Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Nâng cao nhận thức của người lao động về bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.61 KB, 101 trang )

Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ mơn Kinh tế Bảo

LỜI NĨI ĐẦU
Có thể nói, sự ra đời của Nghị định 100CP là bước ngoặt quan trọng
đánh dấu sự chấm dứt của cơ chế độc quyền nhà nước, tạo ra môi trường pháp
lý cho việc phát triển một thị trường bảo hiểm mang tính cạnh tranh. Bên
cạnh đó với sự phát triển ổn định của nền kinh tế cùng với các chính sách đầu
tư trong và nước ngồi tạo ra một lượng tích lũy đáng kể về tài sản đã mang
lại những cơ hội không nhỏ cho sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam
nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng. Bảo hiểm hàng hải là một trong
những lĩnh vực bảo hiểm ra đời sớm nhất không những đáp ứng nhu cầu đảm
bảo an toàn cho hoạt động của ngành vận tải biển mà còn thúc đẩy mối quan
hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới.
Cùng với sự phát triển đó thì tái bảo hiểm ra đời như một tất yếu khách
quan nhằm đảm bảo khả năng tài chính cho các cơng ty bảo hiểm. Mặc dù
mới được triển khai không lâu nhưng cho đến nay nghiệp vụ bảo hiểm và tái
bảo hiểm hàng hải đã có những bước đi dài, đóng góp khơng nhỏ vào sự phát
triển chung của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Trong thời gian thực tập tại Phòng Tái bảo hiểm Hàng hải của Tổng
công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam,với những kiến thức đã được
tích lũy và được sự giúp đỡ của các anh chị Phòng Tái bảo hiểm Hàng hải em
đã hoàn thành luận văn với đề tài:
“Tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu tại Tổng
công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) (2000-2006)”.
Nội dung luận văn gồm 3 chương, ngồi lời nói đầu và phần kết luận:
Chương I: Tổng quan về tái bảo hiểm và tái bảo hiểm vật chất thân tàu
Chương II: Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm vật
chất thân tàu tại VINARE (2000-2006)


Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu tại VINARE.

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ TÁI BẢO HIỂM VÀ
TÁI BẢO HIỂM VẬT CHẤT THÂN TÀU
I. TỔNG QUAN VỀ TÁI BẢO HIỂM
1.1. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA TÁI BẢO HIỂM
1.1.1. Bản chất của tái bảo hiểm
Bảo hiểm là một phạm trù kinh tế, nó bao gồm các quá trình phân phối
lại nhằm đáp ứng nhu cầu đảm bảo của xã hội. Đặc trưng của nó là việc thành
lập mang tính chất tập thể một quỹ dự trữ tài chính thơng qua sự vận động của
các quy luật thống kê và các nguyên tắc cân đối cũng như việc phân phối
mang tính chất riêng rẽ quỹ đó để có thể đáp ứng những nhu cầu có thể dự
đốn được trong tương lai phát sinh ra từ những sự cố bất ngờ gây thiệt hại
hay xẩy ra.
Do những đặc thù trên nên bảo hiểm có sự đóng góp nhất định vào việc
đảm bảo tính liên tục, sự ổn định và hiệu quả của quá trình sản xuất,lưu thông
và tiêu dùng của xã hội. Dựa vào các rủi ro được bảo hiểm, các ngành kinh tế
khác nhau và các quá trình tiến hành bảo hiểm được chia thành nhiều loại và
được tổ chức thành một hệ thống độc lập của nền kinh tế quốc dân (ở nhiều
nước còn được gọi là ngành kinh tế bảo hiểm). Một trong loại hình đó là tái

bảo hiểm.
Về khái niệm, tái bảo hiểm là một hình thức bảo hiểm lại những rủi ro
đã được bảo hiểm (công ty bảo hiểm). Hay nói cách khác, tái bảo hiểm là bảo
hiểm cho người bảo hiểm. Nhiệm vụ chủ yếu của tái bảo hiểm là phân chia
các rủi ro đã được bảo hiểm của các công ty bảo hiểm gốc cho một tập thể các
cơng ty tái bảo hiểm và thơng qua đó sẽ tận dụng một cách tối ưu các quy luật

