Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ SỞ HỮU TƯ NHÂN THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.79 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA LUẬT
-----    -----
VÕ THỊ HOÀNG MAI
NIÊN LUẬN
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ SỞ HỮU TƯ NHÂN
THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
HUẾ, 09/2010.
SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
2
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường
hội nhập với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới thì có nhiều vấn đề nảy
sinh trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Để có sự phát triển không
ngừng như hiện nay thì nền kinh tế - xã hội ở nước ta phải được xây dựng trên
một nền tảng cơ sở vật chất nhất định. Trong đó, con người đóng vai trò trung
tâm của sự phát triển xã hội. Để có thể tồn tại thì con người cần thiết lập những
yếu tố có lợi nhằm phục vụ cuộc sống của mình. Hay nói cách khác là ngay từ
khi xuất hiện con người đã học được cách chiếm hữu nhằm thỏa mãn những yêu
cầu nhất định. Chính điều đó đã làm xuất hiện Sở hữu.
Sở hữu được xem là: “ vật liệu xây dựng” của con người, là xuất phát điểm
cho mọi quá trình kinh tế. Vấn đề sở hữu là vấn đề quan trọng có tính chất sống
còn của mọi giai cấp, mọi tổ chức và cá nhân trong quá trình phát triển của xã
hội. Bởi sở hữu được xem là: Là cơ sở kinh tế đầu tiên quyết định địa vị thống
trị của giai cấp cầm quyền; Là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các quyền
và nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Sau hơn hai mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới ở nước ta, với
những thành công và hạn chế đã có trên con đường công nghiệp hóa, hiện


đại hóa đất nước. Quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới đã có những vấn
đề lý luận tưởng chừng như đã được giải quyết nhưng đến nay lại nổi lên
trước yêu cầu của thực tiễn. Việc củng cố và hoàn thiện hệ thống lý luận
khoa học trong đó có lý luận về vấn đề: " sở hữu nói chung và sở hữư tư nhân
nói riêng" là điều tất yếu khách quan. Điều này trở thành kim chỉ nam cho mọi
SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
3
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
hành động trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước.
Điều 15, Hiến pháp 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001) của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận: “...Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
với các hình thức tổ chức, sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể làm nền tảng”. Chế độ sở hữu tư nhân đã trở thành vấn đề cần thiết và
cấp bách thể hiện rõ chức năng quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã
hội. Đồng thời, đây cũng là vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của Nhà
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tính ưu việt và tầm quan trọng của chế độ sở hữu tư nhân giữ vai trò quan
trọng trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Do vậy, việc tạo ra một nền tảng
pháp lý cơ bản điều chỉnh về vấn đề sở hữu tư nhân một cách có hiệu quả nhất
là điều cần thiết. Quá trình ban hành các quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực
nói chung và lĩnh vực Dân sự nói riêng đã điều chỉnh một cách trực tiếp các
quan hệ xã hội về sở hữu tư nhân. Điều này đã giúp cho hoạt động quản lý của
Nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn trên hai phương diện: lý luận và thực tiễn.
Tuy vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật về sở hữu nói chung và sở hữu tư
nhân nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Thực tế ở nước ta, bên cạnh
những thành quả đã đạt được trong vấn đề quy định về vấn đề sở hữu tư nhân
còn bộc lộ những hạn chế trong quá trình thực hiện. Vì vậy, nghiên cứu đề tài :
“CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ SỞ HỮU TƯ NHÂN. THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM "

