Tải bản đầy đủ (.doc) (174 trang)

Tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.55 MB, 174 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
TẠ HOÀNG MINH
TIẾP NHẬN M. SÔLÔKHÔP Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
TẠ HOÀNG MINH
TIẾP NHẬN M. SÔLÔKHÔP Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Nga
Mã số: 62 22 02 45
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HÀ THỊ HOÀ
HÀ NỘI - 2014
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. "Trong lịch sử nhân loại nói chung, mỗi thế kỉ qua đi chỉ để lại ba, bốn hoặc
năm, sáu người được tôn vinh như thiên tài. Thế kỉ này, với chúng ta, với nước Nga -
càng để lại rất ít… Và Sôlôkhôp được xếp vào danh sách những người được chọn lọc
này" [13, 11]. Đó là nhận định của giới phê bình dành cho Mikhain Sôlôkhôp (1905 -
1984) - nhà văn hiện đại xuất sắc có vị trí quan trọng trong nền văn học Nga và văn học
thế giới thế kỉ XX. Đến với văn chương vào thời kì bùng phát những tranh cãi gay gắt
nhất về nền văn học cách mạng nhưng M. Sôlôkhôp đã "trưởng thành, trụ vững và luận
bàn về cuộc sống bằng chính giọng văn hào sảng, độc đáo của mình" [324, 65]. Ông
đem đến nền văn học thế kỉ XX một thế giới nghệ thuật rộng lớn của những số phận
con người, những cuộc đấu tranh khốc liệt, những tâm hồn với nhiều khúc rẽ quanh co,
phức tạp đan xen các sắc thái tình cảm cao quí, những khát vọng: tự do, hạnh phúc,
công bằng… Nối tiếp truyền thống L.Tônxtôi, với lối viết sáng tạo kết hợp sử thi - bi
kịch - trữ tình, các tác phẩm Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang, Số phận con người…


của M. Sôlôkhôp đã nhen nhóm niềm tin, tiếp thêm sức mạnh cho con người đấu tranh
giành lấy cái mới, dạy con người có thái độ sống tích cực đối với thế giới… Sự trong
sáng và tính triết lí trong các trang sách của ông có sức lan toả mãnh liệt trong đời sống
văn hóa tinh thần của nhiều dân tộc.
1.2. Ý nghĩa thế giới các sáng tác của M. Sôlôkhôp được độc giả khắp năm châu
ghi nhận. Tuy nhiên, việc tiếp nhận các tác phẩm của ông lại là vấn đề không đơn giản.
Sông Đông êm đềm - cuốn tiểu thuyết từng đem lại vinh quang cho M. Sôlôkhôp - giải
Nobel Văn chương năm 1965 của Viện Hàn lâm Thụy Điển cũng là tác phẩm gắn với
một trong những nghi án văn chương lớn nhất thế kỉ XX. Số phận con người khi xuất
hiện từng được đánh giá là truyện ngắn đánh dấu một mốc lớn trong sự phát triển của
văn học Xô Viết và là hiện tượng văn học đặc biệt nhất trong nền văn học thế giới cũng
từng có thời gian dài rơi vào danh sách các tác phẩm thuộc "chủ nghĩa xét lại". Nhiều
thập kỉ đã qua, độc giả vẫn khó có thể quên được những cuộc chiến tranh luận khắc
nghiệt mà các tác phẩm của M. Sôlôkhôp đã phải đương đầu và giành chiến thắng vẻ
vang. Đến nay, họ vẫn tiếp tục tìm đọc và tiếp nhận M. Sôlôkhôp từ nhiều phương
diện. Việc nghiên cứu tiếp nhận, ảnh hưởng của M. Sôlôkhôp vẫn đang là vấn đề được
chú ý quan tâm trong nghiên cứu văn học.
1.3. Ở Việt Nam, M. Sôlôkhôp là tác giả văn học Nga - Xô Viết được biết đến
từ sớm, chiếm vị trí cao trong lòng người đọc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
"Không ai có thể không yêu Sôlôkhôp. Chỉ kẻ nào không yêu cuộc sống mới tự cho
phép mình không yêu Sôlôkhôp. Sôlôkhôp là cô đọng của cuộc sống với tất cả những
mặt sáng tối vô cùng của nó, với nước mắt và những bài ca, với sự ra đời và cái chết.
Các dân tộc Nga có thể tự hào là họ đã trao cho thế giới một Sôlôkhôp, đã mở ra trong
sáng tác của ông nguồn nước trong vô tận mà mọi dân tộc trên thế giới đều có thể
uống" [204, 3]. Tuy nhiên, quá trình tiếp nhận sáng tác của M. Sôlôkhôp ở nước ta
cũng khá phức tạp, không thuần nhất, do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử - chính trị -
xã hội và đặc điểm văn hoá dân tộc. Cho đến nay, việc tìm hiểu lịch sử tiếp nhận M.
Sôlôkhôp ở Việt Nam mới chỉ là những phác thảo hoặc những giới thiệu chung chung ở
một số bài viết. Trên cơ sở ứng dụng một vấn đề lí luận đang được nhiều người quan
tâm: mối quan hệ nhà văn - tác phẩm - người đọc vào việc nghiên cứu sự tiếp nhận M.

Sôlôkhôp ở Việt Nam, chúng tôi mong muốn xác định và tái hiện tầm đón nhận, thị
hiếu thẩm mĩ của các thế hệ độc giả Việt Nam gần 70 năm qua. Trong bối cảnh toàn
cầu hoá nói chung và quá trình giao lưu văn hoá nói riêng, nghiên cứu những mối liên
hệ, sự ảnh hưởng giữa các tác giả, các nền văn học đang là tiêu điểm chú ý của giới
nghiên cứu văn hoá, văn học hiện nay.
1.4. Đề tài có liên quan tới công việc trực tiếp giảng dạy văn học của người viết
luận án, chúng tôi hi vọng qua việc tìm hiểu đặc điểm, quá trình tiếp nhận M. Sôlôkhôp
trong dòng chảy lịch sử của nó sẽ thấy được vai trò, vị trí ảnh hưởng của nhà văn trong
tiến trình đổi mới - hiện đại hoá văn học Việt Nam, góp một tiếng nói trong nghiên
cứu, giảng dạy M. Sôlôkhôp ở giai đoạn giao lưu, hội nhập toàn cầu của đất nước hiện
nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tiếp nhận văn học là sự tiếp xúc và tri nhận của người đọc đối với một hiện
tượng văn học, chủ yếu là tác phẩm. Với văn học nước ngoài, sự tiếp nhận văn học còn
là sự giao lưu văn hoá, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, góp phần củng
cố sự đoàn kết quốc tế và giữ gìn hoà bình cho nhân loại. Với ý nghĩa đó, luận án
hướng tới một cây bút xuất sắc của văn học Nga thế kỉ XX: M. Sôlôkhôp - người có
tầm ảnh hưởng lớn đối với văn học thế giới, trong đó có Việt Nam. Thực hiện đề tài
này, nhiệm vụ cụ thể của chúng tôi là:
2.1. Khái quát lịch sử tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt Nam để xác định mối quan
hệ gắn bó tích cực trên cơ sở đối thoại giữa nhà văn - tác phẩm với người đọc, nhấn
mạnh chức năng xã hội của văn học.
2.2. Tìm hiểu quá trình tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt Nam trong 2/3 thế kỉ qua
trên các bình diện: dịch thuật - xuất bản, nghiên cứu phê bình - ảnh hưởng sáng tác và
giảng dạy trong nhà trường.
2.3. Vận dụng lý thuyết tiếp nhận văn học để tìm hiểu cách tiếp nhận của công
chúng Việt Nam đối với sáng tác của M. Sôlôkhôp, lí giải nguyên nhân dẫn đến cách
tiếp nhận đó nhằm khẳng định vị trí, vai trò của M. Sôlôkhôp đối với đời sống tinh thần
của con người Việt Nam, ảnh hưởng đối với quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Tình hình dịch thuật, xuất bản tác phẩm của M. Sôlôkhôp ở Việt Nam từ
năm 1946 đến năm 2012.
3.1.2. Quá trình tiếp nhận M. Sôlôkhôp trong nghiên cứu - phê bình và những
ảnh hưởng của ông trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam.
3.1.3. Việc dạy và học M. Sôlôkhôp trong nhà trường từ năm 1960 đến năm
2012 ở bậc đại học và THPT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Những tác phẩm của M. Sôlôkhôp đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam
từ năm 1946 đến năm 2012.
3.2.2. Những công trình nghiên cứu, chuyên luận về M. Sôlôkhôp đã được công bố
trên sách, báo, tạp chí, gồm những bài viết của người Việt Nam và các bài viết của người
nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt.
3.2.3. Một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam ảnh hưởng từ tác phẩm của M.
Sôlôkhôp.
3.2.4. Những bài viết về M. Sôlôkhôp trong các giáo trình, chuyên đề, sách giáo
khoa, sách giáo viên, sách tham khảo ở Việt Nam.
3.2.5. Một số công trình lý luận có liên quan đến Mỹ học tiếp nhận của các tác
giả trong và ngoài nước.
4. Cơ sở lí thuyết và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lí thuyết
Trước đây, ở phương Tây đã xuất hiện một số "công trình nghiên cứu về thị
hiếu, về độc giả…"[38, 23]. Tiếp thu thành tựu các công trình có trước, từ những năm
60 của thế kỉ XX, trường phái Konstanz (Đức) đứng đầu là Hans Robert Jauss đã xây
dựng một công trình nghiên cứu sự tiếp nhận văn học. H. R. Jauss đề nghị: "một văn
học sử mà bản chất là mang tính chủ quan, được xây dựng trên nguyên tắc và sự kiện
của sự tác động" [47, 194]. Theo Jauss: "đã đến lúc chúng ta phải có một nền văn học
sử của độc giả để hoàn thiện các khâu của quá trình văn học" [36, 50]. Mĩ học tiếp
nhận của H. R. Jauss ra đời tạo một bước ngoặt lớn cho lịch sử nghiên cứu phê bình.
Với Mĩ học tiếp nhận: "hành trình của một tác phẩm văn học thực sự bắt đầu khi

