Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

Thiết kế và tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp và có nội dung hóa học cho học sinh lớp 10 và 11 trường Trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 164 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_______________________




Nguyễn Thị Thanh Hà











Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học môn hóa học
Mã số : 60 14 10


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ HOÀNG OANH


Thành phố Hồ Chí Minh – 2009


LỜI CẢM ƠN


Để thực hiện được đề tài này, chúng tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận
tình của TS. Phan Thị Hoàng Oanh cùng các thầy cô trong khoa Hoá truờng
ĐHSP TP. HCM, đặc biệt là thầy trưởng khoa – TS. Trịnh Văn Biều. Việc
hoàn thành đề tài cũng không thể thiếu sự giúp đỡ, ủng hộ tích cực của gia
đình, bạn bè đồng nghiệp và các em học sinh.
Chúng tôi xin trân trọng gửi đến quý thầy cô, bạn bè đồng nghiệp, các
em học sinh và tất cả mọi người lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân

thành.
Do đề tài còn mới mẻ nên chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Chúng tôi
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô và bạn bè đồng nghiệp
để xây dựng cho đề tài hoàn thiện hơn.

TP.HCM ngày 30 tháng 8 năm 2009


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BCH : ban chấp hành
BGH : ban giám hiệu
BGK : ban giám khảo
BTC : ban tổ chức
CNH – HĐH : công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CSVC : cơ sở vật chất
CTV : cộng tác viên
ĐHSP : Đại học sư phạm

GV : giáo viên
GVCN : giáo viên chủ nhiệm
HĐGD NGLL : hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
HS : học sinh
MC : người dẫn chương trình
NGLL : ngoài giờ lên lớp
NXB : nhà xuất bản
SGK : sách giáo khoa
THPT : trung học phổ thông
TB : trung bình
TN : thanh niên
TP : thành phố



MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, Đảng ta
đã xác định: “Giáo dục nhân cách đa dạng, độc lập, đó là cơ sở của sáng tạo và
canh tân xã hội. Thế kỷ XXI là thế kỷ của tài năng và nhân cách đa dạng. Học để tự
khẳng định mình là tạo ra sự phát triển toàn diện con người với toàn bộ sự phong
phú, đa dạng vốn c
ó của nhân cách cá nhân.” (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần II khóa VIII năm 1996).
Như vậy, mục đích của việc dạy học ngày nay là giáo dục học sinh (HS)
thành những con người toàn diện, dạy chữ kết hợp với dạy người.
Từ những năm gần đây, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã đưa vào chương trình học
một nội dung mới: ngoài giờ lên lớp (NGLL). Mục tiêu chính của hoạt động này là


nhằm giáo dục tư tưởng, ý thức, tình cảm, thái độ của HS – giúp các em thực sự trở
thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên”, để làm chủ tương lai của đất nước.
Thực tế, hoạt động này không quá xa lạ với chúng ta. Trước đây, đó có thể là những
giờ ngoại khóa, những buổi tham quan, các câu lạc bộ đội nhóm mà bất kì trường
trung học phổ thông (THPT) nào cũng có. Tuy nhiê
n, ba năm trở lại đây, cùng với
việc đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa (SGK), hoạt động NGLL được
chú trọng khá nhiều.
Khi đưa vào chương trình, hoạt động này trở nên khá mới mẻ, nên dù muốn
dù không cũng gặp nhiều khó khăn. Nội dung giáo dục vẫn phần nào khô cứng và
mang nặng tính chất lí thuyết, hình thức tổ chức còn hạn chế, đơn điệu, khiến cho
HS khó tiếp nhận. Bản thâ
n giáo viên (GV) còn rất lúng túng vì chương trình mới,
lại chưa có một khóa học nào hướng dẫn cách tổ chức cho thật hiệu quả cả. Vấn đề
đang được các ban ngành quan tâm hiện nay là làm thế nào để những hoạt động
giáo dục NGLL thực sự không chỉ là hoạt động sinh hoạt chính trị được tổ chức
khá hình thức, hay chỉ là những hoạt động thực hành mở rộng bài học trên lớp, mà
trở thành những hoạt động đa dạng nhằm giúp HS chiếm lĩnh các kỹ năng sống –
cụ thể là kỹ năng giao tiếp và làm việc theo nhóm – là những kỹ năng hết sức quan
trọng trong việc học tập và trong cuộc sống của bản thân HS?
Với mong muốn đưa nội dung hóa học vào hoạt động NGLL, nhằm giúp tiết
học thêm đa dạng, phong phú, giúp các em thấy được mối liên hệ giữa học chữ –
học làm người, thấy được sự gần gũi giữa hóa học và cuộc sống, qua
đó tạo điều
kiện thuận lợi để giáo dục HS, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “THIẾT KẾ VÀ TỔ
CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP CÓ NỘI DUNG HÓA HỌC CHO
HỌC SINH LỚP 10 VÀ 11 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”.

2. Mục đích nghiên cứu
 Thiết kế các hoạt động NG

LL có nội dung hóa học.
 Tổ chức và tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
NGLL, nhằm góp phần giáo dục toàn diện HS khối lớp 10 và 11.
3. Khách thể - đối tuợng nghiên cứu
 Khách thể: quá trình giáo dục toàn diện HS ở trường THPT.
 Đối tượng: việc thiết kế các hoạt động NGLL cho HS lớp 10 và 11 trường
THPT.
4. Nhiệm vụ của đề tài
 Hoàn thiện hệ thống cơ sở lí luận về hoạt động NG
LL.
 Tìm hiểu, điều tra thực trạng các tiết học NGLL ở trường THPT.
 Xác định những nội dung của hóa học có thể kết hợp cùng với hoạt động
NGLL.
 Sưu tầm, sáng tạo những hình thức kết hợp hóa học – NGLL.
 Xây dựng tiết NGLL có nội dung hóa học.
 Tiến hành thực nghiệm sư phạm.
 Tìm ra các biện phá
p để nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động NGLL.
5. Phạm vi nghiên cứu
 Chương trình: khối lớp 10 và 11.
 Nội dung: việc đưa nội dung hóa học vào hoạt động NGLL.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu đưa nội dung hóa học vào hoạt động NGLL tiết học sẽ thêm phong phú,
sinh động, thiết thực, nhờ vậy sẽ nâng cao hiệu quả giáo dục, góp phần phát triển
năng lực và hoàn thiện nhân cách của HS.
7. Các phuơng pháp nghiên cứu
– Đọc và tham khảo các tài liệu.
– Quan sát.
– Trò chuyện, phỏng vấn.
– Dùng phiếu điều tra.