góp phần phát hiện những hạn chế của pháp luật về vấn đề sở hữu tư nhân trong
lĩnh vực Dân sự và vướng mắc trong quá trình thực hiện ở nước ta . Qua đó
nhằm hoàn thiện pháp luật dân sự về sở hữu tư nhân nói riêng và hệ thống pháp
SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
4
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
luật về sở hữu nói chung. Ngoài ra còn nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện tại và trong tương lai.
2. Mục đích nghiên cứu
Chọn hình thức sở hữu tư nhân làm đối tượng nghiên cứu chúng ta có thể đi
sâu phân tích lý luận chung và các quy định cơ bản về vấn đề này. Vấn đề sở
hữu tư nhân đã và đang được nhiều ngành, nhiều cấp quan tâm. Đồng thời,
được xem xét dưới nhiều góc độ: Chính trị, kinh tế - xã hội, pháp luật...Nhất là
cụ thể trong các quy định của pháp luật dân sự về chế độ sở hữu tư nhân. Điều
đó càng khẳng định tầm quan trọng của sở hữu tư nhân và thành phần kinh tế tư
nhân trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội Việt Nam hiện
nay.
Trên cơ sở khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật Dân
sự về hình thức sở hữu tư nhân ở Việt Nam. Rút ra những ưu, hạn chế của pháp
luật dân sự về sở hữu tư nhân và những vướng mắc trong quá trình thực thi ở
Việt Nam. Từ đó đề ra những giải pháp góp phần phát triển và hoàn thiện pháp
luật về sở hữu tư nhân, đồng thời tìm ra phương hướng khắc phục những khó
khăn trong quá trình tổ chức quản lý, thực thi pháp luật về sở hữu tư nhân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu sau đây:
- Những vấn đề lý luận chung nhất về hình thức sở hữu tư nhân như khái
niệm sở hữu tư nhân; nội dung của quyền sở hữu tư nhân; các căn cứ xác lập,
chấm dứt quyền sở hữu tư nhân; sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự hiện hành
về sở hữu tư nhân.
- Thực tế áp dụng pháp luật về sở hữu tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn

trở lại đây. Đánh giá thực trạng, tìm hiểu những hạn chế và khó khăn trong quá
trình áp dụng.
SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
5
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật dân sự về hình
thức sở hữu tư nhân nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung.
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các văn bản pháp luật như: Bộ Luật Dân sự
và các văn bản hướng dẫn thực hiện có liên quan. Nội dung niên luận chỉ giới
hạn trong những vấn đề lý luận chung về sở hữu tư nhân và các quy định của
pháp luật Dân Sự điều chỉnh vấn đề này. Giới hạn khảo sát của niên luận là quá
trình áp dụng pháp luật Dân sự về sở hữu tư nhân ở Việt Nam từ năm 1996 đến
nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng cho niên luận là phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lênin kết hợp với tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm:
- Kết hợp giữa phân tích với tổng hợp, diễn dịch với quy nạp làm rõ nội
dung cần nghiên cứu.
- So sánh, đối chiếu, thống kê, phân tích số liệu, kết quả tổng kết và các
quan điểm khác nhau để rút ra kết luận, tìm hiểu nguyên nhân vấn đề và các giải
pháp hữu hiệu khắc phục hạn chế.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của niên luận có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Tạo một cái nhìn sâu hơn, rộng hơn về vấn đế sở hữu nói chung và sở hữu tư
nhân nói riêng trong hoạt động quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực của xã
hội. Thông qua niên luận có thể cung cấp một cái nhìn rõ nét về các quy định
của pháp luật trong chế độ sở hữu tư nhân.. Đồng thời, với sự tiếp cận những
vấn đề của thực tiễn ở Việt Nam sẽ giúp chúng ta nhìn nhận về thực tiễn của

SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
6
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
tình hình áp dụng pháp luật về hình thức sở hữu tư nhân và vai trò của thành
phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Đặc biệt, đối với sinh viên, kết quả của niên luận là nguồn tài liệu có giá trị
tham khảo khi học tập, nghiên cứu, nhất là khi hoàn thành các báo cáo khoa học
cấp khoa, cấp trường…
Ngoài ra, niên luận còn có ý nghĩa thiết thực đối với một số đối tượng quan
tâm đến hình thức sở hữu tư nhân và thành phần kinh tế tư nhân. Điều này phù
hợp với sự phát triển tất yếu của các quan hệ xã hội phát sinh trong quan hệ về
sở hữu nhất là đối với vấn đề sở hữu tư nhân.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài có 2 chương:
- Chương 1: Khái quát về sở hữu tư nhân và sự điều chỉnh của pháp luật
Dân sự về hình thức sở hữu tư nhân.
- Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật Dân sự về sở hữu tư nhân ở
Việt Nam và một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật Dân sự về sở hữu
tư nhân. ( Giai đoạn 1996 đến nay).
SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
7
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ SỞ HỮU TƯ NHÂN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC SỞ HỮU TƯ NHÂN
1.1. Khái quát về hình thức sở hữu tư nhân
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật Dân sự về chế độ sở
tư nhân
1.1.1.1. Sự xuất hiện và tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân trong lịch sử