có người đọc nó… [47, 376]. Theo Jauss: tác phẩm đồng thời bao gồm hai phương
diện: văn bản với tư cách là một cấu trúc cho sẵn và sự tiếp nhận của người đọc đối với
văn bản. Như vậy, giá trị của tác phẩm không chỉ phụ thuộc vào phẩm chất nội tại của
bản thân tác phẩm mà còn phụ thuộc vào trình độ, cách đọc, môi trường đọc của các
thế hệ độc giả. "Những tác phẩm có cuộc sống dài lâu không chỉ đối diện với người đọc
đương thời mà còn với người đọc của thế hệ tương lai" [214, 197].
Phạm trù cơ bản của Mĩ học tiếp nhận là phạm trù công chúng tiếp nhận (người
đọc). Người đọc với tư cách là chủ thể tiếp nhận chiếm lĩnh thẩm mĩ bằng văn bản. "Sự
tồn tại lịch sử của tác phẩm văn học không thể có được nếu thiếu sự tham gia tích cực
của người đọc" [47, 396]. Trong đời sống văn học, người đọc có vai trò chủ động tích
cực. Họ đọc văn không phải chỉ để tri âm kí thác mà "là người cùng tham gia vào tiến
trình sáng tạo để xây dựng ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật, là người đồng sáng tạo, là
chủ thể thực hiện quá trình đọc như một hành động sáng tạo có tính chất xây dựng"
[214, 206]. Sự hiện diện của người đọc chi phối cả quá trình: sáng tạo - biên tập - phổ
biến - thưởng ngoạn - phê bình. "Họ làm nên một mắt xích không thể thiếu được để
hoàn thiện một chu trình khép kín: nhà văn - tác phẩm - người đọc" [166, 10].
Xét về mặt cơ cấu xã hội thì người đọc (công chúng tiếp nhận) là thành phần
không đồng nhất về nghề nghiệp, tuổi tác, trình độ văn hoá, địa vị xã hội… cho nên
tầm đón nhận (tầm văn hoá) của họ cũng khác nhau. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố
khác nhau do đặc điểm riêng của từng loại người tiếp nhận, nhìn chung công chúng
sống cùng một xã hội cũng có một tầm văn hoá chung, vì họ chịu sự chi phối của
những điều kiện kinh tế, chính trị của xã hội đó. Ở mỗi nền văn học, mỗi giai đoạn lịch
sử, công chúng văn học luôn biến đổi và sự biến đổi đó phụ thuộc vào một nhân tố
quan trọng được Mĩ học tiếp nhận gọi là "tầm đón nhận" (chân trời chờ đợi, tầm đón
đợi) của công chúng.
Tầm đón nhận là tầm văn hoá, tầm hiểu biết về văn học của người đọc. Nó là
"một tập hợp các qui chuẩn thẩm mĩ có thể tái lập được của một công chúng văn học
xác định, nó có thể và cần phải điều chỉnh được về mặt xã hội học tuỳ theo những
khuynh hướng đặc thù của các tập đoàn, tầng lớp hoặc giai cấp khác nhau và có thể đối
chiếu được với những quyền lợi và nhu cầu của tình trạng lịch sử, kinh tế chi phối

chúng" [38, 23]. "Quyết định số phận tác phẩm văn học mỗi thời kì là do tầm đón nhận
của người đọc" [166, 12].
H. R. Jauss còn đưa ra một khái niệm mới xung quanh tầm đón nhận đó là
khoảng cách thẩm mĩ. "Khoảng cách thẩm mĩ là khoảng cách chênh lệch giữa tầm đón
nhận có trước của độc giả với tác phẩm nghệ thuật mới mà sự tiếp nhận nó có thể kéo
theo một sự thay đổi tầm đón nhận, làm cho những kinh nghiệm mới được biểu hiện
lần đầu thâm nhập vào ý thức người tiếp nhận" [38, 24]. Khoảng cách thẩm mĩ được đo
bằng phản ứng của công chúng và thái độ đánh giá của giới phê bình… Khoảng cách
thẩm mĩ sẽ qui định giá trị nghệ thuật của một tác phẩm nghệ thuật. Nếu khoảng cách
này càng giãn rộng ra, tạo được một cái nhìn mới, dẫn đến hệ quả là sự thay đổi tầm thì
tác phẩm đó có giá trị nghệ thuật cao. Ngược lại, "nếu khoảng cách này bị thu hẹp, ý
thức tiếp nhận không bị buộc phải thay đổi theo tầm của kinh nghiệm chưa biết đến thì
tác phẩm sẽ tiến gần đến lĩnh vực của nghệ thuật nấu nướng, hay nghệ thuật giải trí"
[313, 65].
Là sáng tạo của nhà văn, tác phẩm được hình thành trong quá trình sáng tác,
nhưng năng lượng thẩm mĩ của nó không phải là một cái gì nhất thành bất biến. Mỗi
tác phẩm nghệ thuật đích thực như một dòng sông chảy qua không gian, thời gian, nó
mang theo những năng lượng mới do lịch sử thổi vào. "Muốn đánh giá đầy đủ sức sống
của một tác phẩm cần phải tìm hiểu lịch sử sáng tác và cả lịch sử tiếp nhận nó" [214,
206]. Giáo sư Trần Đình Sử cũng cho rằng: "không thể hiểu được nghệ thuật nếu chỉ
nhìn đến tác phẩm và hành vi sáng tạo ra nó. Nghĩa là phải hiểu nghệ thuật trong mối
liên hệ không tách rời với tiếp nhận, trong sự tiếp nhận" [243, 18]. Quan hệ tác giả - tác
phẩm và công chúng có hai chiều "tác động của tác phẩm đến công chúng, làm thay đổi
tầm đón nhận của công chúng, làm cho công chúng có sự đánh giá lại tác phẩm, qui
định lại số phận của tác phẩm"[36, 51]. Điều đó lí giải tại sao có những tác phẩm lúc
mới xuất hiện được công chúng chấp nhận ngay, nhưng sau bị lãng quên; lại có những
tác phẩm khi ra đời bị phản đối, gây tranh cãi, về sau mới được nhận hiểu, khám phá
chân giá trị và ý nghĩa to lớn của nó. Jauss cho rằng: "Việc tái lập tầm đón nhận… cho
phép ta nhận rõ sự khác biệt giải thích học giữa sự hiểu trước đây và sự hiểu ngày nay
về một tác phẩm… làm cho ý thức được lịch sử tiếp nhận nó" [313, 37].