– Thực nghiệm sư phạm.
– Phân tích, tổng hợp.
– Phương pháp thống kê toán học.
8. Điểm mới của đề tài
Qua quá trình nghiên cứu và tổ chức thực nghiệm, đề tài đã có những đóng góp sau:
 Về mặt lí luận: Góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động giáo dục NGLL:
– Bổ sung thêm về tác dụng của nội dung hóa học trong hoạt động giáo dục
NGLL.
– Đề ra những yê
u cầu và qui trình thiết kế các hoạt động NGLL có nội
dung hóa học.
 Về mặt thực tiễn:
– Thiết kế được 50 hoạt động gắn kết nội dung hóa học và nội dung NGLL,
tạo nên sự phong phú, đa dạng cho hoạt động, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
– Tổng kết các bài học kinh nghiệm giúp cho việc tổ chức các hoạt động có
hiệu quả hơn.
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Lịch sử vấn đề
HĐGD NGLL là một bộ phận của quá trình giáo dục ở nhà trường phổ thông
nói chung và trường THPT nói riêng. Đó là những hoạt động được tổ chức ngoài
giờ học các môn văn hóa trên lớp. Vì vậy, có thể nói hoạt động NGLL là một nội
dung mới, một tên gọi khác của các hoạt động ngoại khóa tại trường phổ thông. Có
thể chia hoạt động này thành hai giai đoạn:
1.1.1. Giai đoạn 1: H
oạt động được tổ chức một cách tự phát
Trước đây, hầu hết các trường THPT tổ chức hoạt động ngoại khóa một cách
tự phát chứ chưa đi vào hệ thống. GV tập trung vào việc lĩnh hội kiến thức chuyên

môn nhiều hơn việc rèn luyện những phẩm chất, kĩ năng, bồi dưỡng nhận thức cho
HS. Một số trường có tổ chức các buổi ngoại
khóa bài bản thì lại tập trung chủ yếu
vào kiến thức chuyên môn, hoặc tạo nơi vui chơi, giải trí cho HS sau giờ học.
Trong thời gian này, chương trình giáo dục ở trường phổ thông không có
HĐGD NGLL. Việc tổ chức các hoạt động này cho HS được tiến hành qua văn bản
“Hướng dẫn giáo dục theo chủ điểm” mà Bộ Giáo dục & Đào tạo đã ban hành bằng
chỉ thị số 1960 CT/1983. Sau đó,
hàng năm Bộ Giáo dục & Đào tạo lại có văn bản
hướng dẫn bổ sung. Với văn bản hướng dẫn này, các nhà trường đã tổ chức thực
hiện HĐGD cho HS tuỳ theo điều kiện và khả năng cho phép [30, tr.3].
Nói một cách đơn giản là hoạt động NGLL chưa được chú trọng đúng mức
như hiện nay. Đó cũng là lí do vì sao trước đây, tài liệu viết về hoạt động NGLL
không nhiều. C
ó thể kể ra một số tài liệu như:
+ HĐGD NGLL ở trường THCS, của Đặng Vũ Hoạt (1999).
+ Thực hành tổ chức các HĐGD, của Hà Nhật Thăng (2005).
1.1.2. Giai đoạn 2: Hoạt động được đưa vào chương trình chính khóa
Bắt đầu từ năm học 2006 – 2007, cùng với việc cải cách nội dung, chương
trình SGK, hoạt động NGLL cũng được đưa vào c
hương trình như một phần của
việc học văn hóa. Nhờ vậy, hoạt động mới phát huy được hết tác dụng giáo dục đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách HS.
Từ đó, với mong muốn có thể đạt được mục tiêu đề ra ban đầu, việc nghiên
cứu về hoạt động này cũng được quan tâm nhiều hơn.
1. Hiện nay, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã xuất bản 3 tập sách cho 3 khối học
trong cấp THPT [6, 7, 8] như một kim chỉ nam cho HĐGD NGLL theo chủ điểm
từng tháng của từng khối. Việc làm này không những khẳng định HĐGD NGLL c
ó
vai trò như một môn học chính thức mà còn giúp điều chỉnh, định hướng HĐGD

NGLL phát triển một cách hệ thống, đồng bộ.
2. Nhiều đề tài nghiên cứu từ cấp cơ sở lên tới cấp Bộ về hoạt động NGLL
cũng đã được thực hiện với mật độ n
gày càng dày. Có thể nêu ra một số bài viết và
đề tài nghiên cứu như:

Một số bài viết về HĐGD NGLL:
 Hội thảo Hiệu quả của hoạt động ngoại khóa đối với việc nâng cao chất
lượng dạy và học trong nhà trường phổ thông do Viện nghiên cứu giáo dục
Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh tổ chức vào tháng 10/2007 với các đề tài:
+ “Một số biện pháp quản lý góp phần nâng cao chất lượng HĐGD NGLL ở
trường phổ thông hiện nay” – ThS. Trương Quang Dũng [15].
+ “Tổ chức HĐGD NGLL ở trường TH
CS Khánh hội A”– Trần Thị Minh Thi.
 Chuyên đề “Quản lý hoạt động NGLL”, sáng kiến kinh nghiệm năm học
2007 – 2008 của GV Nguyễn Thị Thơm, trường tiểu học Đằng Giang [37].

Một số đề tài nghiên cứu về HĐGD NGLL:
 “Đổi mới nội dung, phương pháp HĐGD theo chủ đề cho HS ở các trường
trung học cơ sở và trung học phổ thông tỉnh Hải Dương”– Chủ nhiệm đề tài: Th.S
Hoà
ng Văn Đoạt, Phó Giám đốc Sở Giáo dục & Đào tạo Hải Dương (2004).
 “ Tìm hiểu tình hình triển khai thực hiện chương trình môn HĐGD NGLL ở
trường phổ thông trên địa bàn thị xã Thủ Dầu Một và huyện Thuận An” – Phạm
Phúc Tuy –Trần Thị Phượng (2005).
 “Thực trạng v
à giải pháp nhằm nâng cao chất lượng HĐGD NGLL”– đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường của GV Thái Thị Bi, Bộ môn Tâm lý, khoa Sư
phạm, trường Đại học An Giang (2006) [1].
 “Thực hành tổ chức các HĐGD NGLL” – tiểu môđun trong môđun Công tác

