ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ HƯƠNG
TƯ TƯỞNG THÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ
TƯ TƯỞNG VIỆT NAM ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ
XX
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
T R ƯỜNG ĐẠI H ỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂ N
T R Ầ N T H Ị H Ư Ơ N G
TƯ TƯỞNG THÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ
TƯ TƯỞNG VIỆT NAM ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ
XX
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THỊ LAN
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 7
CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC CỦA TƯ TƯỞNG THÂN DÂN Ở VIỆT
NAM 7
1.1. Quan niệm về dân trong triết học Trung Hoa cổ đại 7
1.1.1. Khái niệm dân và tư tưởng “thân dân” 7
1.1.2. Quan niệm về dân trong học thuyết “kiêm ái” của Mặc Tử 10
1.1.3. Quan niệm về dân trong học thuyết “pháp trị” của Hàn Phi Tử 12
1.2. Quan niệm về dân của Nho gia tiên Tần 14
1.2.1. Thái độ khác nhau về dân trong Nho gia tiên Tần 14
1.2.2. Nhận thức của Nho gia tiên Tần về vai trò của dân 18
1.2.3. Những nội dung “thân dân” của Nho gia tiên Tần 22
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ TƯ TƯỞNG NỔI BẬT VỀ THÂN DÂN TRONG
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM (QUA MỘT SỐ ĐẠI BIỂU TIÊU
BIỂU) 36
2.1. Tư tưởng lấy dân làm gốc của Trần Quốc Tuấn 36
2.2. Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi 39
2.2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi 39
2.2.2. Nội dung tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi 43
2.3. Tư tưởng dân chủ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh 52
2.4. Ý nghĩa của tư tưởng thân dân đối với việc xây dựng quan điểm
“lấy dân làm gốc” của Đảng ta hiện nay 62
2.4.1. Quan điểm “Lấy dân làm gốc” của Đảng 62
2.4.2. Sự kế thừa và phát triển những hạt nhân hợp lý trong truyền thống
tư tưởng thân dân của Đảng ta hiện nay 71
2.4.3. Vận dụng quan điểm “Lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp đổi mới
đất nước hiện nay 75
PHẦN KẾT LUẬN 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
3
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Đánh giá về vai trò của dân và giải quyết mối quan hệ giữa những người cầm
quyền với dân là một vấn đề luôn luôn được đặt ra và thể hiện những quan điểm rất
khác nhau ở các chế độ, các thời đại.
Truyền thống “thân dân”, “lấy dân làm gốc” là một tư tưởng tiến bộ đã có từ
hơn 2500 năm trước đây trong tư tưởng Nho giáo. “Lấy dân làm gốc” cũng là một bài
học chính trị và lời dặn dò quí báu của ông cha ta thể hiện ở các triều đại tiến bộ trong
lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc, được biểu hiện trong tư
tưởng và hành động của nhiều vị vua anh minh thời Lý, Trần, Lê, của nhiều nhà tư
tưởng như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
v.v….Đến chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm nhân dân là người chủ đất nước của
Người là tiếp thu từ truyền thống dân tộc và từ tư tưởng dân chủ tư sản Pháp từ rất
sớm. Có thể nói rằng tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” là tư tưởng thể hiện những giá
trị triết học và nhân văn sâu sắc và nhất quán trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp hoạt
động cách mạng của Người. Quan điểm đó còn biểu hiện sự thấm nhuần quan điểm
triết học Mác – Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân lao động,
biểu hiện ở quan điểm nhân văn cao cả của Bác, luôn chăm lo xây dựng, bồi dưỡng
giáo dục và phát triển nhân tố con người. Đó chính là sự kế thừa và phát triển những
giá trị tư tưởng Triết học phương Đông, Việt Nam và thế giới trong thời đại mới.
Tư tưởng “Lấy dân làm gốc” không chỉ đã trở thành nội dung, mục tiêu chủ yếu
mà còn là cơ sở, là căn cứ để hình thành và triển khai đường lối cai trị, quản lý xã hội
của các triều đại phong kiến Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng và
phát triển đất nước. Ngày nay, việc phát huy tinh thần “Lấy dân làm gốc” đã trở thành
bài học quý giá cho Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện
những mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội, xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Đảng ta ngay từ khi mới thành lập, xuất phát từ lợi ích của dân đã gắn bó chặt
chẽ với dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã thật sự được
nhân dân yêu mến, tin cậy và ủng hộ.