loài người
Trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào thì quan hệ kinh tế( quan hệ
sản xuất) vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo, quyết định tính chất, nội dung, phương
hướng phát triển của các quan hệ xã hội. Bản thân các quan hệ kinh tế cũng rất
đa dạng, như: quan hệ sở hữu, quan hệ trao đổi hàng hóa, quan hệ quản lý và
quan hệ phân phối. Trong đó, quan hệ sở hữu đóng vai trò quan trọng nhất vì
bản thân quan hệ này đã quyết định tính chất và nội dung của các quan hệ kinh
tế khác. Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong xã hội loài
người đã ghi nhận sự hình thành và phát triển của chế độ sở hữu nói chung
trong đó có chế độ sở hữu tư nhân.
Chế độ Cộng sản nguyên thủy: Vào giai đoạn cuối do sự phát triển của
lực lượng sản xuất thông qua ba cuộc phân công lao động xã hội [ơlần 1: chăn
nuôi tách khỏi trồng trọt; lần 2: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; lần 3:
thương nghiệp xuất hiện( với sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân và nghề
thương mại)). Điều đó đã làm xuất hiện chế độ tư hữu, làm phân hóa xã hội và
làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng tăng. Khi xã hội đã phân thành các giai
cấp đối lập nhau, có giai cấp tất yếu có đấu tranh giai cấp. Để bảo vệ lợi ích của
SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
8
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
giai cấp thống trị thì thị tộc đã không còn phù hợp. Xã hội đòi hỏi có một tổ
chức mới đủ sức giữ xã hội trong vòng trật tự. Đồng thời mang lại lợi ích cho
người có của và giữ vững địa vị thống trị. Tổ chức đó chính là Nhà nước.
Chế độ Chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của Nhà nước chủ nô ra đời duy trì
và bảo vệ chế độ sở hữu của giai cấp chủ nô đối với tất cả tư liệu sản xuất của
xã hội ngay cả bản thân người nô lệ. Nô lệ chỉ là công cụ biết nói chứ không
phải là người. Ở đây, trình độ tư hữu còn thấp nhưng tính chất khắc nghiệt và
bất bình đẳng được xem là tuyệt đối.
Chế độ Phong kiến : Sở hữu đẳng cấp phong kiến thể hiện ở chế độ
chiếm hữu tư liệu sản xuất của giai cấp thống trị. Nhà nước và pháp luật phong

kiến bảo vệ và duy trì chế độ sở hữu của địa chủ, lãnh chúa phong kiến đối với
ruộng đất. Giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyền sở hữu phần lớn ruộng đất
(gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước) và tiến hành bóc lột địa tô (dưới
nhiều hình thức: tô lao dịch, tô sản phẩm, tô tiền...hay những hình thức kết hợp)
đối với nông dân không có hay có ít ruộng đất (dưới những hình thức và mức
độ lệ thuộc khác nhau).
Chế độ Tư bản chủ nghĩa: Là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư ( do công nhân làm thuê
sáng tạo bị giai cấp tư sản và bị chiếm hữu). Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ
nghĩa tư bản đó là: Nhìn nhận quyền sở hữu tư nhân, tự do sản xuất, kinh doanh
được xã hội bảo vệ về mặt luật pháp. Và được coi như một quyền thiêng liêng
bất khả xâm phạm của con người. Với những hình thức bóc lột tinh vi bằng
những phương pháp, thủ đoạn bóc lột ở trình độ cao thì các tư liệu sản xuất tập
trung chủ yếu trong tay giai cấp tư sản, tập đoàn tư bản và các nhà tư sản.
Trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội: Theo các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin thì có hai phương thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đối
SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
9
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
với Việt Nam do xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu
cho nên việc có một thời kỳ lịch sử với sự tồn tại của đa thành phần kinh tế, đa
hình thức sở hữu là điều cần thiết. Trong đó, sở hữu tư nhân cùng với các hình
thức sở hữu khác tận dụng một cách triệt để sức mạnh và ưu thế của các thành
phần kinh tế. Tất cả nhằm tạo ra một tiền đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cần thiết cho Chủ nghĩa xã hội.
Tuy vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra ở
nước ta hiện nay với mục tiêu là phát triển một lực lượng sản xuất tiên tiến thì
sở hữu nhà nước - kinh tế nhà nước được xem là nền tảng của nền kinh tế. Đồng
thời, sở hữu nhà nước - kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo để định hướng
cho sở hữu tư nhân - kinh tế tư nhân đi theo đúng quỹ đạo dưới sự quản lý chặt