đội và thực hành tổ chức HĐGD NGLL, do nhóm tác giả trường Cao đẳng Sư phạm
TP. Hồ Chí Minh biên soạn (2007) [13].
 “Tổ chức hoạt động NGLL có nội dung hóa học góp phần giáo dục toàn
diện HS ở trường THPT”, Luận văn thạc sĩ giáo dục học của tác giả Lê Thị Kim
Dung (2008) [14]
. Đây là công trình khoa học gần nhất với huớng nghiên cứu của
tác giả. Luận văn gồm 153 trang, nội dung nghiên cứu gồm 3 phần:
 Phần 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
 Đề tài đã xác định được vai trò quan trọng của hoạt động NGLL, đồng thời
làm sáng tỏ phương pháp thiết kế và tổ chức hoạt động NG
LL.
 Kết hợp kiến thức hóa học với hoạt động NGLL, làm rõ nhiệm vụ, tác
dụng và nguyên tắc hoạt động của hoạt động NGLL có nội dung hóa học.
 Nêu rõ cách thức tổ chức và tiến hành hoạt động NGLL có nội dung hóa
học cụ thể cho từng loại hình: hoạt động NGLL theo chủ đề tháng và hoạt
động ngoại khóa hóa học.
 Điều tra thực tế nhằm rút ra một số vấn đề thực tiễn của hoạt động NG
LL
hiện nay ở TP. Hồ Chí Minh.
 Phần 2. Thiết kế một số HĐGD NGLL có nội dung hóa học
 Tác giả đã sáng tạo, thiết kế được:
+ 5 hoạt động NGLL theo chủ đề tháng: Sân chơi hấp dẫn, Lớp chúng
mình – các nguyên tố hóa học, Những món quà đặc biệt, Bảo vệ môi
trường, Hóa học và tài nguyên môi trường.
+ 3 hoạt độn
g theo chủ đề ngoại khóa hóa học: Vui chơi cùng hóa học,
Hóa học lí thú, Cùng kể chuyện các nguyên tố hóa học.
 Trong từng bài thiết kế, tác giả nêu rõ mục đích hoạt động, phần chuẩn bị,
cách tiến hành, và vai trò, tác dụng của nội dung hóa học trong hoạt động.
 Phần 3. Tiến hành thực nghiệm và chứng minh tính khả thi của đề tài


Nhận xét về các bài viết và đề tài nghiên cứu:

Về mặt lí luận: các đề tài đều khẳng định được tầm quan trọng của HĐGD
NGLL đối với sự phát triển toàn diện của HS, đồng thời làm rõ nhiệm vụ, tác dụng
của hoạt động cùng những yêu cầu cụ thể để tổ chức hoạt động một cách hiệu quả.

Về mặt thực tiễn: các đề tài đã đi sâu vào khía cạnh thực tế, làm rõ, phân tích
thực trạng, cùng những thuận lợi và khó khăn trong quá trình tổ chức. Qua đó tìm ra
những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động.
Tuy nhiên, việc gắn hóa học vào hoạt động NGLL nhằm giáo dục HS là một
đề tài mới mẻ, chưa được nghiên cứu rộng rãi. Cho tới nay, mới chỉ có luận văn
thạc sĩ của tác giả Lê Thị Kim
Dung nghiên cứu sâu về vấn đề này. Ngoài những
công việc mà luận văn thực hiện được như đã nêu trên, chúng tôi nhận thấy:
 Các hình thức đưa nội dung hóa học vào HĐGD NGLL chưa phong phú.
Mới chỉ có trò chơi ô chữ, tiểu phẩm, kể chuyện, thuyết trình, trò chơi hoạt động...
 Một số hoạt động khá công phu, vượt quá khả năng “tự thực hiện” của HS.
 Chưa phát huy được hết vai trò tự quản của HS trong hoạt động.
 Phần bài học kinh nghiệm sau
một số hoạt động còn sơ sài.
 Chưa bổ sung được nhiều nội dung mới cho hệ thống cơ sở lí luận.
3. Bên cạnh đó, có một số đề tài nghiên cứu của sinh viên khoa Hóa trường
ĐHSP TP. Hồ Chí Minh cũng đề cập tới việc tổ chức ngoại khóa hóa học ở trường
phổ thông, nhưng lại không gắn cụ thể và
o hoạt động NGLL.

1.2. Hoạt động
1.2.1. Khái niệm chung về hoạt động
 Theo sách Tâm lý học đại cương [12, tr 35 – 38], hoạt động là mối quan hệ

tác động qua lại giữa con người (chủ thể) và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm
cả về phía thế giới, cả về phía con người. Trong mối quan hệ đó có hai quá trình
diễn ra đồng thời và bổ sung c
ho nhau, thống nhất với nhau:
 Quá trình thứ nhất là quá trình đối tượng hóa, trong đó chủ thể chuyển năng
lực của mình thành sản phẩm của hoạt động, có nghĩa là tâm lý của của con người
được bộc lộ, được khách quan hóa trong quá trình làm ra sản phẩm.
 Quá trình thứ hai là quá trình chủ thể hóa: khi hoạt động con người chuyển
từ phía khách thể vào bản thân mình những qui luật, bản chất của thế giới tạo nên
tâm lý, ý thức, nhân cách của bản thân, bằng cách chiếm lĩnh thế giới đó.
1.2.2. Những đặc điểm của hoạt động
 Hoạt động bao giờ cũng là “hoạt động có
đối tượng”: đối tượng của hoạt
động là cái con người cần làm ra, cần chiếm lĩnh (động cơ).
 Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể.
– Hoạt động bao giờ cũng có tính mục đích: mục đích của hoạt động là làm
biến đổi thế giới (khách thể), biến đổi bản thân chủ thể.
– Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián
tiếp: trong hoạt động con người
“gián tiếp” tác động đến khách thể qua hình ảnh tâm lý trong đầu, qua việc sử dụng
công cụ lao động và sử dụng phương tiện ngôn ngữ.
1.2.3. Các loại hoạt động
Có nhiều cách phân loại hoạt động:
1. Xét về phương diện cá thể: có 4 loại hoạt động là vui chơi, học tập, lao động và
hoạt động xã hội.
2. Xét về phương diện sản phẩm (vật chất ha
y tinh thần) có hai loại hoạt động:
– Hoạt động thực tiễn : tạo ra sản phẩm vật chất là chủ yếu.
– Hoạt động lý luận: tạo ra sản phẩm tinh thần.
3. Còn có cách phân loại khác, chia hoạt động thành 4 loại: hoạt động biến đổi, hoạt

động nhận thức, hoạt động định hướng giá trị, hoạt động giao lưu.
1.2.4. Cấu trúc hoạt động