4
Sự nghiệp đổi mới xã hội hiện nay của chúng ta do Đảng cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, là công việc to lớn, lâu dài, không ít khó khăn gian khổ, nhằm xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp ấy đòi hỏi hơn bao giờ hết, phải phát huy cao
nhất sự sáng tạo cách mạng của quần chúng nhân dân lao động. Chân lý “lấy dân làm
gốc” tưởng như đơn giản, nhưng trên thực tế tổ chức thực tiễn cách mạng vẫn chưa
phát huy được hết sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân lao động. Do đó, việc
quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Đảng vừa là mục đích, vừa là động lực để
chúng ta nhanh chóng đạt tới thắng lợi các mục tiêu đổi mới xã hội. Từ việc thấm
nhuần tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Bác Hồ, của Đảng cộng sản Việt Nam mà
chúng ta có những giải pháp hiện thực hóa nó bằng thực tiễn cách mạng.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Tư tưởng thân dân trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam đến thế kỷ XX” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ Triết
học của mình.
II. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu tư tưởng về dân nói chung và tư tưởng thân dân nói riêng là một
vấn đề lớn, đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Liên quan đến đề tài luận văn,
có thể khái quát một số công trình tiêu biểu như:
1. Tác phẩm Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc (do các giáo sư Ngô Vĩnh
Chính, Vương Miện Quý chủ biên – NXB Văn hóa Thông tin, 1994).
2. Trần Trọng Kim trong tác phẩm Nho giáo (NXB Tp.Hồ Chí Minh, 1992),
3. Trong cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, (Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1993) do Nguyễn Tài Thư chủ biên
4. Cuốn Học thuyết chính trị – xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở
Việt Nam (từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIX) của tác giả Nguyễn Thanh Bình, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
5. Trong các văn kiện của Đảng ta, nhiều bài nói và viết của các đồng chí lãnh
đạo Đảng, nhà nước và các đoàn thể nhân dân nói về vai trò của dân, về mối quan hệ
giữa Đảng và dân, và về bài học “lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp cách mạng và
trong công cuộc đổi mới ngày nay
Có thể thấy đề tài luận văn là một miền đất “quen mà lạ”. “Quen” bởi có đã
có những người đi qua để lại những lời bình luận, đánh giá bổ ích. “Lạ” vì chưa có
5
ai đặt vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng thân dân và sự kế thừa truyền
thống này của Đảng ta.
III. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Làm rõ sự phát triển của tư tưởng thân dân trong lịch
sử tư tưởng Việt Nam đến đầu thế kỷ XX và sự kế thừa quan điểm “lấy dân làm gốc”
của Đảng ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn:
– Phân tích nguồn gốc và nội dung của tư tưởng thân dân trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam.
– Làm rõ sự kế thừa, tư tưởng thân dân, “lấy dân làm gốc” của Đảng hiện nay.
IV. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận: Quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
của chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của
quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp lịch sử – logic, phân tích,
so sánh, tổng hợp
V. Cái mới của luận văn
– Khái quát và hệ thống hóa những tư tưởng chủ yếu về dân, vai trò của dân,
quan điểm thân dân trong lịch sử tư tưởng dân tộc.
– Nêu bật ý nghĩa sự kế thừa, phát triển tư tưởng thân dân trong lịch sử dân tộc
trong việc xây dựng quan điểm “lấy dân làm gốc” của Đảng Cộng sản Việt Nam.
VI. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những phân tích, luận giải của luận văn nhằm sáng tỏ những giá trị của tư
tưởng thân dân trong lịch sử dựng nước và ý nghĩa của nó đối với việc xác lập quan
điểm “lấy dân làm gốc” của Đảng và chính phủ nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò của
quần chúng nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và giảng
dạy bộ môn: Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn giúp cho đội
ngũ cán bộ đảng viên, các cấp ủy Đảng và chính quyền thấm nhuần hơn nữa quan
điểm “lấy dân làm gốc” của Đảng và phát huy mạnh mẽ vai trò tích cực của quần
chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
6
VII. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm có 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Nguồn gốc của tư tưởng thân dân ở Việt Nam, với 2 tiết
Chương 2: Một số tư tưởng nổi bật về thân dân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam (qua
một số đại biểu tiêu biểu), với 4 tiết.