Tóm lại, Mĩ học tiếp nhận "đặt ưu tiên ở mối quan hệ giữa văn học và người đọc,
mối quan hệ chẳng những có hàm ý thẩm mĩ mà còn có hàm ý lịch sử" [313, 56]. Mĩ học
tiếp nhận "vừa nhấn mạnh chức năng xã hội của văn học, lại vừa chú trọng đến việc xây
dựng đặc điểm nghệ thuật của tác phẩm" [36, 52]. Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử thì:
"Việc phát hiện ra tầm đón nhận đã cho phép nhận ra rất nhiều kiểu tiếp nhận và thái độ tiếp
nhận khác nhau… phản tiếp nhận là một cách tiếp nhận dưới một hệ hình mới" [243, 18].
Theo ông: "Lí luận tiếp nhận giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong đời sống lịch
sử của tác phẩm văn học"[243, 18]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân cũng đề cao: "Quan
điểm về tầm đón nhận trong lí thuyết Mĩ học tiếp nhận có một ý nghĩa thực tiễn, nó giúp ta
hiểu được vai trò và tầm văn hoá của công chúng trong việc tiếp nhận văn học nghệ thuật"
[38, 26]. Tuy nhiên, "lí thuyết này không phải là vạn năng. Chính bản thân Jauss cũng đã
tuyên bố rằng, Mĩ học tiếp nhận là "một phương pháp với những cơ sở vẫn còn chưa hoàn
toàn chắc chắc… nó không thể một mình đóng góp vào cái mới hiện tại của công việc
nghiên cứu nghệ thuật" [38, 24].
Từ lí thuyết tiếp nhận, chúng tôi nhận thấy sự tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt
Nam được qui định bởi đặc điểm lịch sử và văn hoá dân tộc. Quá trình tiếp nhận M.
Sôlôkhôp và các tác phẩm của ông có là sự lựa chọn - có chủ đích và hoàn toàn tự
nguyện của các chủ thể tiếp nhận Tuy nhiên, sự tiếp nhận đó như đã nói ở trên không
thuần nhất, bị gián đoạn, đặc biệt có sự biến đổi sâu sắc về công chúng tiếp nhận, nhất
là giai đoạn đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc.
Vận dụng lí thuyết tiếp nhận, căn cứ vào lịch sử tiếp nhận và những tác động
giao thoa trong quá trình tiếp nhận, luận án cấu trúc theo chiều dài lịch sử của ba giai
đoạn tiếp nhận M. Sôlôkhôp trên ba phương diện chủ yếu nhằm phân tích sự tương tác
giữa các bình diện tiếp nhận; những đặc điểm của sự tiếp nhận ở mỗi thời kì; thấy được
bước tiến của quá trình tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt Nam hơn 70 năm qua.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Từ đặc điểm của đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu của luận án, đề
tài ứng dụng lí thuyết Mĩ học tiếp nhận và một số phương pháp sau đây:
Phương pháp lịch sử chức năng: giúp hỗ trợ việc xác định lại những điều kiện
lịch sử - xã hội - chính trị - kinh tế làm phát sinh, phát triển sự vật hiện tượng. Cụ thể

là: văn học Nga và trường hợp M. Sôlôkhôp được tiếp nhận ở Việt Nam trong hoàn
cảnh nào? Hoàn cảnh ấy có tác động gì tới việc tiếp thu tư tưởng nghệ thuật của
Sôlôkhôp.
Phương pháp xã hội học: giúp chúng tôi xác định lại tầm đón nhận, nhu cầu, thị
hiếu thẩm mĩ của các thế hệ độc giả khác nhau; xác lập được tiềm năng - sức sống các
sáng tác của một nhà văn nước ngoài trong lòng xã hội Việt Nam gần 70 năm qua.
Phương pháp so sánh và đối chiếu: giúp chúng tôi tiến hành những so sánh
tương đồng giữa một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam với các sáng tác của M.
Sôlôkhôp; chỉ ra những vênh lệch trong các bản dịch tác phẩm của ông ở Việt Nam.
Việc thống kê, phân tích - tổng hợp: giúp chúng tôi nhìn sự vật hiện tượng trong
một hệ thống, không sa vào chi tiết vụn vặt mà vẫn làm nổi bật được những đặc điểm
của nó.
Các phương pháp này sẽ được vận dụng kết hợp linh hoạt theo yêu cầu nội dung
cụ thể từng phần, từng chương.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Về lí luận: Tái hiện lịch sử tiếp nhận M. Sôlôkhôp trong gần 70 năm ở Việt
Nam, luận án góp phần làm rõ qui luật tiếp nhận văn học luôn chịu sự chi phối của môi
trường tiếp nhận. Đề xuất cách tiếp cận mới khi đối chiếu diễn trình cập nhật hoá cách
đọc, cách hiểu M. Sôlôkhôp trên nguyên tắc đối thoại để thấy vai trò quyết định của
chủ thể tiếp nhận và khoảng cách thẩm mĩ dẫn đến sự thay đổi tầm đón nhận giữa các
thế hệ độc giả của Sôlôkhôp ở Việt Nam.
5.2. Về thực tiễn: Từ việc so sánh, đối chiếu giữa nguyên tác và các bản dịch ở
Việt Nam, luận án đã chỉ ra những vênh lệch trong quá trình dịch tác phẩm của
Sôlôkhôp. Gợi mở một số vấn đề về dịch thuật nhan đề tác phẩm và phiên âm tên nhân
vật trong tác phẩm.
Làm rõ tình thế tiếp nhận - chất lượng tiếp nhận của một số tác giả (Chu Văn,
Nguyễn Trung Thành, Bảo Ninh) để xác định những ảnh hưởng từ các sáng tác của M.
Sôlôkhôp đối với một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 và sau
1975 đến nay.
5.3. Về tư liệu: luận án là công trình sưu tầm, thống kê, hệ thống những bài giới

thiệu, nghiên cứu về M. Sôlôkhôp, những tác phẩm được dịch ở Việt Nam, được học
trong nhà trường Việt Nam. Trên cơ sở phân tích và đánh giá vấn đề tiếp nhận, tái tạo
và sáng tạo, luận án cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy về ảnh hưởng của M.
Sôlôkhôp ở nước ta.
5.4. Về giảng dạy: luận án là công trình khảo sát chương trình - giáo trình giảng
dạy, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo… về M. Sôlôkhôp ở bậc THPT và đại học; điều
tra thực tế tiếp nhận của hơn nghìn độc giả nhà trường. Từ những số liệu thu thập được,
chúng tôi rút ra một số kết luận thực tiễn về việc giảng dạy và học tập M. Sôlôkhôp
trong nhà trường Việt Nam, kiến nghị nhu cầu tiếp nhận của độc giả nhà trường, góp
phần nâng cao tầm văn hoá của người đọc trong quá trình giao lưu - hội nhập quốc tế
hiện nay.
Với những ý nghĩa trên, kết quả nghiên cứu của luận án hi vọng sẽ là một trong
những nguồn tư liệu thiết thực, tin cậy cho những người quan tâm, tìm hiểu về văn học
Nga nói chung và về sáng tác của M. Sôlôkhôp nói riêng. Trên cơ sở đó, chúng tôi
mong muốn góp phần làm rõ hơn vai trò, vị trí và ảnh hưởng to lớn của nhà văn Nga
thiên tài trong quan hệ giao lưu văn hoá, văn học với người đọc Việt Nam, đồng thời
đặt ra những yêu cầu mới trong việc tiếp nhận các tác giả, tác phẩm văn học nước
ngoài, góp phần khảng định bản lĩnh, trình độ và qui luật tiếp nhận của văn học Việt
Nam.
6. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm 150 trang chính văn. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục
công trình của tác giả, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được trình bày trong 4
chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Tiếp nhận M. Sôlôkhôp qua dịch thuật - xuất bản ở Việt Nam.
Chương 3: Tiếp nhận M. Sôlôkhôp qua nghiên cứu phê bình và ảnh hưởng sáng tác.
Chương 4: Tiếp nhận M. Sôlôkhôp trong nhà trường Việt Nam.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Tiếp nhận văn học có vai trò to lớn trong quá trình hoàn thiện bức tranh lí luận