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

thống kê quá. Với nhiệm vụ trên tái bảo hiểm ổn định kinh doanh cho các
công ty bảo hiểm gốc và tạo điều kiện cho các cơng ty này có thể nhận bảo
hiểm cho những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của mình.
Nhưng cho dù định nghĩa thế nào đi nữa thì bản chất của tái bảo hiểm
cũng được thể hiện ở những nội dung sau:
+ Tái bảo hiểm là sự phân tán rủi ro cho nhà bảo hiểm, thay vì một nhà
bảo hiểm phải gánh chịu tất cả tổn thất xảy ra với đối tượng bảo hiểm thì sẽ
có nhiều nhà bảo hiểm khác cùng chia sẻ tổn thất đó với họ.Vì vậy giá trị tổn
thất mà mỗi nhà bảo hiểm phải gánh chịu được giảm đi nhiều lần.
+ Tái bảo hiểm hoạt động trên cơ sở số lớn nhằm phân chia rủi ro giữa
những nhà bảo hiểm với nhau.
+ Hoạt động tái bảo hiểm có tính chất quốc tế cao: Một hợp đồng bảo
hiểm gốc trong nước có thể được tái bảo hiểm sang các công ty bảo hiểm
khác ở nước ngoài.
Cơ chế hoạt động tái bảo hiểm:

Khách hàng ---> công ty BH gốc (công ty nhượng TBH) ---(nhượng
tái)--> công ty nhận TBH
+ Khách hàng đến tham gia bảo hiểm ký hợp đồng trực tiếp với công ty
bảo hiểm: nộp phí và nhận chi trả, bồi thường trực tiếp tại cơng ty bảo hiểm
đó khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra hoặc đến kì đáo hạn.
+ Cơng ty bảo hiểm gốc sau khi hoàn tất hợp đồng với khách hàng nếu
nhận thấy rủi ro cao có thể đi bảo hiểm lại rủi ro đó cho cơng ty bảo hiểm
khác với một tỷ lệ nhất định. Khi đó cơng ty bảo hiểm gốc ban đầu được gọi
là công ty nhượng tái bảo hiểm, công ty nhận bảo hiểm cho công ty bảo hiểm
gốc gọi là công ty nhận tái bảo hiểm, phí cơng ty nhận tái thu gọi là phí
nhượng tái. Sau này khi đáo hạn hoặc có sự kiện bảo hiểm xảy ra công ty bảo
hiểm gốc sẽ chi trả cho khách hàng 100% số tiền bảo hiểm như đã ký trong

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

hợp đồng bảo hiểm gốc, sau đó sẽ thu lại số tiền bồi thường nhượng tái bảo
hiểm từ công ty nhận tái bảo hiểm theo đúng tỷ lệ đã cam kết trong hợp đồng
tái bảo hiểm.
1.1.2. Vai trò của tái bảo hiểm
Tái bảo hiểm có tác dụng sau:
 Phân tán rủi ro, góp phần ổn định tài chính cho cơng ty bảo hiểm gốc,
đặc biệt là trong những trường hợp xảy ra các sự cố thảm họa hay tích lũy rủi
ro;
 Tăng cường khả năng nhận bảo hiểm của công ty bảo hiểm gốc đối

với những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của nó: Các cơng ty bảo hiểm
đặc biệt là những cơng ty nhỏ thơng qua tái bảo hiểm có thể nhận được
những hợp đồng bảo hiểm lớn, vừa đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật
về biên khả năng thanh tốn, vừa khơng phải từ chối khách hàng;
 Giúp các công ty bảo hiểm nhỏ, mới thành lập ổn định và phát triển
nhờ tư vấn về nghiệp vụ từ các công ty tái bảo hiểm;
 Giúp các công ty bảo hiểm sửa chữa tính bất thường, đột biến của rủi
ro - khả năng sai lệch giữa thực tế và dự đốn mà người bảo hiểm có được
nhờ số liệu thống kê từ quá khứ;
 Tái bảo hiểm là một cơng cụ quản trị rủi ro của chính những nhà bảo
hiểm;
 Góp phần thúc đẩy, phát triển quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước
bởi tái bảo hiểm là hoạt động mang tính chất quốc tế: Các hoạt động nhận tái
và nhượng tái diễn ra giữa các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm trong và ngoài
nước nhằm san sẻ rủi ro và lợi nhuận;
 Đảm bảo đời sống cho cán bộ nhân viên làm việc trong các cơng ty
bảo hiểm gốc, góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động xã hội
(tạo chỗ làm tại các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, công ty môi giới tái bảo