7
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC CỦA TƯ TƯỞNG THÂN DÂN Ở VIỆT NAM
Những quan điểm tiến bộ về dân trong tư tưởng cổ đại Trung Hoa có ảnh hưởng
rất lớn tới xã hội Việt Nam
1.1. Quan niệm về dân trong triết học Trung Hoa cổ đại
1.1.1. Khái niệm dân và tư tưởng “thân dân”
1.1.2. Quan niệm về dân trong học thuyết “kiêm ái” của Mặc Tử
Đứng về phía đông đảo người dân lao động, đại diện cho lợi ích của nhân dân
lao động, Mặc Tử chủ trương một chính quyền có hiệu lực và tập trung, nhưng lại
phản đối sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội. Mặc Tử lên án “Vương công đại
nhân” “bóc lột, sống dựa vào sức của “nông phu chức phụ” (dân lao động). Ông đòi
hỏi người cầm quyền “làm điều lợi, bỏ điều hại” cho dân, phải chọn người hiền tài để
làm và làm việc hình chính thực sự. Đồng thời ông phản đối việc dùng người dựa vào
họ hàng, dựa vào đẳng cấp. Quan điểm đối lập hẳn với quan điểm của Nho giáo. Chủ
thuyết “kiêm ái” đã mang trong mình những giá trị nhân bản sâu sắc, mang hoài
vọng của đông đảo nhân dân tầng lớp dưới của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Tuy
nhiên, xét trong toàn cục lịch sử tư tưởng Trung Quốc thì vị thế Mặc học quá ư mờ
nhạt là một thực tế. Nguyên do rất đơn giản, đó là lý tưởng “kiêm ái” thiếu thuyết
phục, mang tính phi giai cấp, không thiết thực. Đó có lẽ là nguyên nhân chính khiến
cho Mặc học sớm bị lu mờ và đi vào quên lãng.
1.1.3. Quan niệm về dân trong học thuyết “pháp trị” của Hàn Phi Tử
Vượt lên hình ảnh con người thần bí, đức độ với những tấm gương hoàn hảo
của Nho gia, Hàn Phi đã động chạm tới điểm mấu chốt nhất của giá trị Người trên
cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực. Có lẽ vì thế mà Pháp gia thường được đề cập
tới như một thứ công cụ để trị người hơn là dạy người và dùng người. Dân là những
con người có tính “tự vị” (ích kỷ, vì mình), ham sống, ham giàu, ham sang, thích
thưởng, sợ phạt. Theo Hàn Phi, bản chất hám lợi và sợ hại ấy của con người là cái
không thể che giấu, sửa đổi, nhưng nếu biết sử dụng nó sao cho hợp lý trong các
mối quan hệ giữa người với người thì nó sẽ đem lại hiệu quả nhất định.
8
Nhà vua phải thông qua hệ thống pháp luật, dựa vào thế và thuật của mình để
vận hành bộ máy quan lại và cai trị nhân dân. Nói cách khác, nội dung phương pháp
giáo hoá đạo làm người cho dân theo tư tưởng của Hàn Phi tập trung vào ba phạm trù
căn bản: pháp, thế, thuật.
Có thể nói, Hàn Phi đã ghi dấu ấn của mình vào lịch sử tư tưởng Trung Quốc
nói riêng và lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung với một học thuyết dám nhìn thẳng
vào sự thật và khẳng định những giá trị lợi ích căn bản là động cơ cho mọi hành động
của con người, bóc trần mọi quan hệ giả tạo giữa người với người, phê phán chế độ
quân chủ từ bên trong. Bên cạnh đó, cũng có thể thấy rằng, quan điểm của Hàn Phi về
con người còn nhiều hạn chế, nhất là việc ông chỉ thấy khía cạnh vụ lợi của con người
mà không thấy con người còn có rất nhiều lý tưởng cao đẹp để phấn đấu và hy sinh.
Đồng thời, ở một khía cạnh nhất định, mục tiêu xây dựng lý luận của ông là nhằm tạo
ra một công cụ phục vụ cho nhà vua củng cố địa vị và quyền lực độc tôn của mình.
Cho nên, con người (người dân) trong học thuyết của ông luôn ở địa vị thấp hèn và
bị phụ thuộc. Sự bình đẳng của con người trước pháp luật là sự bình đẳng về thân
phận người nô lệ dưới ngai vàng của nhà vua.