văn chương hiện đại thế kỉ XX và là xu hướng nghiên cứu chiếm ưu thế trong thế kỉ
XXI. Tiếp nhận để giao lưu, tiếp nhận là chiếc cầu nối giữa các dân tộc trên thế giới,
tiếp nhận là phương tiện để những giá trị văn hoá lan toả toàn cầu. Ở nước ta, việc
nghiên cứu sự tiếp nhận, ảnh hưởng của một nền văn học hay tác giả văn học đã xuất
hiện từ những năm 60 - 70 của thế kỷ XX. Có thể kể tên rất nhiều công trình như:
Maiacôpxki ở Việt Nam (Hoàng Ngọc Hiến - 1974); Bước đầu tìm hiểu quá trình phổ
biến văn học Xô Viết ở Việt Nam (Thuý Toàn - 1977); Đạo đức nhân vật trong văn học
Xô Viết và văn học Việt Nam hiện đại (Lưu Liên - 1987); Ảnh hưởng to lớn của văn
học Xô Viết ở Việt Nam (Nguyễn Hải Hà – 1987); Giao lưu văn hoá Nga - Việt Nam
dưới góc độ văn hoá (Phạm Vĩnh Cư - 1993); Văn học Nga - Xô Viết tại thành thị miền
Nam giai đoạn 1954 - 1975 (PhạmThị Phương - 1998); Về vấn đề nghiên cứu ảnh
hưởng của văn học nghệ thuật Xô Viết tới văn học nghệ thuật ở ta (Hoàng Ngọc Hiến -
1996); Thơ Pushkin trong đời sống văn học Việt Nam từ góc độ dịch nghệ thuật và tiếp
nhận văn học (Vũ Xuân Hương - 2000); Hemingway ở Việt Nam (Bùi Thị Kim Hạnh -
2001); Sự tiếp nhận kịch Xô Viết ở Việt Nam (Tất Thắng - 2001); Suy nghĩ từ việc tiếp
nhận văn học Nga thời Xô Viết ở Việt Nam (Nguyễn Văn Kha - 2001); Sự tiếp nhận
văn xuôi tự sự Trung Quốc trong văn học trung đại Việt Nam (Đinh Phan Cẩm Vân -
2002); Vấn đề tiếp nhận Dostoievski tại Việt Nam (Phạm Thị Phương - 2002); Đọc
Chekhov - sự tiếp nhận đa diện (Trần Thị Phương Phương - 2004); Văn học Việt Nam
tiếp nhận văn học Xô viết (Vũ Hồng Loan - 2005); Bước đầu tìm hiểu thơ ca Nga ở
Việt Nam (Thúy Toàn - 2005); Tiếp nhận Gogol ở Việt Nam qua bản dịch "Những linh
hồn chết" và Tiếp nhận văn học Nga - Xô viết ở Việt Nam qua trường hợp A.
Solzenitsyn (Đào Tuấn Ảnh - 2009, 2011); Tiếp nhận văn xuôi Nga thế kỉ XIX ở Việt
Nam (Trần Thị Quỳnh Nga - 2010); Cách mạng tháng Mười Nga và việc tiếp nhận Văn
học Xô viết ở Việt Nam từ sau 1945 (Phong Lê - 2010); Tiếp nhận văn học Nga và Liên
Xô ở Việt Nam những năm 1945 - 1985 (Nguyễn Bá Thành - 2011) và Sự tiếp nhận
Edgar Allan Poe ở Việt Nam (Hoàng Kim Oanh - 2011); Quan hệ giữa văn học Viêt
Nam và văn học Nga - Xô Viết thế kỷ XX (Đào Tuấn Ảnh - 2011) …
Có thể nói, nghiên cứu ảnh hưởng, sự tiếp nhận văn học Nga - Xô Viết ở Việt
Nam đã được đề cập từ sớm. Qua việc khảo sát tình hình du nhập, cách dịch, cách đọc

tác phẩm, chỉ ra những nét tương đồng hay giao thoa giữa các tác phẩm văn học Xô
Viết, trong văn học Việt Nam… các nhà nghiên cứu đã từng bước khảng định vị trí, vai
trò của của cả một nền văn học lớn cũng như từng tác giả Nga - Xô Viết trong đời sống
tinh thần của con người Việt Nam, của văn học Việt Nam. Những phương thức tiếp cận
vấn đề từ các công trình trên có ý nghĩa định hướng giúp chúng tôi triển khai để tài
Tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt Nam.
1.2. Tài liệu tiếng Việt
Sáng tác của M. Sôlôkhôp được dịch và giới thiệu ở Việt Nam từ năm 1946.
Trong hoàn cảnh đất nước ta phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ suốt 30 năm (1945 - 1975) và bị chia cắt, nên tình hình tiếp nhận M. Sôlôkhôp
không thuần nhất, bị gián đoạn ở hai miền Nam - Bắc. Sự tiếp nhận sáng tác của M.
Sôlôkhôp đã được cải thiện sau ngày thống nhất đất nước (sau 1975). Tính từ năm
1946 đến năm 2012, ở Việt Nam 29 sáng tác của M. Sôlôkhôp đã được dịch và có 132
bài viết, công trình giới thiệu, nghiên cứu về nhà văn vĩ đại này. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở Việt
Nam. Sau đây chúng tôi sẽ điểm qua các bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến
vấn đề nghiên cứu: tiếp nhận và ảnh hưởng của M. Sôlôkhôp ở Việt Nam.
Độc giả nước ta biết đến M. Sôlôkhôp trước khi có bản dịch sáng tác đầu tiên
của nhà văn ở Việt Nam (1946). Theo một số nhà văn (Như Phong, Nguyễn Đình Thi,
Tố Hữu), tiểu thuyết Đất vỡ hoang của M. Sôlôkhôp đã đến với một bộ phận độc giả
Việt Nam từ những năm 30 của thế kỉ XX. Nhà văn Vũ Ngọc Phan không thể nào
quên: "Chúng tôi có quyển Đất vỡ hoang của Sôlôkhôp bằng tiếng Pháp chép tay dày
sụ, chữ viết chân phương, nhiều trang giấy nứa đã vàng khè lại rách, phải dán ngang
dọc, có trang lại bị tàn thuốc làm cháy, vết mồ hôi tay cũng rất nhiều, chứng tỏ quyển
sách đã qua không biết bao nhiêu độc giả" [201, 592].
Năm 1946, tiểu thuyết Sông Đông êm đềm (từ đầu đến hết phần 2 quyển 1) là
tác phẩm đầu tiên của M. Sôlôkhôp được Hồng Hà dịch từ bản tiếng Pháp ra tiếng
Việt và giới thiệu trên báo Cứu quốc. Cùng năm đó, Học Phi dịch truyện ngắn Khoa
học căm thù của M. Sôlôkhôp từ bản tiếng Anh ra tiếng Việt. Qua lời giới thiệu của
dịch giả Hồng Hà, M. Sôlôkhôp mới được biết đến như là một "người Cô dăc thế hệ

mới do chiến tranh và cách mạng tạo nên" [223, 3], tiểu thuyết Sông Đông êm đềm là
"tác phẩm đồ sộ, vĩ đại, được người ta so sánh với Chiến tranh và Hoà bình của
L.Tônxtôi". Vấn đề tiếp nhận M. Sôlôkhôp chưa được đặt ra.
Trong một khoảng thời gian khá dài (1947 - 1956) tác phẩm của M. Sôlôkhôp
vắng bóng ở Việt Nam do miền Bắc dồn toàn lực cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Từ năm 1957, tác phẩm của M. Sôlôkhôp tiếp tục được dịch và giới thiệu ở nước ta.
Các bài nghiên cứu về M. Sôlôkhôp và các sáng tác của ông cũng tăng theo từng giai
đoạn lịch sử.
Từ những năm 60 đến những năm 70 của thế kỉ XX, ngoài lời giới thiệu trong
các tác phẩm dịch còn có 39 bài viết về M. Sôlôkhôp. Nhà văn được nghiên cứu ở góc
độ chân dung - nghệ sĩ trong một số công trình của cả hai miền Nam - Bắc: Lời giới
thiệu "Truyện sông Đông" (Xuân Thương - 1958); Lời giới thiệu "Sông Đông êm đềm"
(Nguyễn Thụy Ứng - 1959); "Thử tìm hiểu Sôlôkhôp một nghệ sĩ của cuộc sống và của
thời đại" (Hoàng Trinh - 1960); "M. Sôlôkhôp giải Noben Văn chương 1965" (Tràng
Thiên - 1965); "Cholokhov và văn chương hiện đại của Nga-Sôviết" (Đào Đăng Vỹ
-1965); "M. Sôlôkhôp và giải thưởng Văn chương Noben 1965" (Bùi Ngọc Dung -
1965)…
Một số tác phẩm của Sôlôkhôp cũng được giới phê bình đề cập trong: Lời giới
thiệu về Sông Đông êm đềm của Nguyễn Thụy Ứng (1959), Lời giới thiệu về Số phận
con người (1959) của Mạnh Cầm, bài viết Đavưđôp - một nhân vật xuất sắc trong tác
phẩm Đất vỡ hoang của Hoàng Trinh năm 1960, bài viết Nhân vật Đavưđốp trong Đất
vỡ hoang của Sôlôkhôp của Chu Nga năm 1962… Tuy nhiên, những ý kiến, nhận xét về
tác phẩm, nhân vật và tác giả M. Sôlôkhôp nói trên trong thời kì này chủ yếu mang
tính xã hội học.
Từ những năm 80 của thế kỉ XX, các sáng tác của M. Sôlôkhôp được chú ý
nhiều hơn trong nghiên cứu phê bình. Ngoài những bài viết tiếp tục nghiên cứu
Sôlôkhôp dưới góc độ tác gia văn học như Nhà văn Xô Viết lỗi lạc M. Sôlôkhôp của Lê
Thành Nghị (1984), đã có những công trình nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ thi pháp.
Tiêu biểu là Tìm hiểu một vài đặc điểm về thi pháp Sôlôkhôp trong bộ tiểu thuyết sử thi
"Sông Đông êm đềm" của Huy Liên (1984); Mối quan hệ giữa cái bi kịch và cái anh