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

hiểm, ...): Tái bảo hiểm là một trong những nhiệm vụ của các cơng ty kinh
doanh bảo hiểm gốc vì vậy nó góp phần làm tăng quy mô và doanh thu cho
doanh nghiệp. Cịn đối với các cơng ty chun về tái bảo hiểm, nhận tái bảo

hiểm là nhiệm vụ quan trọng và là hoạt động chính tạo nên doanh thu và lợi
nhuận;
 Tạo điều kiện cho công ty bảo hiểm khi muốn rút lui khỏi thị trường
nào đó (khi nhận thấy khơng còn đủ khả năng để thực hiện một nghiệp vụ bảo
hiểm nào đó hoặc khi muốn tập trung vào các nghiệp vụ khác mà cơng ty có
thế mạnh..., cơng ty bảo hiểm này có thể nhượng tái bảo hiểm các đơn bảo
hiểm thuộc loại nghiệp vụ này cho các công ty khác).
 Đối với khách hàng tham gia bảo hiểm: Do bảo hiểm là một dịch vụ
đặc thù cung cấp sự cam kết bồi thường trên cơ sở phí bảo hiểm đóng trước
nên có thể nói tái bảo hiểm là công cụ giúp cho khách hàng yên tâm hơn trong
việc bảo đảm khả năng thanh tốn của các cơng ty bảo hiểm gốc. Nhờ có tái
bảo hiểm mà khách hàng có thể nhận được bồi thường chính xác, đầy đủ và
kịp thời;
 Đối với Nhà nước: Góp phần ổn định thu chi của ngân sách Nhà
nước, giữ lại tới mức tối đa lượng nội tệ và tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước
nhờ các hoạt động nhận và nhượng tái;
 Đối với xã hội và nền kinh tế: Tái bảo hiểm không chỉ là sự phân tán
rủi ro cho những nhà bảo hiểm mà còn là sự phân tán rủi ro giữa các quốc gia
với nhau vì vậy những tổn thất lớn hồn tồn có thể được chia sẻ với số lượng
đông người tham gia bảo hiểm.
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TÁI BẢO HIỂM
Thực tế cho thấy cũng như các ngành nghể khác, bảo hiểm và tái bảo
hiểm ra đời luôn gắn liền trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Sự
ra đời và phát triển của tái bảo hiểm có thể chia thành 4 giai đoạn sau:

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm


Bộ môn Kinh tế Bảo

1.2.1. Giai đoạn đầu phát triển của tái bảo hiểm
Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu, Italia là nước đầu tiên chứng kiến
sự ra đời và phát triển của tái bảo hiểm. Bản giao ước cổ nhất được biết đến
có tính chất pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm được kí kết vào năm
1370 tại thành phố Genes. Đó là hợp đồng tái bảo hiểm hàng hải, liên quan tới
chuyến hành trình bằng đường biển từ Cadiz (Tây Ban Nha) đến Sluys (Hà
Lan). Sau này với sự phát triển rộng rãi của những quan hệ thương mại giữa
các thành phố của Italia cũng như các nước Bắc Âu, đặc biệt là nước Anh
dịch vụ tái bảo hiểm cũng phát triển theo. Tuy nhiên, sau khi có sự xuất hiện
của những vụ lạm dụng có tính chất con bn gây ra nhiều phản ứng chống
lại bản chất của tái bảo hiểm đã dẫn đến việc ra đời của đạo luật cấm các hoạt
động tái bảo hiểm hàng hải ở nước Anh. Trong một thời gian dài (1746-1864)
đạo luật này vơ hình chung đã tạo điều kiện cho tổ chức LLOYD’S phát huy
ảnh hưởng của mình bằng đồng bảo hiểm. Sau năm 1864, nó trở thành thị
trường tái bảo hiểm quan trọng nhất trên thế giới. Thời gian này cũng đã
chứng kiến sự xuất hiện của các nghiệp vụ tái bảo hiểm khác như tái bảo hiểm
cháy, ... với hình thức tái bảo hiểm duy nhất được áp dụng trong thời kỳ này
là tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn cho từng rủi ro riêng biệt.
1.2.2. Giai đoạn từ giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỉ XX
Trong giai đoạn này, những thành tựu khoa học kỹ thuật đã được ứng
dụng vào sản xuất làm nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa đã có những
bước tiến nhảy vọt,quan hệ giao lưu hàng hóa giữa các nước ngày càng được
mở rộng. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho thị trường tái bảo hiểm trưởng
thành và phát triển. Tuy nhiên các công ty bảo hiểm vừa hoạt động bảo hiểm
gốc, vừa hoạt động tái bảo hiểm tạo ra những hạn chế nhất định, đặt ra u
cầu cần phải có cơng ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp. Năm 1843, công ty tái
bảo hiểm nội bộ đầu tiên ra đời là Weceler Re (Đức). Tuy nhiên, nó chỉ là


Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

công ty con của một công ty bảo hiểm địa phương, chủ yếu nhận các phần dôi
của công ty mẹ.
Năm 1846 công ty tái bảo hiểm độc lập đầu tiên được thành lập tại Đức
mang tên Cologe Re. Sau đó là sự ra đời hàng loạt của các công ty tái bảo
hiểm chuyên nghiệp có tên tuổi như:
- Swiss Re – cơng ty tái bảo hiểm đầu tiên của Thụy Sỹ, thành lập năm
1863;
- London Gurantee Reinsurance Co.Ltd (Luân Đôn) năm 1869;
- Munich Re (Đức), thành lập năm 1880.
Ở Anh, công ty tái bảo hiểm đầu tiên là The Reinsurance Company Ltd,
thành lập năm 1867 và vào thời gian đó, trên thế giới mới chỉ tồn tại 10 công
ty tái bảo hiểm. Tuy nhiên, cơng ty này đã đóng cửa vì phá sản vào năm 1871.
Một số công ty tái bảo hiểm khác đã được thành lập nhưng không tồn tại được
lâu. Năm 1907, công ty tái bảo hiểm Vương quốc Anh thành lập, mang tên
Mercantile & General Reinsurance. Một năm sau, năm 1908, công ty tái bảo
hiểm Bristish & European ra đời.
Ở Mỹ, công ty tái bảo hiểm đầu tiên được thành lập năm 1912 với tên
The First Reinsurance Company of Hartford khi mà các cơng ty tái bảo hiểm
nước ngồi đã hoạt động tại Mỹ một số năm trước đó.
Vào những năm 1920, người ta cũng chứng kiến sự ra đời của các tập
đoàn tái bảo hiểm địa phương như Uruguay, Chiles, Banco del Estado, ... Ban

đầu, những công ty này khơng tìm kiếm dịch vụ ngồi những dịch vụ của địa
phương bị bắt buộc nhượng cho họ.
Cùng với sự phát triển của thị trường tái trong giai đoạn này nhiều hình
thức và phương pháp tái bảo hiểm được xây dựng như tái bảo hiểm số thành,
tái bảo hiểm mức dôi ...