1.2. Quan niệm về dân của Nho gia tiên Tần
1.2.1. Thái độ khác nhau về Dân trong Nho gia tiên Tần
Trong Nho gia Tiên Tần luôn song song tồn tại hai thái độ đối lập về dân, vừa
khinh dân, ức dân, lại vừa thân dân, coi dân là đối tượng cần được quan tâm, dạy dỗ.
Điều đó xuất phát từ nhận thức của họ về địa vị thấp kém và vai trò quan trọng của dân
trong xã hội.
*Tư tưởng “khinh dân”, “ức dân”
Trong các cuốn sách được xem là kinh điển chủ yếu của Nho giáo tiên Tần như
sách Luận ngữ, sách Mạnh Tử, sách Tuân Tử, thì dân được đặt trong mối quan hệ đối
lập với tầng lớp khác – tầng lớp trị dân (vua và quan). Cơ sở và căn cứ chủ yếu để các
nhà Nho tiên Tần phân biệt và chỉ ra sự khác nhau giữa hai tầng lớp này là do sự khác
nhau chủ yếu về đạo đức và tài trí, về địa vị và về vai trò xã hội của các tầng lớp này.
Chính quan hệ đối lập này khiến các nhà Nho tiên Tần còn có một số quan điểm hạn
chế về dân. Đó là các nhà Nho còn có tư tưởng “khinh dân”, “ức dân”, coi những
người lao động chân tay chiếm số đông trong dân cư là hạng tiểu nhân, hèn kém, ngu
dốt, chỉ để sai khiến.
9
* Quan niệm dân là thần dân, cần được chăm lo, dạy dỗ
Trong quan niệm của các nhà Nho tiên Tần, phạm trù dân còn dùng để chỉ bề
tôi tức thần dân trăm họ trong thiên hạ đối lập với nhà vua. Theo ý nghĩa này, dân bao
gồm cả thần và dân, quan và dân, là trăm họ, là cả thiên hạ đối lập với vua, và chỉ có
vua là không thuộc phạm trù dân. Tuy nhiên, phạm trù dân không phải lúc nào cũng
được nhận thức như vậy. Dân với ý nghĩa là thần dân trăm họ được thể hiện và xuất
hiện trong quan niệm của Nho giáo tiên Tần là chỉ trong những hoàn cảnh, điều kiện,
nhất định cụ thể.
1.2.2. Nhận thức về vai trò của dân của Nho gia tiên Tần
Vai trò của dân trong quan hệ với nước, với vua, đã được một số Nho gia tiên
Tần nhận thức và nêu cao trong tư tưởng chính trị phương Đông cách đây hơn 2500
năm với những nội dung chủ yếu sau:
– Thứ nhất: Dân là một lực lượng đông đảo, to lớn trong xã hội, là lực lượng
tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại của xã hội.
– Thứ hai, Dân là gốc của nước, là nền tảng, là cơ sở của xã hội, của nền
chính trị
Chính nhận thức và chỉ ra vai trò của dân to lớn như vậy mà các nhà Nho
tiên Tần đều đã chủ trương và đòi hỏi nhà vua phải giữ được dân, phải được dân
tin. Và theo nhà Nho, có như vậy, nhà vua mới giữ được thiên hạ và giữ được
ngôi vị của mình, triều đại và chế độ chính trị mới tồn tại và phát triển.
1.2.3. Những nội dung “thân dân” của Nho gia tiên Tần
Theo các nhà Nho tiên Tần, thân dân đi liền với việc “Dưỡng dân” và
“Giáo dân”.
Tiểu kết chương 1
Ngoài hạn chế do hoàn cảnh lịch sử mang lại, thì những tư tưởng về dân của
các nhà Nho tiên Tần có ý nghĩa thật lớn lao. Nho giáo là một học thuyết từ rất sớm đã
nhận thấy vai trò của dân như một lực lượng sản xuất to lớn và có ảnh hưởng nhất định
đối với sự thịnh – suy, hưng – vong của một chế độ xã hội. Từ việc nhận thức được vai
trò và sức mạnh của dân, cho nên các nhà Nho tiên Tần luôn đòi hỏi, yêu cầu nhà vua,
người cầm quyền phải thật sự coi dân là gốc của nước, là “cha mẹ của dân”, do vậy
phải bằng chính sách và hành động thiết thực quan tâm và chăm lo đời sống vật chất
10
của dân, phải bảo vệ dân, giáo dục, giáo hóa dân bằng đạo đức, bằng những tấm gương
đạo đức của mình và bằng việc thi hành đường lối Đức trị (Nhân trị, Nhân nghĩa) đối
với dân. Đồng thời các nhà Nho cũng yêu cầu nhà vua, người cầm quyền phải luôn tu
dưỡng đạo đức, đối xử đạo đức với dân, thi hành các biện pháp mang nội dung đạo
đức, phải coi nhiệm vụ dưỡng dân và giáo dân là nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu. Đó là tư
tưởng xuất phát từ dân, lấy dân làm gốc.