hùng trong tiểu thuyết "Họ chiến đấu vì Tổ quốc" của Nguyễn Huy Hoàng (1987); Một
số đặc điểm của không gian - thời gian nghệ thuật trong "Sông Đông êm đềm" của Lê
Ngọc Mai (1988), Thi pháp nhân vật trong "Sông Đông êm đềm" của M. Sôlôkhôp
(Nguyễn Thị Vượng - 2006)… Về xu hướng nghiên cứu sáng tác M. Sôlôkhôp theo thi
pháp học, như nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Hải Hà thì: "ba công trình ở Việt
Nam về Sôlôkhôp giữa thế kỷ trước đều dựa trên quan điểm các nhà nghiên cứu Xô
Viết những năm 50…" trong cách nghiên cứu và đánh giá hình tượng Grigôri
Mêlêkhôp, thì "vào những năm 80, giáo trình Văn học Xô Viết ở Đại học Tổng hợp Hà
Nội và Đại học Sư phạm Hà Nội, đã phân tích Sông Đông êm đềm bằng thi pháp
học…" [80, 13].
Trong gần 70 năm qua, M. Sôlôkhôp và các sáng tác của ông được giới thiệu,
phân tích, nhận định khá đầy đủ, rõ nét ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu quá
trình tiếp nhận M. Sôlôkhôp chưa được chính thức đặt ra. Hướng nghiên cứu tiếp nhận
M. Sôlôkhôp mới chỉ được đề cập tới từ các góc độ tiếp nhận.
Quá trình dịch thuật và giới thiệu tác phẩm của M. Sôlôkhôp ở Việt Nam tuy đã
có một bề dày đáng nể nhưng cho đến nay cũng chưa có công trình nào tiến hành hệ
thống một cách cụ thể. Người đọc chỉ có thể tìm hiểu vấn đề này trong những bài tổng
kết về quá trình dịch và xuất bản văn học Xô Viết ở Việt Nam. Trong các bài viết:
Điểm qua tình hình dịch thuật và giới thiệu văn học Xô Viết ở nước ta trong mười lăm
năm (1960); Bước đầu tìm hiểu quá trình phổ biến văn học Xô Viết ở Việt Nam (1977);
Vài nét về văn học Xô Viết ở Việt Nam (1977); Điểm qua công việc dịch, giới thiệu văn
học cổ điển Nga ở Việt Nam (1994); Nhà xuất bản Văn học giới thiệu văn học Nga Xô
Viết ở Việt Nam (1994)… Thuý Toàn nhận định: "những năm 30, M. Sôlôkhôp đã dần
dần đến với các tầng lớp người đọc Việt Nam" [276, 109]. Tác giả Việt Hùng nhấn
mạnh: "cuốn tiểu thuyết lớn của M. Sôlôkhôp lần đầu tiên được dịch và in thành nhiều
tập với số lượng trên một vạn bản, đã được độc giả hoan nghênh nhiệt liệt…" [112, 23].
Tiểu thuyết Đất vỡ hoang cũng được "dịch và xuất bản giữa lúc phong trào hợp tác hoá
nông nghiệp của ta đương trên đà phát triển là một đóng góp thiết thực và đáng quí.
Độc giả Việt Nam, nhất là cán bộ trực tiếp làm công tác hợp tác hoá đã đón cuốn sách
như đón một người thày…" [112, 23]. Số phận con người, truyện ngắn nổi tiếng của

Sôlôkhôp cũng được "độc giả Việt Nam đặc biệt chú ý" [112, 23]. Đây là những tư liệu
quí, giúp chúng ta thấy rõ hành trình dịch thuật và giới thiệu M. Sôlôkhôp với độc giả
Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể.
Việc đánh giá về chất lượng bản dịch các tác phẩm của M. Sôlôkhôp ở Việt
Nam cũng được đề cập khá sớm. Ngay sau khi bản dịch Sông Đông êm đềm của
Nguyễn Thụy Ứng phát hành, trong bài Đọc Sông Đông êm đềm (1959), tác giả Trúc
Đình đã đưa ra những nhận xét về bản dịch này. Ông cho rằng: "độc giả hoan nghênh
việc xuất bản Sông Đông êm đềm…", và ca ngợi: "Nguyễn Thụy Ứng cố gắng dịch hết
không bỏ xót đoạn nào, và căn cứ theo nguyên văn từ năm 1957, Thuỵ Ứng lại đối
chiếu với bản dịch tiếng Pháp, tiếng Trung văn… dịch giả lại tham khảo, nghiên cứu
ngạn ngữ, tục ngữ, tiếng địa phương mà Sôlôkhôp đã sử dụng… tóm lại, bản dịch đảm
bảo là tốt…". Nhưng Trúc Đình lại băn khoăn: "Sông Đông êm đềm của Thuỵ Ứng có
rất nhiều tên dài, khó nhớ, chỉ nên nêu một lần cả họ lẫn tên, rồi sau cứ gọi tắt cho dễ
nắm…" [56, 3]. Ông đề xuất: "dịch được càng nhiều càng tốt… nhưng phải tôn trọng
âm điệu tiếng Việt Nam thì độc giả mới tiếp thu được…" [56, 3]. Mặc dù tác giả bài
biết coi đây là những đối thoại rất nhỏ với dịch giả Thuỵ Ứng, nhưng chúng tôi nhận
thấy, vấn đề dịch thuật tác phẩm của M. Sôlôkhôp đã được đưa ra trao đổi từ rất sớm -
mà cụ thể là vấn đề Việt hóa ngôn từ.
Trên cơ sở tài liệu đã thu thập được trong quá trình làm luận án, chúng tôi bước
đầu đưa ra những nhận xét: Về việc dịch nhan đề các truyện ngắn của M. Sôlôkhôp ở
Việt Nam; Về việc dịch nhan đề các tiểu thuyết của M. Sôlôkhôp ở Việt Nam và khái
quát Bức tranh dịch thuật M. Sôlôkhôp ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975;
Bức tranh dịch thuật M. Sôlôkhôp ở Việt Nam giai đoạn sau 1975 đến nay trên các tạp
chí khoa học của trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Vấn đề kĩ thuật dịch cũng đã được nhắc tới trong trong Lời giới thiệu "Sông
Đông êm đềm" của Nguyễn Thụy Ứng (1959); Tôi đã dịch M. Sôlôkhôp với tất cả tấm
lòng của Hồ Tôn Trinh (1984) và Dịch giả Nguyễn Thụy Ứng - Nhập vai những nhân
vật của Solokhov của Nguyễn Thành Phong (2000). Nguyễn Thụy Ứng là người đầu
tiên khái quát việc dịch và phát hành tác phẩm của M. Sôlôkhôp ở một số nước trên thế
giới. Để dịch Sông Đông êm đềm, ngoài việc dựa trên "bản tiếng Nga của nhà xuất bản

Văn nghệ Quốc gia - Mạc Tư Khoa năm 1957", Nguyễn Thụy Ứng phải tham khảo
"bản dịch tiếng Pháp của Xukhomlin - Campô, bản tiếng Trung quốc của Kim Nhân"
[309, 26] và rất nhiều bài nghiên cứu về lời văn của Sôlôkhôp qua các bản dịch (tiếng
Nga, Tiệp, Bungari, Hunggari…). Nguyễn Thuỵ Ứng "phải như một diễn viên, phải
nhập vai từng nhân vật… phải hình dung, nếu Sôlôkhôp nói tiếng Việt thì phải nói thế
này…" [307, 15], Hồ Tôn Trinh phải "sống Đavưđôp, sống Nagunnôp… phải đăm
chiêu, lắng mình xuống tận chiều sâu tâm tư và khoảnh khắc… để tìm ra cái gọi là tiền
đài của những câu văn, từ ngữ được hiểu những cái nghĩa tràn đầy của nó, ở ngoài cấu
trúc không gian, tức là văn bản…" [287, 2]. Những ý kiến trên cho thấy, để có bản dịch
đáp ứng được yêu cầu: vừa giữ được hồn, cốt của nguyên tác, vừa thuần Việt để gần
gũi với độc giả Việt thì các dịch giả phải hoá thân thành các nhân vật, hoá thân vào
Sôlôkhôp… Điều này cho thấy, dịch giả là một chủ thể tiếp nhận đặc biệt. Họ vừa là
độc giả (của nguyên tác) vừa là người sáng tạo (với bản dịch). Họ là người phổ biến tác
phẩm đến với độc giả nước nhà qua bản dịch của mình. Tuy nhiên, xem xét quá trình
dịch thuật như một kênh tiếp nhận đặc biệt các sáng tác của M. Sôlôkhôp ở Việt Nam
như đã nói ở trên vẫn chỉ mới được đề cập nghiên cứu có phần lẻ tẻ, tản mạn.
Đáng chú ý, từ những năm 60, trong một số bài viết cũng đã động chạm đến
những mức độ tiếp nhận và ảnh hưởng của M. Sôlôkhôp ở Việt Nam Chẳng hạn như
trong Lời giới thiệu tiểu thuyết Đất vỡ hoang, tác giả đã viết: "Mấy năm nay, với
những tác phẩm đã được đọc rộng rãi như Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang, Số phận
con người… Sôlôkhôp dần dần đã chiếm được lòng bạn đọc Việt Nam nhiều nhất… từ
lâu, chúng ta đã dành cho Sôlôkhôp và tác phẩm Đất vỡ hoang một mối cảm tình đặc
biệt…" [262, 3]. Nhà văn Tô Hoài trong bài Quan hệ anh em giữa văn học Việt Nam
và văn học Liên xô ngày càng phát triển (1960) cũng nhấn mạnh: "M. Sôlôkhôp là một
trong những nhà văn Xô viết có mối quan hệ gần gũi và sức ảnh hưởng lớn tới đời sống
tinh thần của dân tộc Việt Nam" [108, 3]. Nhà văn Như Phong khi "Nhớ lại buổi đầu
gặp gỡ" (1967) không thể quên những ngày đầu tiên được đọc Đất vỡ hoang: "chúng
tôi truyền tay nhau đọc đến nhàu nát, nó đã đi vào trong những câu chuyện trao đổi
hàng ngày của chúng tôi…" [207, 12]. Việt Hùng cho rằng "Họ đã chiến đấu vì Tổ
quốc giúp sức làm tăng tình yêu đời và lòng say sưa chiến đấu của nhân dân, nâng cao