Quan điểm A.N.Leochiev về cấu trúc vĩ mô của hoạt động, bao gồm 6 thành tố
và mối quan hệ giữa 6 thành tố này.
Khi tiến hành hoạt động :
■ Về phía chủ thể bao gồm 3 thành tố và mối quan hệ giữa 3 thành tố này, đó
là : hoạt động – hành động – thao tác. Ba thành tố này thuộc về các đơn vị thao tác
(mặt kĩ thuật) của hoạt động.
– Về phía khách thể (đối tượng hoạt động) bao gồm 3 thành tố và mối quan hệ
giữa chúng với nhau, đó là: động cơ – mục đích – phương tiện. Ba thành tố này tạo
nên “nội dung đối tượng” của hoạt động (mặt tâm lí).
– Cụ thể là hoạt động hợp bởi các hành động. Các hành động diễn ra bằng các
thao tác. Hoạt động luôn hướng vào động cơ (nằm trong đối tượng) đó là mục đích
chung của h
oạt động. Mục đích chung này được cụ thể bằng những mục đích cụ thể,
bộ phận mà từng hoạt động hướng vào. Để đạt mục đích con người phải sử dụng
các phương tiện.
■ Sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, giữa đơn vị thao tác và nội
dung đối tượng của hoạt động, tạo ra sản phẩm của hoạt động. Có thể khái quát cấu
trúc chung của hoạt động như sau:

Chủ thể Khách thể

Hoạt động cụ thể Động cơ

Hành động Mục đích

Thao tác Phương tiện


Sản phẩm

1.2.5. Vận dụng lý thuyết hoạt động vào đề tài nghiên cứu
Dựa vào cấu trúc của hoạt động, chúng tôi có những vận dụng vào đề tài
nghiên cứu như sau:
■ Muốn tạo đư
ợc một sản phẩm mới, đạt chất lượng – ở đây chính là sự lĩnh
hội tri thức, sự hình thành và phát triển kĩ năng, sự hoàn thiện dần về ý thức và tư
tưởng của HS, bản thân người thiết kế cần phải nắm rõ cấu trúc của hoạt động.
– Chủ thể của hoạt động ở đây là người tổ chức (có thể l
à GV hoặc chính HS),
người tham gia (HS); khách thể là các hoạt động NGLL có nội dung hóa học.
Cụ thể: giữa chủ thể và khách thể phải có sự tác động qua lại lẫn nhau. HS
tác động (thực hiện), làm cho hoạt động này phát huy, bộc lộ tác dụng của chúng.
Thông qua đó, HS lại thu về được kiến thức, kĩ năng, hình thành thái độ, nhận thức
mới.
■ Để làm được như vậy, khi thiết kế hoạt động, GV cần chú ý đến sự thống
nhất, xuyên suốt giữa động cơ, mục đích và phương tiện tiến hành. Hoạt động luôn
hướng vào động cơ. Do đó, các hoạt động NGLL thông qua các hình thức tổ chức
phải thu hút, hấp dẫn với người tham gia, và phải có tác dụng phát huy khả năng,
bồi dưỡng tư tưởng, nhận thức, tình cảm. Kh
i chủ thể tìm thấy mục đích của mình
trong đối tượng thì sẽ có nhiều nỗ lực hơn để giành được nó. Mặt khác, sự hấp dẫn,
thú vị của tiết học cũng có tác dụng tạo ra tâm lý thoải mái cho người tham gia,
thêm điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động.
■ Khi tiến hành hoạt động, về phía chủ thể (HS) có ba thành tố là hoạt động –
hành động – thao tác. Để việc rèn luyện kĩ năng, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực có
hiệu quả, khi tổ chức một hoạt động
NGLL, GV cần chú ý đến thao tác, hành động
bao gồm thao tác làm việc theo nhóm, thuyết trình, tìm tư liệu, chất vấn, thao tác thí

nghiệm sao cho thật hợp lý, và đạt những yêu cầu đề ra. Chính sự hợp l
ý ấy sẽ tạo
nên mạch liên tục cho một chuỗi những thao tác, và khi những thao tác được sử
dụng một cách thuần thục sẽ dẫn tới kĩ năng được hình thành một cách nhanh
chóng, hiệu quả. Cũng thông qua những thao tác, hành động này mà dần hình thành
trong HS những nhận thức, năng lực mới.

1.3. Hoạt động giáo dục
Theo tài liệu Giáo dục học đại cương [11, tr.15], chúng ta có thể hiểu HĐGD
qua những vấn đề sau:
1.3.
1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển
nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Thuật ngữ “giáo dục học” có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
– Theo nghĩa rộng, giáo dục bao gồm cả việc dạy lẫn việc học cùng với hệ
thống các tác động sư phạm khác diễn ra ở trong và ngoài lớp, trong và ngoài nhà
trường cũng như trong và ngoài xã hội.
– Theo nghĩa hẹp, giáo dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về mặt đạo đức,
tư tưởng và hành vi…. nhằm hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, thái độ và
những hành vi thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội.
Như vậy, giáo dục trước hết là sự tác động của những nhân cách này đến
những nhân cách khác, tác động của những nhà giáo dục đến những người đư
ợc
giáo dục, cũng như tác động của những người được giáo dục với nhau. Chính thông
qua những hoạt động của người học được thực hiện trong mối quan hệ nhất định mà
nhân cách của người học được hình thành và phát triển.
1.3.2. Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách HS
Quá trình xã hội hình thành cá nhân con người được thực hiện do sự tác động
của nhiều nhân tố bên ngoài, trong đó có giáo dục. Giáo dục là một bộ phận của các

quá trình xã hội đó, tuy không thể thay thế cho toàn bộ các nhân tố và ảnh hưởng
của các quá trình xã hội, không thể một mình quyết định toàn bộ tiến trình phát triển
của cá nhân, nhưng lại đóng vai trò “chủ đạo” là định hướng, dẫn dắt sự phát triển
nhân cách. Vai trò chủ đạo của giáo dục được thể hiện trong bốn phương diện sau:
 Giáo dục chủ động đề ra mục đíc
h, qui định phương hướng, nội dung và
mức độ của sự phát triển. Giáo dục căn cứ vào mục tiêu đào tạo tổng quát để
qui định mức độ phát triển cá nhân, bằng cách xây dựng chương trình giáo
dục cho từng loại đối tượng thích ứng với lứa tuổi, cấp học, loại trường, thời
gian, loại hình và phương pháp đào tạo.
 Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố, tổ chức các hoạt động và giao
lưu nhằm tạo nê
n sự phát triển nhân cách thuận lợi.
 Giáo dục tạo ra tiền đề cho tự giáo dục và hoạt động cá nhân. Trình độ,
khả năng tự giáo dục của cá nhân phần lớn bắt nguồn từ sự định hướng đúng
đắn của giáo dục. Sự thống nhất giữa giáo dục và tự giáo dục còn tạo ra khả
năng tự đề kháng của cá nhân trước các tác động, ảnh hưởng tiêu cực của
hoà
n cảnh xã hội.
 Giáo dục phải đi trước, đón đầu sự phát triển. Sự định hướng của giáo dục
không chỉ thích ứng với các yêu cầu của xã hội hiện tại mà còn phải đi trước
hiện thực, hướng về tương lai để chủ động đón đầu và thúc đẩy sự phát triển.
Để giáo dục giữ vai trò chủ đạo và có tác động thực sự đến sự hình thành và
phát triển nhân cách của HS, cần có sự kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục. Thành
công trong giáo dục chính là làm cho người được giáo dục nhận thức được và chấp
nhận những yê
u cầu của nhà giáo dục và của tập thể, biến chúng thành của mình,
làm cho họ biết tự đề ra cho mình những mục tiêu phấn đấu trong cuộc sống, tự bồi
dưỡng và tự rèn luyện những phẩm chất và năng lực mới cho bản thân.
1.3.3. Nguyên tắc chung của tổ chức HĐGD