Những quan điểm tiến bộ về dân trong tư tưởng cổ đại Trung Hoa có ảnh hưởng
rất lớn tới xã hội Việt Nam từ hàng ngàn năm nay mà các vị vua và những anh hùng
yêu nước như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, hay gần hơn nữa là Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh đã sớm nhận thức được. Và Hồ chí Minh, vị lãnh tụ của dân tộc
Việt Nam là người am hiểu sâu sắc, kế thừa có chọn lọc và vận dụng rất sáng tạo trong
cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài đầy gian khổ, hy sinh vì dân vì nước của Người.
Mặc dù hầu hết các nhà Nho đều coi dân là gốc, dân là quý nhưng tư tưởng này
cũng chỉ hình thành trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Cho nên về thực
chất, dân là gốc, là quý trong Nho giáo chỉ là phương tiện để giai cấp thống trị đạt
được mục đích chính trị, chứ dân không phỉa là mục đích của nền chính trị. Cũng vì
vậy, dân trong tư tưởng của Nho giáo mới chỉ dừng lại ở dân quý chứ chưa đạt tới dân
quyền, chưa vươn tới chủ nghĩa nhân đạo được.
11
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ TƯ TƯỞNG NỔI BẬT VỀ THÂN DÂN TRONG LỊCH
SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM (QUA MỘT SỐ ĐẠI BIỂU TIÊU BIỂU)
Nhận thức về vai trò, sức mạnh của dân chúng đối với sự tồn vong, phát triển
của mỗi quốc gia, dân tộc và định ra những đường lối chính trị, chính sách xã hội
tiến bộ theo hướng thân dân là một quá trình lâu dài trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam. Quá trình này đi từ sự kế thừa các nhân tố dân chủ mầm mống trong xã hội
cổ đại, tới sự tiếp thu ảnh hưởng tư tưởng thân dân trong Nho giáo tới sự nhận thức
và tầm cao lý luận làm nên một truyền thống lý luận chính trị tiến bộ trong lịch sử
tư tưởng dân tộc. Điển hình của truyền thống đó là các nhà tư tưởng: Trần Quốc
Tuấn, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh (linh hồn
của Đảng cộng sản Việt Nam).
2.1. Tư tưởng lấy dân làm gốc của Trần Quốc Tuấn
Trần Quốc Tuấn cho rằng: việc khoan thư sức dân, tranh thủ sự đồng lòng của
dân là kế sâu rễ bền gốc, phương châm chiến lược lâu dài để phát triển quốc gia độc
lập. Ông coi trọng sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân để đánh giặc giữ nước, đây
là một tư tưởng hết sức tiến bộ mà ở thời đại đó rất ít người có thể nhận ra vì các
triều đại phong kiến xưa kia chỉ coi dân là “thảo dân” mà thôi.
2.2. Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi
Tới Nguyễn Trãi, tư tưởng thân dân phát triển hơn và đạt tới đỉnh cao. Là một
nhà Nho ông hiểu rõ tư tưởng của Mạnh Tử: Dân vi bản, quân vi khinh, xã tắc thứ chi.
Khi đất nước bị xâm lược ông chỉ đau đáu một điều làm sao để cứu dân cứu nước,
bình ngô sách của ông được xây dựng trên cơ sở của tư tưởng thân dân, theo ông
cứu nước phải cứu dân, việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Khi đất nước được thái
bình thịnh trị thì mọi việc ông làm nhằm mục đích đền ơn dân, làm cho dân giàu,
nước mạnh. Đây là tư tưởng tiến bộ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Nó phản ánh
sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam khi lợi ích của giai cấp thống nhất trị
còn gắn với lợi ích quốc gia dân tộc và không đối kháng gay gắt với lợi ích của dân
chúng. Tuy nhiên tư tưởng này vẫn bị hạn chế bởi thế giới quan của giai cấp địa
chủ phong kiến, người dân lao động chưa được nhìn nhận đánh giá đầy đủ, họ chỉ
được coi là thứ dân, dân đen, là bậc tiểu nhân.