ý thức của hậu phương đối với tiền tuyến và của tiền tuyến với hậu phương, đã khích lệ
tinh thần vì nhân dân, vì Tổ quốc của quân đội ta…" [112, 22].
Cho đến những năm 80 của thế kỉ XX, nhắc tới M. Sôlôkhôp, Nguyễn Đình Thi
vẫn nhớ như in những ngày kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc, mỗi lần chạy giặc,
anh em trong cơ quan gánh theo một gánh của quý của Liên Xô, "trong ấy có cuốn Đất
vỡ hoang tập 1… cẩn thận hơn anh Nguyễn Huy Tưởng đã cho chép lại cuốn tiểu
thuyết của Sôlôkhôp. Các bạn nhà văn, nghệ sĩ mọi nơi tới cơ quan đều được đọc cuốn
Đất vỡ hoang chép tay ấy…" [258, 5]. Nhà văn Tô Hoài kể lại: "M. Sôlôkhôp đã có
mặt ở các nhà máy, hợp tác xã và nông trường, ở chiến hào của các chiến sĩ trong tất cả
các cuộc kháng chiến. M. Sôlôkhôp thắm thiết với những người lính đầu bạc và con
cháu họ bây giờ trên các chốt tiền tiêu biên giới" [109, 3]. Tầm ảnh hưởng từ các tác
phẩm của Sôlôkhôp trong đời sống tinh thần của các thế hệ độc giả Việt Nam, đặc biệt
là đối với người lính - những thế hệ tiếp bước ông cha bảo vệ Tổ quốc vẫn tìm thấy ý
nghĩa cuộc sống trong các sáng tác của nhà văn vĩ đại này.
Không chỉ thế, tầm ảnh hưởng của M. Sôlôkhôp còn lan tỏa thấm sâu trong
nhiều tầng lớp xã hội. Phạm Tường Hạnh kể chuyện ảnh hưởng của cuốn Đất vỡ hoang
với cán bộ và bà con nông dân ở Hải Dương trong thời kì hợp tác hoá nông nghiệp;
chuyện về một thiếu uý thuỷ quân lục chiến của Nguỵ từng thú nhận: "Cuộc đời em…
nó cũng giống như cái anh chàng Grigôri trong Sông Đông êm đềm ấy, ngờ nghệch,
vụng dại mà cứ cho mình là anh hùng… ôi, cái anh chàng cứ luôn luôn lao đầu vào
những cuộc chém giết mà không hiểu để làm gì, oán thù ai… bọn em may mắn hơn anh
ta, giải phóng miền Nam đã kịp thời ngăn chặn những tội lỗi của chúng em. Và em
khác hơn nhân vật Grigôri là kịp thời thức tỉnh nghe theo lời khuyên dạy khoan hồng
của cách mạng, của các anh, các chị nâng em dậy để em được đi theo con đường đó
hôm nay… " [87, 6]. Và "chúng em có một bộ Sông Đông êm đềm, ai cũng dành đọc,
nát nhừ ra, rất nhiều trang phải dán giấy bóng kiếng hai ba lớp tới nỗi tối tối không có
ánh đèn thì không thể đọc nổi… em cho rằng, mấy người bạn bỏ ý nghĩ trốn trại cũng
một phần nhờ có những nhân vật của Sôlôkhôp trong Sông Đông êm đềm, nhất là
Grigôri….". Có thể thấy, tác phẩm của Sôlôkhôp có những ảnh hưởng tích cực với cả
những người bên kia chiến tuyến. Họ tìm thấy hình bóng mình trong các tác phẩm của

nhà văn, họ nhận ra sai lầm từ những nhân vật của ông. Đúng như kết luận của tác giả
bài viết "M. Sôlôkhôp đã để lại trong trái tim người đọc một chân trời rộng mở, soi
sáng mọi tâm hồn biết vì sự nghiệp chung mà tiến mãi không ngừng" [87, 6].
Không chỉ tiếp nhận các sáng tác của M. Sôlôkhôp qua việc đọc, đông đảo quần
chúng Việt Nam còn biết tới ông qua những bộ phim được xây dựng từ tác phẩm của
nhà văn. Có nhiều bài viết: Con người Xô viết, con người Nga trong phim Liên Xô
(Nguyễn Tuân - 1959); Thêm đôi suy nghĩ về tháng phim Liên Xô (Nguyên Ngọc -
1959); Phim Sông Đông êm đềm - một tác phẩm điện ảnh giá trị của Liên Xô (Trịnh
Mai Diêm - 1959); Xem phim Đất vỡ hoang (Mai Ngữ - 1962); Khi văn chương nghệ
thuật trở thành tài sản chung của xã hội (Nhân xem lại phim Sông Đông êm đềm)
(Dương Hà - 1994), Nhà văn và đạo diễn (Kỷ niệm 10 năm ngày mất M. Sôlôkhôp) và
Số phận con người (Cao Thụy - 1994, 1996)… đã tái hiện thái độ tiếp nhận của độc giả
Việt Nam với sáng tác của M. Sôlôkhôp qua điện ảnh. Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng:
"phim Số phận con người được đông đảo khán giả chờ đợi nhiệt tình… [295, 89]. Nhà
văn Mai Ngữ cũng tái hiện: "người xem, kể cả người đã hoặc chưa đọc tiểu thuyết
của M. Sôlôkhôp đều rất coi trọng giá trị bộ phim lớn này…" [175,104]. Còn theo tác
giả Nguyên Ngọc thì có không ít khán giả chỉ thích thú với một số chi tiết "đánh nhau
rất ác", "yêu nhau rất hăng". Họ không nhìn ra: "bài học lớn: sự tất thắng vẻ vang của
cách mạng, sự tan vỡ vô cùng bi đát của những kẻ mù quáng…" [171, 73]. Ông lí
giải, do "chưa được hiểu đầy đủ trong một số người xem, nhất là ở thành phố…"[171,
73] nên đã dẫn đến tình trạng trên. Như vậy, từ những năm 60 của thế kỉ XX, sự tiếp
nhận M. Sôlôkhôp ở Việt Nam đã không còn chỉ bó hẹp trong một bộ phận độc giả
đọc các tác phẩm của nhà văn mà còn mở rộng tới những đối tượng mới là khán giả -
người xem phim. Tuy nhiên, qua ý kiến của Nguyên Ngọc, chúng tôi cũng nhận thấy -
dù không trực tiếp - nhưng những điều ông nêu ra có liên quan đến vấn đề tầm đón
nhận của chủ thể tiếp nhận đối với các tác phẩm của M. Sôlôkhôp. Và mặc dù tầm
đón nhận của công chúng còn ở nhiều cấp độ khác nhau nhưng có thể khẳng định: M.
Sôlôkhôp là nhà văn được công chúng Việt Nam rất yêu thích. Các tác phẩm của ông
được nhiều đối tượng độc giả đón nhận, nó thực sự đi vào đời sống tinh thần của họ.
Ảnh hưởng từ tác phẩm của Sôlôkhôp với văn xuôi Việt Nam lần đầu được đề