chẽ của Nhà nước.Trong tác phẩm Tuyên ngôn Đảng Cộng sản thì C.Mác và F.
Ănghen đã nhấn mạnh: Chủ nghĩa cộng sản không xóa bỏ của ai quyền chiếm
hữu của các của cải mà chỉ xóa bỏ việc dùng những của cải ấy để nô dịch lao
động của người khác.
1.1.1.2. Quá trình phát triển của pháp luật Dân sự về sở hữu và hình
thức sở hữu tư nhân ở Việt Nam
a. Giai đoạn 1945 - 1959
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 02/9/1945 nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời. Với mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội đi theo con
đường của Chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp 1946 ( thông qua tháng 11/1946) đã tạo
một nền tảng pháp lý cơ bản và từ đây quyền sở hữu tài sản riêng của công dân
đã trở thành quyền hiến định. Điều này được ghi nhận tại điều 12, Hiến pháp
1946 như sau: " Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm".
Trong giai đoạn này, nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam là xóa bỏ chế
độ sở hữu đối với tư liệu sản xuất của thực dân Pháp, địa chủ phong kiến... Pháp
SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
10
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
luật về sở hữu thời kỳ 1946 - 1959 đã tạo những tiền đề quan trọng cho việc xác
lập mối quan hệ sở hữu mới dưới chính quyền nhân dân. Từ đó, xây dựng
những cơ sở vật chất làm nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của chế độ mới.
Chính quyền do giai cấp vô sản làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản làm công cụ cải tạo xã hội, thiết lập các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Và coi công hữu là mục tiêu.
b. Giai đoạn 1959 - 1980.
Đây là giai đoạn Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Miền Nam tiếp
tục công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới. Chiến
thắng 30/4/1975, đất nước thống nhất, với những thành quả mà công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc đã làm tiền đề cho quá trình quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Hiến pháp 1959 ra đời đã ban hành những quy định về

hình thức sở hữu trong nền kinh tế - xã hội nước ta.
Với nhiệm vụ của thời kỳ này là: Xác lập và hoàn thiện chế độ sở hữu xã
hội chủ nghĩa ở Miền Bắc. Từ đó, tạo nền tảng cho con đường đi lên xã hội chủ
nghĩa ở nước ta sau khi giải phóng đất nước. Điều 12, Hiến pháp 1959 khẳng
định: “ Kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân giữ vai trò lãnh đạo nền kinh
tế quốc dân và được Nhà nước đảm bảo ưu tiên phát triển...”. Bên cạnh hình
thức sở hữu nhà nước còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác như: Sở hữu của
các nhà tư sản dân tộc, của những người tiểu thương, thợ thủ công... Vì vậy,
điều 11, Hiến pháp 1959 đã xác nhận và bảo hộ những hình thức sở hữu chủ
yếu đó là quy định rằng : " Ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong thời kỳ
quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức
sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là
hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao
động riêng lẽ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc". Pháp luật về sở hữu
SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
11
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
trong giai đoạn này chưa xác nhận việc công hữu hóa hoàn toàn đất đai ( theo
Hiến pháp 1959) nên quyền tư hữu của các hộ nông dân cá thể vẫn được Nhà
nước bảo hộ cùng với các quyền tài sản khác. Đây là kết quả của quá trình đấu
tranh của nhân dân ta qua những chặng đường dài của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh đó, chúng ta đã thực hiện các Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ
III, IV đó là: Vừa xây dựng vừa cải tạo, trong cải tạo có xây dựng...Các văn bản
pháp luật về sở hữu thời kỳ này đã tạo ra một tiền đề quan trọng có ý nghĩa to
lớn trong thời kỳ tiếp theo ở nước ta.
c. Giai đoạn 1980 – 1992.
Hiến pháp 1980 ra đời thay thế cho bản hiến pháp 1959 đã ghi nhận
phạm vi và bản chất của sở hữu nhà nước mà các bản Hiến pháp 1946, 1959
chưa quy định. Theo Hiến pháp 1980, tại các điều 18, 19, 23, 24 và 27 đã quy
định một cách chi tiết về các hình thức sở hữu. Điều 18, Hiến pháp 1980 đã ghi