12
2.3. Tư tưởng dân chủ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh
Đến đầu thế kỷ XX, các nhà Nho duy tân đã kế thừa những quan điểm về dân
của các bậc tiền bối trong lịch sử và phát triển tư tưởng về dân lên một bước mới. Đó
là một bước ngoặt phát triển thật sự của tư tưởng chính trị. Nhận thức được vai trò của
quần chúng nhân dân, các nhà Nho yêu nước thời kỳ này đã chú trọng đến vai trò của
văn hoá tư tưởng, đến công cuộc đổi mới tư duy cho nhân dân, xây dựng con người
mới. Tiêu biểu cho quan niệm tiến bộ về dân trong giai đoạn này là hai nhà chí sĩ Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh.
+ Phan Bội Châu đề cao vai trò làm chủ đất nước của nhân dân. Và để nhân dân
phát huy được quyền làm chủ của mình, nắm giữ được vận mệnh của đất nước thì theo
ông phải dựng con người, xây dựng tư tưởng mới cho nhân dân. Biện pháp hiệu quả
theo Phan Bội Châu là “tự tân”. Quan niệm về dân đồng nhất với quốc dân thể hiện sự
chuyển biến tích cực mới mẻ trong tư tưởng của Phan Bội Châu, từ quân chủ sang dân
chủ, từ quân quyền sang dân quyền, từ tôn quân sang tôn dân. Đây chính là bước
chuyển trung gian từ quan niệm “thần dân” sang quan niệm “nhân dân” sau này.
+ Phan Châu Trinh cũng với tư tưởng đề cao vai trò của quần chúng nhân dân,
để có thể giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc, nhưng đối lập với biện pháp “tự
tân” của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cho rằng để chấn hưng dân tộc phải dựa
trên những thành tựu văn minh của Pháp để tranh thủ thực hiện canh tân. Đặc biệt là
để đất nước ta trở thành một nước tiến bộ thì phải dựa vào sức mạnh của nhân dân. Tư
tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là một sự tiếp nối hợp qui luật những tư tưởng
canh tân đất nước của các nhà cải cách trước đó. Ông đã đi từ chủ nghĩa yêu nước cũ
trong xã hội phong kiến, đến chủ nghĩa yêu nước mới dưới ngọn cờ dân chủ tư sản
phương Tây qua tân văn, tân thư. Đánh dấu bước chuyển trong tư tưởng phong kiến
sang tư tưởng dân chủ tư sản.
2.4. Ý nghĩa của tư tưởng thân dân đối với việc xây dựng quan điểm “lấy dân
làm gốc” của Đảng ta hiện nay
2.4.1. Quan điểm “Lấy dân làm gốc” của Đảng
2.4.1.1. Quan điểm duy vật lịch sử của Triết học Mác – Lênin về vai trò của quần
chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ trong lịch sử
13
2.4.1.2. Tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của chủ tịch Hồ Chí Minh
Lãnh hội được những tinh hoa tư tưởng dân tộc và nhân loại, ngay từ buổi đầu
cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân.
Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn luôn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết. Người bênh vực cho quyền lợi của nhân dân lao động. Cơ sở tư
tưởng của Người là chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết về cách mạng, xóa bỏ áp bức
giai cấp, đưa người dân từ địa vị nô lệ, bị áp bức bóc lột thành chủ nhân của xã hội
mới, là công dân Xã hội chủ nghĩa, một xã hội được xây dựng trên cơ sở bình đẳng
giữa người với người và mục tiêu lý tưởng của xã hội đó là mang lại cuộc sống ấm no
hạnh phúc cho tất cả mọi người.