cập tới trong bài viết "Mấy cảm nghĩ về tuyển tập văn Việt Nam 1945 - 1960" của
Nguyễn Hồng Phong đăng trên báo Văn học (1961). Tác giả có liên tưởng: "đọc Cái
sân gạch tôi vẫn nghĩ đến Đất vỡ hoang, cảnh anh bộ đội trong Xung đột của Nguyễn
Khải bị nhân dân đánh, tôi thấy tức như cảnh Đavưđôp bị đánh trong Đất vỡ hoang"
[206, 11]. Tác giả giải thích "đó tuyệt nhiên không phải là bắt chước mà chỉ là sự giống
nhau về phong cách" [206, 11]. Theo chúng tôi, đây là phát hiện rất đáng chú ý, nó
phản ánh một thực tế: từ những năm 1960, người ta đã bắt đầu nhìn thấy có những tương đồng
giữa sáng tác của M. Sôlôkhôp và một số sáng tác văn học Việt Nam.
Cuối những năm 90 của thế kỉ XX trở lại đây, vấn đề ảnh hưởng, giao thoa hay tương
đồng giữa tác phẩm của M. Sôlôkhôp với các tác phẩm văn xuôi Việt Nam trở lại trong các bài
viết: Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện đại vài nhận xét tổng quan (Nguyễn
Văn Dân - 1999); Văn học Việt Nam tiếp nhận văn học Xô viết (Vũ Hồng Loan - 2005); M.
Sôlôkhôp - một số phận vinh quang và cay đắng (Nguyễn Hải Hà - 2005); Cách mạng tháng
Mười Nga và việc tiếp nhận Văn học Xô viết ở Việt Nam từ sau 1945 (Phong Lê - 2010); Tiếp
nhận văn học Nga và Liên Xô ở Việt Nam những năm 1945 - 1985 (Nguyễn Bá Thành -
2011); Quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Nga - XôViết thế kỉ XX (Đào Tuấn Ảnh -
2011) và gần nhất là Giáo trình Văn học Nga (2012) của Đỗ Hải Phong.
Là một trong những người nghiên cứu về lí thuyết tiếp nhận sớm nhất ở Việt Nam,
Nguyễn Văn Dân đã nhìn thấy: "mặc dù không phải sao chép… chúng ta có thể nhận ra ngay
nguyên mẫu của tác phẩm chịu ảnh hưởng. Đó là trường hợp: Đất vỡ hoang đối với bộ tiểu
thuyết Cái sân gạch và Vụ lúa chiêm của Đào Vũ" [39, 250]. Như vậy, từ chỗ "liên tưởng"
đến chỗ "nhận ngay ra nguyên mẫu", các nhà nghiên cứu đã khảng định một số tác phẩm văn
học Việt Nam chịu ảnh hưởng từ các sáng tác của M. Sôlôkhôp.
Trong công trình nghiên cứu về việc tiếp nhận và ảnh hưởng của văn học Xô
Viết đối với văn học Việt Nam, Vũ Hồng Loan cũng chỉ ra nét tương đồng giữa Đất vỡ
hoang với Cái sân gạch (Đào Vũ) và Bão biển (Chu Văn). Tác giả bài viết còn đưa ra
một số nhận xét về dấu ấn của Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc với một số tác phẩm văn
học Việt Nam như Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Vỡ bờ (Nguyễn Đình
Thi), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu). Đó là những gợi mở có liên quan tới
đề tài luận án của chúng tôi.

Nhận xét về vấn đề ảnh hưởng sáng tác của Sôlôkhôp ở Việt Nam, Phong Lê
viết: "trong số các tác giả sớm đến Việt Nam, chiếm vị trí cao trong sự đọc của người
Việt Nam, và trở thành kiểu mẫu cho người viết Việt Nam trong chiến tranh trước hết
phải nói đến Sôlôkhôv…" [142, 604]. Ông khẳng định: "Số phận con người như một bi
kịch lạc quan sâu sắc nhất, có ý nghĩa soi sáng cho các thế hệ viết về chiến tranh ở Việt
Nam…" [142, 605].
Những ảnh hưởng lớn lao của M. Sôlôkhôp ở Việt Nam còn được nhắc tới trong
hệ thống giáo trình của các trường đại học. Cuốn Lịch sử văn học Xô viết, tập 2 của
Huy Liên - Kim Đính - Hoàng Ngọc Hiến (1985), Văn học Xô viết của Nguyễn Hải Hà
- Đỗ Xuân Hà (1988), Lịch sử văn học Nga (1998), đều khẳng định những cuốn sách
của Sôlôkhôp "thuộc vào loại tác phẩm nước ngoài được các nhà văn và bạn đọc Việt
Nam thuộc đủ loại tầng lớp đọc nhiều nhất. Vì vậy giới nghiên cứu chúng ta còn phải
nghiên cứu nhiều hơn nữa, sâu hơn nữa nghệ thuật của Sôlôkhôp cùng với những ảnh
hưởng của sáng tác Sôlôkhôp đối với con người Việt Nam và văn học Việt Nam hiện
đại" [146, 300]. Năm 2012, trong Giáo trình Văn học Nga, Đỗ Hải Phong nhấn mạnh:
"Với đề tài văn học chiến tranh và đề tài hợp tác hoá nông nghiệp, từ những năm 1960,
Sholokhov đã không còn xa lạ với Việt Nam. Tác phẩm của ông hầu hết đã được dịch
ra tiếng Việt và có ảnh hưởng lớn đến sáng tác của nhiều nhà văn Việt Nam sau 1954
như Bùi Hiển, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc…" [211,
173]. Chúng tôi coi đây là những nhận xét có ý nghĩa gợi mở có liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
Ngoài các bài viết ở Việt Nam, chúng tôi còn tham khảo 24 bài nghiên cứu, phê
bình về M. Sôlôkhôp của các tác giả nước ngoài đã được dịch ở nước ta. Tác giả của
phần lớn các bài viết này là những nhà văn, nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, có trình độ
chuyên sâu. Vì vậy, việc chọn dịch bài viết của họ sẽ cung cấp cho độc giả Việt Nam
những thông tin cập nhật, nhiều chiều, mở rộng hướng tiếp cận M. Sôlôkhôp.
Giới thiệu M. Sôlôkhôp ở góc độ tác gia văn học có các bài viết: Sôlôkhôp -
nhà văn tiếp tục những truyền thống vĩ đại của văn học cổ điển Nga của Tamara
Tôriphônôva (1959); Cholokov giải Noben của V. Sonia Lescau (1965); Một người
Cosaque xung phong giật giải Nobel của Marcel Brion (1965); Giải Nobel cho một

người Cosaque của Joseph Kessel (1965); Ánh sáng không bao giờ lụi tắt của Vaxili
Vôrônôp (1982); Nhà văn của người Côdăc của A. Osterling (2002); M. Sôlôkhôp của
Dorothy Brewster & John Angus Burrell (2003)…
Vấn đề đời tư nhà văn M. Sôlôkhôp được đề cập trong nhiều tài liệu: Những
mẩu chuyện về nhà văn Sôlôkhôp (1959); Phỏng vấn Sôlôkhôp của Vơxêvôlôt Maria
(1980); Sự thật về Sôlôkhôp của Litvinov V. M (1995); Những điều chưa biết về
Sôlôkhôp của Valentin Ôxipốp (1996); Những kỉ niệm về Sôlôkhôp của Evghenhi
Rưmko (2000)… đã cho người đọc cái nhìn đầy đủ về M. Sôlôkhôp trong đời thường.
Vấn đề bản quyền tiểu thuyết Sông Đông êm đềm được dịch đăng trên báo Văn
nghệ năm 2000: Ngọn lửa Sôlôkhôp, Kết thúc một sự vu cáo văn chương thế kỉ XX…
giúp người đọc Việt Nam hiểu tường tận thêm về một trong những nghi án "đạo văn"
lớn nhất thế kỷ XX.
Trong các tài liệu của người nước ngoài được dịch ở Việt Nam, chúng tôi chú ý
tới 4 bài có đề cập tới sự tiếp nhận M. Sôlôkhôp, đó là: Văn học Xô Viết ở nước ngoài
(Nicôliukin A. - 1960), Những vấn đề của sự tiếp nhận văn học Xô Viết đầu những
năm 80 (Rev M. - 1991), Văn học Xô Viết trong thế giới hiện đại: những vấn đề về sự
tiếp thụ của bạn đọc nước ngoài (Fedoseeva - 1991) và Những cuộc gặp gỡ Thiên Tân
1981 (Riftin B - 1991). Nicôliukin A. cho chúng ta thấy "bộ tiểu thuyết Đất vỡ hoang
của Sôlôkhôp và truyện Số phận con người của ông được bạn đọc đánh giá cao ở
Tiệp…" [190, 73]. Rev M. chia sẻ: "Bạn đọc Hunggari đã biết tới Sông Đông êm đềm
từ giữa những năm 1930… " [221, 100]. Fedoseeva cho rằng: M. Sôlôkhôp - một trong
những tác giả có ảnh hưởng lớn nhất ở nước ngoài, đặc biệt là trong quá trình tiếp thụ
nhân vật chính diện của văn học Xô Viết. Những hình tượng do M. Sôlôkhôp xây dựng
đã được đưa lên hàng đầu. Còn Riftin B. tái hiện sự tiếp nhận Sôlôkhôp ở Trung Quốc:
"Sôlôkhôp sau một thời gian bị coi là xét lại… đã được đánh giá rất cao. Thậm chí
ngay cả các bài nghiên cứu về Sôlôkhôp của các tác giả Xô Viết và nước ngoài cũng đã
được in…" [222, 93]. Những tài liệu trên tái hiện việc tiếp nhận M. Sôlôkhôp ở nước
ngoài, đặc biệt là ở các nước xã hội chủ nghĩa, giúp chúng ta có những đối sánh giữa
tầm đón nhận của độc giả Việt Nam với tầm đón nhận của độc giả thế giới.
Việc tiếp nhận M. Sôlôkhôp trong nhà trường Việt Nam được bắt đầu từ năm