Đối với HS, để giáo dục phát huy vai trò to lớn của mình, theo tác giả Hà
Nhật Thăng [36, tr.11], cần tuân theo bốn nguyê
n tắc sau:

Nguyên tắc 1: HS vừa là chủ thể vừa là khách thể giáo dục
Một mặt, HS là khách thể giáo dục, chịu sự tác động. Nhưng mặt quan trọng
hơn, với tư cách chủ thể, người HS chủ động tích cực lĩnh hội, rèn luyện, tạo lập
hành vi thói quen đạo đức và trong bản thân HS đã diễn ra quá trình chuyển vào
trong, tạo thành nội lực thúc đẩy cá nhân tự hoạt động.
Để thực hiện nguyên tắc này các lực lượng giáo dục cần thống nhất qua
n
điểm “lấy HS làm trung tâm” và tạo điều kiện tối đa để HS phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo. Kết quả của giáo dục không dừng ở mức độ nhận thức, thái độ, hành
vi của HS mà quan trọng hơn là khả năng tự chủ giáo dục mà các em đạt được.
Vì vậy, khi tổ chức các hoạt động NGLL, GV cần lưu ý mình chỉ là người cố
vấn, giữ vai trò “chủ đạo”, c
hứ không “chủ động”. Không nên định ra hẳn một
nguyên tắc, và ép buộc các em răm rắp thực hiện theo, mà nên để cho HS có cơ hội
phát huy hết khả năng sáng tạo của mình.

Nguyên tắc 2: Cá thể hóa và xã hội hóa HĐGD
HĐGD vừa mang tính cụ thể, biến dạng theo từng cá nhân, diễn ra theo từng
tình huống, lại vừa mang tính xã hội hóa cao. Mỗi HS đều có kinh nghiệm riêng,
thói quen, thái độ đã được hình thành ở mức độ khác nhau.
Để thực hiện được nguyên tắc này, tổ chức giáo dục cần xây dựng các tình
huống giáo dục phù hợp với các loại đối tượng. Mục đích và yêu cầu về giáo dục là
thống nhất nhưng cách làm, cách tổ chức hoạt động phải đa dạng, linh hoạt.
Những hoạt động được thiết kế trong tiết NGLL cần đa dạng, phù hợp với
tâm lí của từng nhóm HS. Ví dụ, với lớp học không sôi động, GV khó có thể bắt
đầu tiết học bằng màn thuyết trình khô khan. Thay vào đó, nê

n để cho các em khuấy
động không khí lớp bằng một vài trò chơi nho nhỏ. Cũng như vậy, trong từng tình
huống của hoạt động, mỗi HS sẽ có một cách nhìn nhận, xử lý khác nhau, GV
không nên áp đặt như thế là sai hay đúng.

Nguyên tắc 3: tiếp cận hệ thống và phát triển
Sự phát triển nhân cách của HS chịu sự tác động của các hệ thống: hệ thống
môi trường, hệ thống giáo dục, các nhân tố sinh học… Do đó việc xác định chức
năng và nhiệm vụ giáo dục cần phải xem xét đến tính hệ thống của hoạt động.
HĐGD là hoạt động luôn luôn biến động và phát triển không ngừng về nội dung,
phương pháp, hì
nh thức tổ chức để phù hợp với đối tượng của nó là HS đang trưởng
thành và phát triển, trong điều kiện xã hội cũng đang biến đổi như vũ bão.
Để thực hiện được nguyên tắc này, các nhà giáo dục cần lưu ý các yêu cầu:
 Xác định rõ chức năng, vai trò từng nhân tố và đặt HĐGD trong điều kiện
xã hội cụ thể.
 Tổ chức HĐGD phải gắn bó hữu cơ với hoạt động dạy học nhằm hướng
tới mục tiêu giáo dục nhâ
n cách toàn diện.
 Có sự thống nhất cao giữa mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức giáo dục, tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
 Luôn tạo động lực cho HS, luôn nhìn nhận các bản chất, xu hướng phát
triển của đối tượng giáo dục.
■ Khi thiết kế các HĐGD NGLL,
GV cần lưu ý đảm bảo:
– Hoạt động có nội dung và mục đích gắn liền với mục đích giáo dục chung
sao cho HS thấy được sự liên hệ mật thiết giữa nội khóa và ngoại khóa, giữa các
môn học với nhau.
– Dựa vào mục tiêu cuối cùng cần đạt – giáo dục HS thành những con người
với đầy đủ phẩm chất chân – thiện – mĩ để đề ra hình thức hoạt động phù hợp.

Những mục tiêu này được qui định bởi mục tiêu giáo dục, nhu cầu xã hội, và tình
hình thực tiễn.

Nguyên tắc 4: kết hợp điều khiển với tự điều khiển
Một trong những nét bản chất nổi bật của HĐGD là làm cho HS có ý thức
đúng đắn, sâu sắc về nội dung, ý nghĩa xã hội của một vấn đề, một sự kiện…mà
hoạt động đề cập tới. Từ đó giúp các em tích lũy kinh nghiệm, có nhu cầu và thói
quen hành động đúng đắn, có nỗ lực và ý c
hí loại trừ xóa bỏ cái xấu.
HĐGD thực chất là hoạt động điều khiển và tự điều khiển. GV là người điều
khiển ở các bước: xác định mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức sao
cho phù hợp với đối tượng để đối tượng có thể hưởng ứng, tham gia tích cực nhất.
Tuy nhiên điều khiển ở đây không thể mang tính chất áp đặt mà mang tính
định hướng và điều c
hỉnh. Đối với một con người, nhất là HS phổ thông thì quá
trình phát triển nhân cách, sự hình thành phẩm chất đạo đức là quá trình phức tạp,
rất cần có sự định hướng và điều chỉnh. Giáo dục chỉ có thể tạo ra những nét phẩm
chất nhân cách bền vững khi nó được thực hiện bằng biện pháp có tác dụng kích
thích động lực bên trong của HS, dẫn tới vai trò tự điều khiển nhận thức thái độ,
hành vi của m
ình và đó được coi là yếu tố quyết định.
Do vậy, nội dung những hoạt động do GV đưa ra cần phải kích thích được tư
duy, sáng tạo của HS. Đó có thể là một tiểu phẩm, một trò chơi. Khi tham gia, HS
sẽ hình thành thói quen nhận xét, đánh giá và rút ra những bài học, kinh nghiệm cho
riêng mình. GV không áp đặt các em nhưng cần nhanh nhạy, linh hoạt để kịp thời
phát hiện và điều chỉnh khi có sai sót.