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

Tuy nhiên, chiến tranh thế giới thứ II đã làm ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển của ngành bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm nói riêng. Trên thực tế
hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm bị ngừng trệ, thậm chí một số nước các
nhà cầm quyền còn trưng dụng cả quỹ bảo hiểm để phục vụ chiến tranh gây ra
tổn thất lớn cho các nhà bảo hiểm đặc biệt là các công ty ở những nước Châu
Âu.
1.2.3. Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến năm 1990
Sau chiến tranh thế giới thứ II năm 1945 cục diện thế giới thay đổi, hệ
thống xã hội chủ nghĩa ra đời và phát triển, phong trào giải phóng dân tộc của
các nước thuộc địa thắng lợi, các nước tư bản rơi vào khủng hoảng làm cho
nền kinh tế nói chung và ngành bảo hiểm – tái bảo hiểm nói riêng có nhiều
thay đổi:
- Các nước tư bản chủ nghĩa đang trong q trình phục hồi, đồng thời
với nhiều cơng ty tái bảo hiểm mới được thành lập tạo nên thị trường tái bảo
hiểm cạnh tranh dưới nhiều hình thức;
- Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ra đời thực hiện độc quyền trong

lĩnh vực bảo hiểm và tái bảo hiểm, hạn chế với các nước tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên các nghiệp vụ nhận tái bảo hiểm chỉ mang tính chất đối ngoại là
bảo hiểm hàng hóa nhập khẩu và bảo hiểm thân tàu thủy;
- Năm 1970-1980 các tập đoàn tái bảo hiểm vùng ra đời như: Tập đoàn
tái bảo hiểm Châu Phi, tập đoàn tái bảo hiểm Châu Á, tập đoàn tái bảo hiểm
Asean. Các tập đoàn này vận hành dựa trên cơ sở nhượng tái bắt buộc hay tự
nguyện với nhau giữa các thành viên.
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Năm 1990 sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tạo tiền để
cho thị trường tái bảo hiểm quốc tế được mở rộng và phát triển. Mối quan hệ
giữa các nước ngày càng được củng cố đánh dấu giai đoạn phát triển cao của

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm. Tuy nhiên những năm đầu của thế kỷ
XX thị trường tái bảo hiểm quốc tế phải đối mặt lớn với thảm họa và rủi ro do
thiên nhiên và con người gây ra.
Năm 2001, với thảm họa khủng bố giáng xuống nước Mỹ ngày 11-9,
các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm phải gánh chịu những khoản tổn thất nặng
nề chưa từng có với tổng tổn thất được bảo hiểm lên tới 40,2 tỷ USD, dẫn tới
sự phá sản tụt hạng của một số công ty tái bảo hiểm hàng đầu thế giới, và đến
nay với hàng loạt tổn thất do thiên tai gây ra đặc biệt là tổn thất nặng nề do
sóng thần vào thời điểm cuối năm 2004 tại các nước Nam Á làm cho tình hình
thị trường tái bảo hiểm quốc tế trở nên rất phức tạp.

1.3. CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM
1.3.1. Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn
Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Theo hình thức
này, cơng ty nhượng tồn quyền lựa chọn tồn bộ hay một số rủi ro cần phải
tái đi và cơng ty nhận (nhà tái bảo hiểm) có quyền nhận hay từ chối tồn bộ
hay một số rủi ro đó.
Để thực hiện tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn, công ty nhượng phải thông
báo cho nhà tái bảo hiểm một dịch vụ nào đó mà họ cần tái đi dưới hình thức
một bản đề nghị (hay bản chào tái), trong đó ghi rõ các đặc điểm chính của rủi
ro được tái bảo hiểm, chẳng hạn như:
+ Tên và địa chỉ của người được bảo hiểm;
+ Tính chất của rủi ro được bảo hiểm;
+ Ngày bắt đầu và ngày chấm dứt;
+ Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, phần giữ lại của cơng ty nhượng;
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm;
+ Phương thức tái, thủ tục thanh toán, bồi thường; .....

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

Sau khi nhận được đề nghị, nhà tái bảo hiểm có quyền lựa chọn nhận
tồn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó hoặc một số tiền cố định trên cơ sở rủi ro
được đề nghị. Nhà tái bảo hiểm xác nhận phần tham gia của mình vào một
phiếu đề nghị và gửi lại cho công ty nhượng, đồng thời, nhà tái bảo hiểm có
thể u cầu cung cấp thêm thơng tin cần thiết. Chỉ khi được thông báo chấp

