền tệ đối với
các biến số vĩ mô, thì hơn 15 năm qua, người ta đã sử dụng rộng rãi mô hình véc tơ tự hồi
quy (Vector Autorregression - VAR) để đánh giá thực nghiệm các tác động của động thái
chính sách tiền tệ đối với các biến số vĩ mô.
Điểm quan trọng trong cách tiếp cận sử dụng mô hình VAR để phân tích chính sách
tiền tệ là việc xác định các cú sốc chính sách tiền tệ khác biệt như thế nào với các hành
động chính sách tiền tệ. Các nhà hoạch định chính sách hành động để đáp ứng mức độ phát
triển hiện tại trong nền kinh tế, hiệu ứng này đạt được nhờ một hàm phản ứng chính sách.

Các động thái còn lại trong công cụ chính sách, độ lệch của các công cụ trong chính sách
tiền tệ suất phát từ những biến động bất thường, được hiểu như những cú sốc chính sách
tiền tệ và tác động của chúng có thể được điều tra bằng phương pháp hàm kỹ thuật phản
ứng (the impulse response function techniques).

×