2.4.2. Sự kế thừa và phát triển những hạt nhân hợp lý trong truyền thống tư
tưởng thân dân của Đảng ta hiện nay
2.4.2.1. Từ quan niệm thần dân truyền thống tới quan niệm công dân hiện đại
2.4.2.2. Từ chính sách ban ơn huệ cho dân, khoan thư sức dân truyền thống tới
chính sách thực hiện dân chủ, phát huy sức mạnh nội lực của người công dân
hiện đại
2.4.3. Vận dụng quan điểm “Lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp đổi mới đất
nước hiện nay
2.4.3.1. Quan điểm “lấy dân làm gốc” được quán triệt qua các kỳ Đại hội Đảng
2.4.3.2. Phát huy mạnh mẽ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đổi
mới xã hội hiện nay
Tiểu kết chương 2:
Tư tưởng “Thân dân” đã được hình thành từ rất sớm trong lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam, tiêu biểu nhất là tư tưởng của Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi -
những bậc danh nhân đại tài của dân tộc. Trần Quốc Tuấn cho rằng việc khoan thư
sức dân, tranh thủ sự đồng lòng của dân là kế sâu rễ bền gốc, phương châm chiến
lược lâu dài để phát triển quốc gia độc lập. Ông coi trọng sức mạnh của nhân dân,
dựa vào dân để đánh giặc giữ nước, đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ mà ở thời
đại đó rất ít người có thể nhận ra vì các triều đại phong kiến xưa kia chỉ coi dân là
“thảo dân” mà thôi. Tới Nguyễn Trãi, tư tưởng thân dân của ông đã đạt tới đỉnh cao
phát triển tư tưởng thân dân trong thời phong kiến Việt Nam. Là một nhà Nho ông
14
hiểu rõ tư tưởng của Mạnh Tử về vai trò của dân trong một triều đại: Dân vi bản,
quân vi khinh, xã tắc thứ chi. Khi đất nước bị xâm lược ông chỉ đau đáu một điều
làm sao để cứu dân cứu nước, bình ngô sách của ông được xây dựng trên cơ sở của
tư tưởng thân dân, theo ông cứu nước phải cứu dân, việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Khi đất nước được thái bình thịnh trị thì mọi việc ông làm nhằm mục đích đền ơn
dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Đây là tư tưởng tiến bộ mang ý nghĩa nhân văn
sâu sắc. Nó phản ánh sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam khi lợi ích của
giai cấp thống nhất trị còn gắn với lợi ích quốc gia dân tộc và không đối kháng gay
gắt với lợi ích của dân chúng. Tuy nhiên tư tưởng này vẫn bị hạn chế bởi thế giới
quan của giai cấp địa chủ phong kiến, người dân lao động chưa được nhìn nhận
đánh giá đầy đủ, họ chỉ được coi là thứ dân, dân đen, là bậc tiểu nhân.
Đến đầu thế kỷ XX, các nhà Nho duy tân đã kế thừa những quan điểm về dân
của các bậc tiền bối trong lịch sử và phát triển tư tưởng về dân lên một bước mới trong
bối cảnh lịch sử mới. Đó là một bước ngoặt phát triển của tư tưởng chính trị so với giai
đoạn phong kiến. Nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân, các nhà Nho yêu
nước thời kỳ này đã chú trọng đến vai trò của văn hoá tư tưởng, đến công cuộc đổi
mới tư duy cho nhân dân, xây dựng con người mới. Tiêu biểu cho quan niệm tiến bộ
về dân trong giai đoạn này là hai nhà chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh.
Phan Bội Châu đề cao vai trò làm chủ đất nước của nhân dân. Và để nhân dân
phát huy được quyền làm chủ của mình, nắm giữ được vận mệnh của đất nước thì theo
ông phải dựng con người, xây dựng tư tưởng mới cho nhân dân. Biện pháp hiệu quả
theo Phan Bội Châu là “tự tân”. Quan niệm về dân đồng nhất với quốc dân thể hiện sự
chuyển biến tích cực mới mẻ trong tư tưởng của Phan Bội Châu, từ quân chủ sang dân
chủ, từ quân quyền sang dân quyền, từ tôn quân sang tôn dân. Đây chính là bước
chuyển trung gian từ quan niệm “thần dân” sang quan niệm “nhân dân” sau này.
Phan Châu Trinh cũng với tư tưởng đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, để
có thể giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc, nhưng đối lập với biện pháp “tự tân”
của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cho rằng để chấn hưng dân tộc phải dựa trên
những thành tựu văn minh của Pháp để tranh thủ thực hiện canh tân. Đặc biệt là để đất
nước ta trở thành một nước tiến bộ thì phải dựa vào sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng
dân chủ của Phan Châu Trinh là một sự tiếp nối hợp qui luật những tư tưởng canh tân
15
đất nước của các nhà cải cách trước đó. Ông đã đi từ chủ nghĩa yêu nước cũ trong xã
hội phong kiến, đến chủ nghĩa yêu nước mới dưới ngọn cờ dân chủ tư sản phương Tây
qua tân văn, tân thư. Đánh dấu bước chuyển trong tư tưởng phong kiến sang tư tưởng
dân chủ tư sản.