1961, M. Sôlôkhôp được đưa vào giảng dạy ở bậc đại học, nhưng phải đến năm 1985
trở lại đây, M. Sôlôkhôp mới thật sự trở thành hiện tượng trong các trường đại học
ngành Văn. Sự ra đời của các giáo trình Văn học Nga, văn học Xô Viết của các
trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Tổng hợp Hà Nội đã định hướng cho sinh
viên tiếp cận các sáng tác của M. Sôlôkhôp trên nhiều bình diện khác nhau.
M. Sôlôkhôp là một trong những tác giả được sinh viên, học viên chọn để làm
khoá luận tốt nghiệp, luận văn và luận án. Theo con số mà chúng tôi khảo sát được ở
một số trường đại học Sư phạm và Khoa học Xã hội - Nhân văn đã có 20 khoá luận
tốt nghiệp (1985 - 2012), 08 luận văn thạc sĩ (2004 - 2012) và 01 luận án tiến sĩ
(2006). Đáng chú ý là luận án tiến sĩ Thi pháp nhân vật trong "Sông Đông êm đềm"
của M. Sôlôkhôp (Nguyễn Thị Vượng - 2006). Là công trình đầu tiên nghiên cứu về thi
pháp nhân vật trong Sông Đông êm đềm, trong phần Lịch sử vấn đề tác giả luận án có
phần tổng kết khá chi tiết xu hướng tiếp nhận tiểu thuyết này ở nước ngoài và ở Việt
Nam. Chúng tôi chú ý tới phần xu hướng tiếp nhận Sông Đông êm đềm ở Việt Nam.
Trong nhà trường phổ thông, sau chương trình cải cách giáo dục năm 1989,
từ năm 1990, M. Sôlôkhôp là một trong ba tác giả tiêu biểu nhất của văn học Xô
Viết được đưa vào chương trình văn 12. Đây là dấu mốc quan trọng, mở đầu cho sự
tiếp nhận M. Sôlôkhôp trong nhà trường. Đặc biệt, cách đọc - hiểu truyện ngắn Số
phận con người trong chương trình Ngữ văn 12 nhận được rất nhiều quan tâm của
các nhà giáo, nhà nghiên cứu trên toàn quốc. Ngoài phần biên soạn về M. Sôlôkhôp
và Số phận con người trong Sách giáo khoa, Sách giáo viên Văn 12 của các nhà
khoa học Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Hải Hà, Hà Thị Hoà trực tiếp thực hiện, còn có
số lượng rất lớn sách tham khảo trong tủ sách nhà trường. Đến nay đã có ít nhất 50
tài liệu hướng dẫn cách đọc, cách học, hướng tiếp cận đoạn trích Số phận con
người. Trong đó, đáng chú ý nhất là các bài viết của các nhà giáo, nhà nghiên cứu
Nguyễn Hải Hà, Trần Đình Sử, Đỗ Hải Phong, Lê Nguyên Cẩn, Hà Thị Hoà, Lê
Huy Bắc, Trần Thị Quỳnh Nga…
Như vậy, M. Sôlôkhôp là hiện tượng được tiếp nhận đặc biệt ở Việt Nam.
Sáng tác của ông được nhiều đối tượng tiếp nhận khác nhau tìm đọc, dịch, xem phim; được
giới thiệu, nghiên cứu khá toàn diện. Trong nguồn tài liệu tiếng Việt viết về M. Sôlôkhôp mà

chúng tôi thu thập được có những ý kiến, nhận định, đánh giá liên quan tới đề tài luận án của
chúng tôi. Phần lớn các ý kiến dừng ở những phác thảo, nêu vấn đề hoặc gợi mở hướng tiếp
nhận M. Sôlôkhôp ở các phương diện khác nhau. Đây là những gợi ý cho chúng tôi khi triển
khai các luận điểm của luận án.
1.2. Tài liệu tiếng Nga
Liên quan đến đề tài luận án, chúng tôi còn tham khảo một số tài liệu tiếng Nga
nghiên cứu tiếp nhận ảnh hưởng của M. Sôlôkhôp đối với một số nền văn học trên thế
giới thế kỉ XX.
Ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, tại Hungari: "đâu đâu trên đất nước này
cũng thấy có sự tồn tại của Sông Đông êm đềm, người ta đọc nó… họ bị ảnh hưởng của
nó như những truyện thần thoại dân gian Hungari. Không nơi đâu là người ta không
nghe thấy nhắc đến Sôlôkhôp, từ độc giả, đến giới phê bình…" [326, 205]. Họ nhận
thấy "những sáng tác mang đậm nét trữ tình vừa hiện thực sắc sảo của Sôlôkhôp đã soi
sáng đường đi cho những thế hệ nhà văn Hungari…" và M. Sôlôkhôp là người "có sức
ảnh hưởng đến tiến trình phát triển nền văn học ở Hungari…" [326, 208]. Ở Đức, "từ
năm 1947 đến 1955, tiểu thuyết Sông Đông êm đềm đã được tái bản đến 10 lần" và "đã
công bố hơn 60 công trình nghiên cứu, các bài báo, bài phê bình xung quanh các tác
phẩm của Sôlôkhôp" [324, 82]. Ở Bungari, số lượng bản in các tác phẩm của Sôlôkhôp
tính từ năm 1947 đến 1955 là "205.200 bản, trong đó Sông Đông êm đềm được xuất
bản với số lưng là 102.000 bản" [324, 82]. Ở cộng hoà Séc vào năm 1960 đã "tái bản
lần thứ 10 Sông Đông êm đềm, lần thứ 13 Đất vỡ hoang và in đại trà Số phận con
người" [324, 71].
Ở một số nước khác như Nam Tư: "M. Sôlôkhôp là nhà văn nước ngoài có tác
phẩm được dịch và xuất bản thường xuyên, là người nổi tiếng nhất và được đọc nhiều
nhất …" [327, 185]. Ở Ba Lan, M. Sôlôkhôp cũng là nhà văn nước ngoài được yêu
thích nhất trong những năm 1950 - 1975. Báo chí Ba Lan tổng kết: "từ năm 1931 đến
hết năm 1974 sáng tác của Sôlôkhôp đã được xuất bản 172 lần"… đặc biệt: "các tác
phẩm của Sôlôkhôp có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của nền văn học dân tộc các
nước anh em" và "việc xuất hiện các bản dịch các tác phẩm của Sôlôkhôp trong điều
kiện tồn tại chế độ tư sản, phát xít tại một số nước là sự kiện có ý nghĩa văn hoá và

chính trị vô cùng quan trọng…" [324, 75].
Tuy nhiên, việc tiếp nhận sáng tác của M. Sôlôkhôp không phải lúc nào cũng
thuận lợi, xuôi chiều. Độc giả vẫn nhớ, ở Tây Âu, "dưới thời cầm quyền của Hitle, sách
của ông từng bị đốt ở Đức, bị cấm xuất bản ở Ý. Còn ở Pháp, bản thảo Đất vỡ hoang bị
xuyên tạc một cách thô bạo. Ở Anh và Mĩ, Sông Đông êm đềm được xuất bản nhưng
với bản thảo bị cắt xén và xuyên tạc nội dung…"[324, 90]…
Trong bài viết: Thế giới của Sôlôkhôp và thế giới của chúng ta đăng trên số 4
tạp chí Вопросы литературы (1975), Гура В. đã chỉ rõ: "Các tác phẩm của ông càng
được thử thách qua thời gian thì những cách tân của ông càng được khảng định chắc
chắn. Từ đây có thể kết luận về tác động và sự ảnh hưởng của Sôlôkhôp đối với nền
văn hoá nghệ thuật đương đại" [324, 70]. Có thể nói, nghiên cứu tiếp nhận M.
Sôlôkhôp là một trong những đề tài được văn học thế giới quan tâm, tiếp cận theo
nhiều hướng khác nhau.
Viết về ảnh hưởng của M. Sôlôkhôp ở Việt Nam, chúng tôi đặc biệt chú ý tới 4
công trình của Tô Hoài, Thế Lữ và Phạm Gia Lâm đã được in ở Nga. Trong bài Mãi
mãi trong lòng chúng tôi (1975), Tô Hoài chỉ rõ "tháng 8 - 1945, tại Hà Nội… Sông
Đông êm đềm là tác phẩm đầu tiên của nền văn học Xô Viết được xuất bản công khai
trong báo chí cách mạng. Độc giả Việt Nam đã làm quen với nó và từ đó đến nay nó
sống mãi trong lòng chúng tôi…" [328, 25]. Nhận định về mức độ ảnh hưởng của M.
Sôlôkhôp đến bạn đọc Việt Nam, Tô Hoài viết: "Sông Đông êm đềm và Đất vỡ hoang

×