1.4. H
oạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Theo tài liệu bồi dưỡng thường xuyên [10, tr.61 – 68], chúng ta có thể hiểu

về HĐGD NGLL ở những khía cạnh sau:
1.4.1. Khái niệm
HĐGD NGLL là một bộ phận của quá trình giáo dục ở nhà trường phổ thông
nói chung và trường THPT nói riêng. Đó là những hoạt động được tổ chức ngoài
giờ học các môn học văn hóa trên lớp. HĐGD NGLL là sự tiếp nối hoạt động dạy
học trên lớp, là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa
nhận thức và hành động, góp phần hình thành tình cảm, niềm tin đúng đắn ở HS.
HĐGD NGLL là con đường hoàn thiện nhân cách thế hệ trẻ.
1.4.2. Mục tiêu và vai trò
1.4.
2.1. Mục tiêu
Như chúng ta đã biết, HĐGD NGLL là điều kiện tốt nhất để HS phát huy vai
trò chủ thể, tính tích cực, chủ động trong quá trình học tập, rèn luyện toàn diện. Với
ý nghĩa đó, mục tiêu của HĐGD NGLL được thể hiện ở những điểm sau:
■ Về nhận thức
: góp phần củng cố, mở rộng và khắc sâu kiến thức đã học trên
lớp, nâng cao hiểu biết về các lĩnh vực của đời sống xã hội, về những giá trị truyền
thống của dân tộc, biết tiếp thu những giá trị tốt đẹp của nhân loại và của thời đại;
có ý thức trách nhiệm đối với bản thân và xã hội, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp
cho bản t
hân.
■ Về kĩ năng
: Củng cố vững chắc các kĩ năng cơ bản đã được rèn luyện từ
Trung học cơ sở để trên cơ sở đó tiếp tục phát triển các năng lực chủ yếu như : năng
lực tự hoàn thiện, năng lực giao tiếp ứng xử, năng lực thích ứng, năng lực hoạt động
chính trị – xã hội, năng lực tổ chức quản l
ý, năng lực hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh; có lối sống phù hợp với các giá trị xã hội.
■ Về tư tưởng
: Bồi dưỡng nhân sinh quan, thế giới quan khoa học để từ đó có

thái độ đúng đắn trước những vấn đề của cuộc sống, biết chịu trách nhiệm về hành
vi của bản thân và đấu tranh tích cực với những biểu hiện sai trái của người khác,
biết cảm thụ và đánh giá cái đẹp trong cuộc sống.
Như vậy, việc đổi mới phương pháp tổ chức HĐGD NGLL nhằm thỏa mãn
ba mục tiêu trên, sao cho HS thực sự trở th
ành chủ thể tích cực, sáng tạo nhằm phát
huy, phát triển tiềm năng của các em.
1.4.2.2. Vai trò
Makarenco – nhà sư phạm nổi tiếng của nước Nga đầu thế kỷ XX đã nói:
“Tôi kiên trì nói rằng các phương pháp giáo dục không thể hạn chế trong các vấn đề
giảng dạy, lại càng không thể để cho quá trình giáo dục chỉ thực hiện trên lớp học
mà đáng ra phải là trên mỗi mét vuông của đất nước ta… Nghĩa là trong bất kì hoàn
cảnh nào cũng không được quan niệm rằng công tác giáo dục chỉ được tiến hành
trong lớp”. Ông đã nhấn mạnh: nhân cách HS được hình thành qua hai con đường
cơ bản là con đường dạy học trên lớp và c
on đường hoạt động NGLL.
Vai trò của HĐGD NGLL được thể hiện ở các khía cạnh sau:
 Là một HĐGD cơ bản được thực hiện một cách có mục đích, có kế hoạch, có
tổ chức, được tiến hành xen kẽ với chương trình dạy học và diễn ra trong suốt
năm học kể cả thời gian nghỉ hè để khép kín quá trình giáo dục, làm cho quá
trình đó có thể được thực hiện mọi nơi, mọi lúc.
 Là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, là con đư
ờng gắn lí thuyết với thực
tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức với hành động, góp phần hình
thành tình cảm, niềm tin đúng đắn ở HS.
 Góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển nhân cách cho các em.
 Là điều kiện tốt nhất để HS phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực, chủ động
Của các em trong quá trình học tập và rèn l
uyện.
 Vừa củng cố, bổ sung kiến thức đã học, vừa phát triển các kĩ năng cơ bản của

HS phù hợp với yêu cầu, mục tiêu của giáo dục và đòi hỏi của xã hội.
 Thu hút và phát huy tiềm năng của các lực lượng giáo dục, góp phần quan
trọng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
Mặt khác, hoạt động NGLL còn có ảnh hưởng tích cực đến kĩ năng tổ chức và
quản lý thời gian của HS. Các hoạt động này chiếm mất một số buổi trong t
hời khóa
biểu của HS, trong khi nhiệm vụ chính của họ vẫn là học tập. Để có thể tham gia
được các hoạt động mà họ yêu thích, HS phải biết sử dụng thời gian một cách hiệu
quả, lập kế hoạch cá nhân một cách hợp lý nhất để có thể hoàn thành đư
ợc mọi
nhiệm vụ (Rachel Hollrah, 2007) [15].
Với vai trò như vậy, HĐGD NGLL thực sự là một bộ phận hữu cơ của hệ
thống giáo dục ở trường THPT, cùng với hoạt động dạy và học trên lớp là một quá
trình gắn bó, thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo của cấp học.
1.4.3. Sự phân bố thời lượng và nội dung chương trình HĐGD NGLL
1.4.3.1. Thời lượng
– Theo “Kế hoạch giáo dục của trường THPT”: trong một tháng, bên cạnh
các môn học cụ thể còn có các hoạt động khác, trong đó có 4 tiết HĐGD NGLL và
2 tiết hoạt động tập thể”.
– Theo tài liệu bồi dưỡng thường xuyên của tác giả Từ Đức Văn [45]
thì
“HĐGD NGLL được qui định thực hiện vào tiết sinh hoạt dưới cờ đầu tuần, tiết
sinh hoạt lớp cuối tuần và 4 tiết hoạt động trong 1 tháng”.
1.4.3.2. Nội dung chương trình
HĐGD NGLL ở trường phổ thông tập trung vào 6 vấn đề lớn như sau:
– Lẽ sống của thanh niên trong giai đoạn CNH – HĐH đất nước.
– Tình bạn, tình yêu, hôn nhân và gia đình.
– Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
– Tr
uyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng, bảo vệ di sản văn hóa.