Lĩnh hội những tinh hoa tư tưởng dân tộc và nhân loại, ngay từ buổi đầu cách
mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân.
Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn luôn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết. Người bênh vực cho quyền lợi của nhân dân lao động. Cơ sở tư
tưởng của Người là chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết về cách mạng, xóa bỏ áp bức
giai cấp, đưa người dân từ địa vị nô lệ, bị áp bức bóc lột thành chủ nhân của xã hội
mới, là công dân Xã hội chủ nghĩa, một xã hội được xây dựng trên cơ sở bình đẳng
giữa người với người và mục tiêu lý tưởng của xã hội đó là mang lại cuộc sống ấm no
hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục tinh thần lấy dân làm gốc trong tư tưởng Hồ
Chí Minh đã luôn quán triệt tinh thần đó trong các văn kiện Đại hội Đảng và trong
thực tiễn lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc. “Lấy dân làm gốc” chính là
chìa khoá thành công của cách mạng Việt Nam.
16
PHẦN KẾT LUẬN
Lịch sử đã chỉ rõ những cuộc chiến tranh yêu nước thắng lợi đều là những cuộc
chiến tranh nhân dân, phát huy được sức mạnh tinh thần và vật chất tiềm tàng của toàn
dân. Chúng ta càng thấy sâu sắc hơn chân lý ấy trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu tư
tưởng thân dân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam đến đầu thế kỷ XX. Có thể thấy, việc
nhận thức về vai trò, sức mạnh của dân chúng đối với sự tồn vong, phát triển của mỗi
quốc gia, dân tộc và định ra những đường lối chính trị, chính sách xã hội tiến bộ theo
hướng thân dân là một quá trình lâu dài trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Quá trình
này đi từ sự kế thừa các nhân tố dân chủ mầm mống trong xã hội cổ đại, kết hợp với tư
tưởng thân dân trong Nho giáo tới sự ý thức và tầm cao lý luận làm nên một truyền
thống lý luận chính trị tiến bộ trong lịch sử tư tưởng dân tộc. Điển hình của truyền
thống đó là các nhà tư tưởng như: Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh - linh hồn của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tư tưởng thân dân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam đã đi từ quan niệm “thần
dân” tới quan niệm “công dân”. Đó là chặng đường lịch sử dài cả chục thế kỷ. Dựa
trên tư tưởng thân dân, các triều đại phong kiến tiến bộ đã thi hành những đường
lối chính sách phù hợp trong quá trình xây dựng đất nước và bảo vệ độc lập dân
tộc. Kế thừa truyền thống tư tưởng thân dân, Đảng cộng sản Việt Nam đã luôn quán
triệt quan điểm “nhân dân”, “lấy dân làm gốc”của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội. Đường lối cách
mạng đúng đắn trên cơ sở tư tưởng thân dân của Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa
dân tộc ta tới thắng lợi cuối cùng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Xuất phát từ truyền thống “lấy dân làm gốc” của dân tộc, xuất phát từ quan
điểm duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin về vai trò quần chúng nhân dân và cá
nhân lãnh tụ trong lịch sử, chúng ta thấy rõ rằng, quần chúng nhân dân giữ vai trò sáng
tạo ra lịch sử còn cá nhân, lãnh tụ có vai trò quan trọng thúc đẩy tiến trình sáng tạo của
quần chúng. Hiện nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà
Đảng lãnh đạo, quan điểm trên lại càng có ý nghĩa to lớn, nhằm phát huy vai trò của
quần chúng nhân dân, thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây
dựng thành công Chủ nghĩa xã hội.
17
Sự nghiệp lãnh đạo đổi mới đất nước của Đảng đầy khó khăn, phức tạp. Sự
nghiệp ấy nhất định sẽ thành công trên cơ sở phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của
quần chúng nhân dân. Để phát huy tinh thần tích cực, sáng tạo của nhân dân, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng phải không ngừng chăm lo, ổn định và
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mọi đường lối, chính sách của
Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Phấn đấu xây dựng: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh là mục tiêu của Đảng. Mục tiêu
ấy sẽ trở thành hiện thực khi Đảng luôn quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc” trong
nhận thức cũng như hành động của mình. Đó là cơ sở để Đảng thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ cách mạng của mình, mãi mãi xứng đáng là ngọn cờ lý tưởng của toàn dân
tộc Việt Nam.