nhận, dịch vụ tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn mới có hiệu lực và cũng tự động
chấm dứt vào ngày đến hạn nếu khơng có bổ sung thêm.
Ưu điểm của hình thức này:
+ Giúp các công ty nhượng tái đặc biệt là các cơng ty mới thành lập cịn
ít kinh nghiệm có thể hoàn thành việc nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro
có giá trị lớn, vượt quá khả năng tài chính của họ bằng việc sử dụng chun
mơn và khả năng của thị trường tái bảo hiểm quốc tế;
+ Giúp cơng ty nhượng tái có điều kiện loại bỏ được những rủi ro đặc
biệt lớn hoặc nguy hiểm mà một khi tổn thất thuộc đơn vị này xảy ra có thể
làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mình trong năm nghiệp vụ bảo
hiểm riêng biệt nào đó;
+ Giúp cho cơng ty nhượng có thể chủ động trong việc chấp nhận bảo
hiểm phục vụ nhu cầu của người được bảo hiểm về những loại rủi ro mà có
thể khơng được chấp nhận trong các hợp đồng bảo hiểm bắt buộc truyền
thống của mình, chẳng hạn như: rủi ro động đất, ngập lụt, đình cơng, chiến
tranh, bạo loạn hoặc những rủi ro tương tự khác;
+ Tạo điều kiện cho công ty nhượng tái cải thiện sự thăng bằng của các
hình thức tái bảo hiểm bắt buộc, cải thiện vận may rủi trong việc đạt được
những lợi ích tối đa theo các điều kiện quy định trong các hợp đồng tái bảo
hiểm đó của họ (ví dụ: điều kiện về chia lãi, thủ tục phí tái bảo hiểm theo
thang lũy tiến, thủ tục phí tái bảo hiểm theo lãi, ...).
Nhược điểm:

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo


+ Công ty nhượng tái phải thông báo đầy đủ, chi tiết về nghiệp vụ bảo
hiểm gốc dẫn đến có thể bị tiết lộ thơng tin có lợi cho đối thủ cạnh tranh trong
thị trường bảo hiểm gốc;
+ Không đảm bảo thời gian và sự chắc chắn trong việc phân tán rủi ro
tái bảo hiểm do đó có thể sẽ bị mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm hoặc khơng có
khả năng để nhận bảo hiểm cho rủi ro có giá trị lớn, hay ít nhất cũng làm cho
cơng ty nhượng tái mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời người được bảo hiểm;
+ Chi phí hành chính, thủ tục giấy tờ tốn kém do đó ảnh hưởng đến lợi
nhuận của hợp đồng;
+ Thường xuyên phải đàm phán tái lập lại hợp đồng tái bảo hiểm trước
khi quyết định ký kết hợp đồng bảo hiểm gốc với khách hàng mà trong nhiều
trường hợp đáng lẽ không cần thiết phải thay đổi hay hủy bỏ hợp đồng đã ký;
+ Trong nhiều trường hợp hình thức tái bảo hiểm này chỉ được thực
hiện với mức phí cao hơn mức phí gốc hoặc thủ tục phí ít hơn khi khả năng
nhận của thị trường tái bảo hiểm quốc tế đã đạt gần tới mức tối đa, hoặc khi
phí bảo hiểm gốc quá thấp so với phí trung bình của thị trường.
1.3.2. Tái bảo hiểm bắt buộc
Tái bảo hiểm bắt buộc là sự thỏa thuận giữa cơng ty nhượng tái và nhà
tái bảo hiểm trong đó công ty nhượng bắt buộc phải nhượng cho nhà tái bảo
hiểm tất cả các đơn vị rủi ro gốc mà hai bên đã thỏa thuận từ trước. Ngược lại,
nhà tái bảo hiểm cũng buộc phải chấp nhận toàn bộ các đơn vị rủi ro đó.
Ở đây, cơng ty nhượng tái tồn quyền trong việc chấp nhận bảo hiểm
gốc, định phí, ... mà không phải thông qua ý kiến của nhà tái bảo hiểm. Cơng
ty nhượng đơn phương thanh tốn các vụ tổn thất có liên quan đến những rủi
ro được bảo hiểm với mục đích bảo vệ quyền lợi chung của công ty nhượng
và nhà tái bảo hiểm. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm chia sẻ rủi ro với công ty