– Thanh niên với vấn đề lập thân, lập nghiệp.
– Những vấn đề có tính nhân loại như: bệnh tật, đói nghèo, dân số, môi
trường, giáo dục, phát triển, hòa bình, hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.
Nội dung của HĐGD NGLL được cấu trúc theo các chủ đề. Ở trường THPT,
mỗi tháng là một hoạt động. Tuy các chủ đề không gắn trực tiếp với các ngày lễ
nhưng vẫn m
ang tính kế thừa. Để phù hợp hoàn cảnh, điều kiện học tập, rèn luyện
của HS trong 9 tháng của năm học và 3 tháng hoạt động hè, nội dung HĐGD NGLL
được cụ thể hóa thành 10 chủ đề:
– Tháng 9: Thanh niên với học tập, rèn luyện vì sự nghiệp CNH–HĐH đất
nước.
– Tháng 10: Thanh niên với tình bạn, tình yêu và gia đình.
– Tháng 11: Thanh niên với truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo.
– Tháng 12: Thanh niên với sự nghiệp xâ
y dựng và bảo vệ Tổ quốc.
– Tháng 1: Thanh niên với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
– Tháng 2: Thanh niên với lý tưởng cách mạng.
– Tháng 3: Thanh niên với vấn đề lập nghiệp.
– Tháng 4: Thanh niên với hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
– Tháng 5: Thanh niên với Bác Hồ.
– Tháng 6, 7, 8: Mùa hè tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng.
1.4.4. Phương hướng đổi mới phương pháp tổ chức HĐGD NGLL ở trường
THPT
HĐGD NGLL có thể được coi như một trong các hình thức đánh giá HS theo
quan điểm phát triển toàn diện và càng có ý nghĩa hơn nếu các hoạt động này có tác
động trở lại, giúp HS có thêm
hứng thú, niềm vui trong học tập và rèn luyện đạo
đức. Vì vậy, HĐGD NGLL cần được nhà trường quan tâm đổi mới về hình thức,
nội dung và cách tổ chức thực hiện để HS tham gia với niềm ham mê, tự nguyện.
Đổi mới phương pháp tổ chức HĐGD NGLL ở trường THPT phải theo

phương hướng sau:
1. Trước hết, phải đa dạng hóa các hình thức HĐGD NGLL, khắc phục tính
chất đơn điệu, lặp đi lặp lại một vài hình thức đã quá que
n thuộc với HS và gây ra
nhàm chán, tẻ nhạt đối với các em.
Để thực hiện phương hướng này, cần gắn đổi mới hình thức hoạt động với đổi
mới phương pháp tổ chức hoạt động. Điều này thể hiện ở chỗ tăng cường tính chất
tương tác, tính chất sáng tạo của HS khi tham gia hoạt động. Tí
nh sáng tạo là công
cụ nhận thức thiết yếu giúp HS nâng cao hiểu biết của mình qua hoạt động. Đổi mới
phương pháp tổ chức HĐGD NGLL là phải khuyến khích tính sáng tạo của HS.
2. Đổi mới phương pháp tổ chức HĐGD NGLL cần định hướng vào việc phát
triển tính chủ động, tích cực, sáng tạo của HS, khả năng hoạt động độc lập, khả
năng tự đề xuất và giải q
uyết vấn đề trong hoạt động cũng như khả năng tự kiểm tra
đánh giá kết quả hoạt động của các em. Nói cách khác đó là phát huy khả năng tự
quản các HĐGD NGLL của HS. Đổi mới phương pháp tổ chức HĐGD NGLL phải
kiên quyết khắc phục tính chất áp đặt, bao biện làm thay HS.
3. Đổi mới đánh giá kết quả hoạt động. Khi đánh giá phải bám sát vào mục
tiêu, đối chiếu với mục tiêu để xem xét mức độ thực hiện hoạt động của HS. Bởi vì
đánh giá là dịp giúp HS tự nhìn nhận được những tiến bộ cũng như những tồn tại
cần khắc phục trong quá trình tham gia và điều khiển hoạt động.
Đánh giá trong hoạt động cần nhấn mạnh kĩ năng, hành vi và thái độ, coi đó
là những yêu cầu cơ bản cần đạt được sau hoạt động. Phải để HS tự đánh gi
á và
đánh giá, đó chính là phương pháp đã được đổi mới.
1.4.5. Một số phương pháp tổ chức HĐGD NGLL
1. Phương pháp thảo luận
 Là một dạng tương tác nhóm đặc biệt mà trong đó các thành viên đều giải
quyết một vấn đề cùng quan tâm nhằm đạt tới một sự hiểu biết chung.

 Tạo cơ hội cho HS kiểm chứng ý kiến của m
ình, có cơ hội làm quen với
nhau, để hiểu nhau hơn.
 Được sử dụng khi cần khuyến khích sự tham gia suy nghĩ và phát biểu tích
cực của mọi thành viên; khi vấn để đưa ra cần được bàn luận sâu sắc và kĩ lưỡng, sử
dụng nhiều kiến thức và kinh nghiệm để đánh giá, kết luận về một vấn đề, hay sáng
tạo ý tưởng mới.
2. Phương pháp sắm v
ai
 Là phương pháp thực hành của HS trong một số tình huống ứng xử cụ thể
nào đó trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ sáng tạo của các em.
 Thường không có kịch bản trước, mà HS tự xây dựng trong quá trình hoạt
động. Phương pháp này rất có tác dụng trong việc rèn luyện kĩ năng về giao tiếp,
ứng xử của HS; được sử dụng khi cần đạt mục tiêu thay đổi thái độ của HS đối với
một vấn đề hay đối tượng nào đó.
3. Phươn
g pháp giải quyết vấn đề
 Là con đường quan trọng để phát huy tính tích cực của HS.
 Được vận dụng khi HS phải phân tích, xem xét và đề xuất những giải pháp
trước một hiện tượng, sự việc nảy sinh trong quá trình hoạt động.
 Giúp HS có cách nhìn toàn diện hơn trước các hiện tượng, sự việc nảy sinh
trong hoạt động, trong cuộc sống hàng ngà
y.
Để phương pháp này thành công, vấn đề đưa ra phải sát với mục tiêu của hoạt
động, kích thích HS tích cực tìm tòi cách giải quyết. Đối với tập thể lớp, khi giải
quyết vấn đề phải coi trọng nguyên tắc tôn trọng và bình đẳng, tránh gây căng thẳng
không có lợi cho việc giáo dục HS.
4. Phương pháp xử lí tình huống
 Là phương pháp điển hình của phương pháp giải quyết vấn đề, phương
pháp sắm vai và cả phương pháp trò chơi.