nhận như sau: “ Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng
dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và
củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một
nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh
thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu của nhân
dân lao động.
Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và
được phát triển ưu tiên”.
Trước khi tiến hành đổi mới Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng
và hoàn thiện một cách cơ bản về chế độ sở hữu Xã hội chủ nghĩa với hai hình
thức sở hữu cơ bản đó là: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đánh giá một cách
tổng quan thì với hai hình thức sở hữu này đã đóng góp và phát huy vai trò to
lớn trong quá trình đấu tranh giành chính quyền cũng như trong tiến trình quá
SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
12
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng thực tế ở nước ta, do xuất phát điểm thấp,
trình độ của lực lượng sản xuất còn chưa cao, năng suất lao động thấp. Thêm
vào đó là do tư duy chủ quan, thiếu hiểu biết, tư tưởng nóng vội, duy ý chí đã
tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu Xã hội chủ nghĩa. Trong một thời gian
dài chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động. Đồng thời coi
đây là mầm mống khôi phụ chế độ bóc lột làm kìm hãm sự phát triển của đất
nước trên nhiều phương diện.
d. Giai đoạn từ 1992 cho đến nay
Với đường lối đổi mới đã được đề ra thì công cuộc đổi mới đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể, nhất là trong những năm đầu của thập niên 90 của thế
kỷ trước. Hiến pháp 1992 ra đời đã kế thừa những quy định của các bản Hiến
pháp trước đây, đồng thời xác nhận chế độ kinh tế của nước ta gồm ba hình
thức sở hữu được quy định một cách cụ thể tại điều 15, Hiến pháp 1992( sửa
đổi, bổ sung năm 2001): “ Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên

cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhà nước thực hiện nhất ....quán chính sách phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các
hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân, tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền
tảng”. Cùng với xu thế phát triển một nền kinh tế đa dạng, Hiến pháp 1992 đã
xác nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân, nhiều thành phần kinh tế.
Điều 21, Hiến pháp 1992 ( đã sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “ Kinh tế
cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt
động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế, dân sinh. Kinh tế gia đình
SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
13
Niên luận: Chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân. Thực tiễn ở Việt Nam.
được khuyến khích phát triển”. Bên cạnh đó, về vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất
quan trọng là đất đai, Hiến pháp 1992 đã khẳng định: Nhà nước thống nhất
quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục
đích và có hiệu quả ( điều 18). Đồng thời, có sự thay đổi trong chính sách sử
dụng đất cho phù hợp với thực tiễn trong giai đoạn mới.
Thành tựu lập pháp cao nhất trong lĩnh vực sở hữu nói chung và sở hữu
tư nhân nói riêng đó là quy định về tài sản và quyền sở hữu trong Phần hai Bộ
Luật Dân Sự. Với các quy định tương đối hoàn thiện và đầy đủ về sở hữu chắc
chắn tạo ra những nền tảng thuận lợi cho việc ổng định và phát triển các quan
hệ hàng hóa tiền tệ trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên tinh thần của Hiến pháp
1992 và \được sửa đổi, bổ sung năm 2001 thì Bộ Luật Dân sự 1995( có hiệu lực
ngày 01/7/1996) và sau này là Bộ Luật Dân sự 2005( có hiệu lực vào ngày
01/01/2006) tại điều 172 quy định một cách cụ thể như sau : “...sở hữu bao gồm
sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ

chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội -
nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp”. Hiến pháp năm 1992
thừa nhận một số hình thức sở hữu hỗn hợp, đan xen, được hình thành từ mối
liên hệ liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế. Điều 22 Hiến pháp năm
1992 qui định: “...Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh,
liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước theo qui định của
pháp luật”. Đây là cơ sở pháp lý để thừa nhận sự tồn tại hình thức sở hữu của
các tổ chức kinh tế do các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế liên kết
liên doanh như sở hữu của các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, sở
hữu của xí nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài.
SVTH: Võ Thị Hoàng Mai.
14

×