 HS được đặt m
ình trong các tình huống có vấn đề gắn với thực tiễn, đòi hỏi
phải có những hành động cụ thể đưa ra phương án giải quyết. Do vậy, trong các
HĐGD NGLL, có thể có các tình huống thực tế nảy sinh cần được xử lí kịp thời
(như: HS thảo luận lạc đề, bí không trả lời được vấn đề đặt ra, vấn đề đặt ra không
phù hợp với thực tiễn…) hoặc có những có vấn đề được tạo ra (như tình huống tiểu
phẩm để sắm vai, các trò chơi…) nhằm
giúp HS có cơ hội rèn luyện các kĩ năng tìm
phương án giải quyết các tình huống.
 Làm phong phú thêm tính hấp dẫn của các hoạt động và mang lại hiệu quả
cao cho các hoạt động.
Tuy nhiên, GV cũng cần lưu ý rằng: trong việc giải quyết các tình huống thực
tiễn, không phải bao giờ cũng có giải phá
p duy nhất đúng. Cần phải khuyến khích
sự sáng tạo của HS trong những trường hợp này.
5. Phương pháp giao nhiệm vụ
 Được dùng trong nhóm các phương pháp giáo dục.
 Giao nhiệm vụ là đặt HS vào vị trí nhất định buộc các em phải thực hiện
trách nhiệm cá nhân. Giao nhiệm vụ cũng là tạo cơ hội để HS thể hiện khả năng của
mình, là dịp để các em được rèn luyện kĩ năng nhằm tích lũy thêm kinh nghiệm ch
o
bản thân.
 Trong việc tổ chức HĐGD NGLL, giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ lớp sẽ
tạo nên thế chủ động cho các em khi điều hành hoạt động. Điều đó sẽ giúp phát
triển tính chủ động, sáng tạo, khả năng ứng đáp trong mọi tình huống của HS. Cán
bộ lớp sẽ chủ động hơn trong việc phâ
n công nhiệm vụ cho từng tổ, nhóm, cá nhân
với phương châm “lôi cuốn tất cả mọi thành viên trong lớp” vào việc tổ chức thực
hiện hoạt động.
Vì thế, muốn giao nhiệm vụ có kết quả, GV cần cố gắng đảm bảo nhiệm vụ

đó phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, với khả năng của các em.
6. Phương pháp trò chơi
 Có thể sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau của HĐGD NGLL như
làm
quen, cung cấp và tiếp nhận tri thức, đánh giá kết quả, rèn luyện các kĩ năng và
củng cố những tri thức đã được tiếp nhận.
 Phương pháp trò chơi có những thuận lợi như: phát huy tính sáng tạo; hấp
dẫn và gây hứng thú cho HS; giúp cho HS dễ tiếp thu kiến thức mới; giúp chuyển
tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; tạo được bầu không khí thân thiện;
tạo cho HS tác phong nhanh nhẹn…
Vì vậy, tổ chức cho
HS vui chơi là một loại hình HĐGD NGLL được vận
dụng phổ biến và có ý nghĩa tích cực.
1.4.6. Các bước thiết kế HĐGD NGLL
Bước 1: Đặt tên
Trước hết GV phải xác định tên gọi của hoạt động cần tổ chức, vì :
− Tên gọi của hoạt động là cơ sở để xây dựng nội dung và lựa chọn hình
thức thực hiện.
− Tên gọi có tác dụng định hướng về mặt tâm lí và kích thích được tích cực,
tính sẵn sàng của HS ngay từ đầu.

Yêu cầu của tên gọi:
+ Nêu rõ chủ đề, nội dung của hoạt động
+ Ngắn gọn, rõ ràng, chính xác
+ Tạo ấn tượng, gây sự hấp dẫn đối với HS
Bước 2: Xác định mục tiêu của hoạt động
Sau khi lựa chọn tên HĐGD NGLL, cần xác định rõ mục tiêu hoặc yêu cầu
giáo dục của HĐGD NGLL
để chỉ đạo triển khai, định hướng hoạt động. Cần chú ý
vào ba yêu cầu giáo dục sau :

a) Về nhận thức: HĐGD NGLL nhằm cung cấp cho HS những hiểu biết,
những thông tin gì?
b) Về kĩ năng: qua HĐGD NGLL thực tế, cần bồi dưỡng hình thành cho HS
những kĩ năng gì?
c) Về thái độ: qua đó giáo dục cho HS về mặt tình cảm, thái độ gì?
Bước 3: Xây dựng kế hoạch hoạt động
GV phải vạch ra được tất cả các yếu tố, điều kiện cần chuẩn bị trước khi hoạt
động, những công việc và phương t
hức thực hiện công việc, và ai là người đảm
nhận công việc đó. Cụ thể là :
a) Xác định rõ và liệt kê những nội dung công việc dự định sẽ thực hiện theo
một trình tự nhất định.
b) Dự kiến một hệ thống các biện pháp để tiến hành HĐGD NGLL. Các biện
pháp này không bất biến mà có thể thay đổi trong quá trình thực hiện, vì vậy
cần có một số biện phá
p dự trữ.
c) Người thực hiện : dự kiến và phân công nhiệm vụ cho từng người.
− GV: giữ vai trò chủ đạo, quan tâm, đôn đốc, động viên, hỗ trợ HS và
liên kết các lực lượng giáo dục khác.
− HS: chủ động, tích cực tham gia chuẩn bị.
– Các lực lượng giáo dục khác: quan tâm hỗ trợ và tạo điều kiện.
Bước 4: Xác định nội dung và hình thức của h
oạt động
Các căn cứ để xác định nội dung và hình thức của hoạt động: chủ đề của hoạt
động, mục tiêu của hoạt động, điều kiện của hoạt động (về CSVC của trường, lớp,
năng lực HS, các lực lượng hỗ trợ…), thời điểm diễn ra hoạt động.
Bước 5: Chuẩn bị hoạt động
 Giáo viê
n: giữ vai trò cố vấn nên khi dự kiến kế hoạch tổ chức hoạt động cần chủ
động, cụ thể và sáng tạo.

– Dự kiến được nội dung công việc, tiến trình hoạt động, điều kiện phương
tiện cũng như các lực lượng hỗ trợ cho hoạt động.
– Thông báo nội dung, yêu cầu, thời gian hoạt động và những dự kiến cho HS.

×