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A



Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

nhượng tái và sẽ chấp nhận thanh toán tổn thất thuộc phạm vi hợp đồng tái
bảo hiểm đã thỏa thuận mà công ty nhượng thay mặt họ giải quyết.
Như vậy, hình thức tái bảo hiểm bắt buộc là thỏa thuận ràng buộc các
bên với nhau một cách chặt chẽ hơn là hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn.
Ưu điểm:
+ Công ty nhượng sẽ được tồn quyền quyết định phí bảo hiểm cho nên
hợp đồng sẽ được ký kết rất nhanh;
+ Các nhà tái bảo hiểm hoàn toàn chia sẻ vận may rủi với công ty
nhượng tái đồng thời rất thoải mái chấp nhận rủi ro một cách tự nguyện bởi vì
đến lượt mình họ cũng có quyền làm như vậy;
+ Đây là hình thức rất chặt chẽ bởi vì mọi thỏa thuận đã được thảo luận
từ trước khi ký kết hợp đồng, vì vậy phí bảo hiểm mà các bên thu được cũng
là cao nhất.
Nhược điểm:
+ Đối với những nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai, các nhà tái bảo
hiểm không lường hết được mức độ rủi ro cũng như xác xuất rủi ro vì vậy
việc kí kết hợp đồng ít nhiều sẽ mang tính mạo hiểm;
+ Vì mọi rủi ro đều phải tái đi cho nên, đứng về phía cơng ty nhượng
tái, những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ vẫn phải đem đi tái trong khi
khả năng tài chính của họ vẫn có thể đảm đương được.
1.3.3. Tái bảo hiểm kết hợp tùy ý lựa chọn - bắt buộc
Đây là hình thức tái bảo hiểm mà công ty nhượng tái không bắt buộc
phải nhượng tất cả các dịch vụ mà mình nhận bảo hiểm nhưng cơng ty nhận
bắt buộc phải nhận các dịch vụ mà công ty nhượng đưa vào thỏa thuận này

với điều kiện là những dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung điều khoản đã
quy ước của hợp đồng tái bảo hiểm thỏa thuận.

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

- Đối với cơng ty nhận tái bảo hiểm: So với hình thức tái bảo hiểm tùy
ý lựa chọn, nhà nhận tái bảo hiểm bất lợi hơn vì khơng có quyền từ chối
những rủi ro mà họ không muốn nhận. Công ty nhận tái bảo hiểm có điều
kiện thu nhập nguồn phí tái bảo hiểm lớn hơn và có phần thăng bằng hơn so
với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn. Ở đây cơng ty nhượng khơng được
lợi dụng hình thức này để lựa chọn tái đi những rủi ro có khả năng xảy ra tổn
thất lớn với mục đích đẩy phần bất lợi cho nhà tái bảo hiểm. Để đề phịng
trường hợp này xảy ra, cơng ty nhận tái phải nắm vững ý đồ của công ty
nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty nhượng đem tái bảo hiểm và
thường xuyên phải canh chừng diễn biến của thỏa ước mà mình đã ký kết. Sử
dụng hình thức tái bảo hiểm này, cơng ty nhượng có điều kiện để đem chào
tái bảo hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư của khả năng tự giữ lại của mình
cho một hay một số ít các nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn, thay cho việc
phải đem tất chia tất cả các phần thặng dư cho các nhà tái bảo hiểm nếu đem
tái theo hình thức bắt buộc. Tuy nhiên, cách tái bảo hiểm như thế thường chỉ
có các cơng ty nhận có tiềm lực thật lớn vì họ là những người có khả năng
nhận các rủi ro có giá trị bảo hiểm cao và như vậy sẽ khơng địi hỏi phân tán
cho quá nhiều nhà tái bảo hiểm, do vậy đỡ tốn kém chi phí.
- Đối với cơng ty nhượng: Với hình thức này, cơng ty nhượng có điều

kiện đem chào tái bảo hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư của khả năng giữ
lại cho một hay một số nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn thay vì phải phân
chia tất cả các phần thặng dư của khả năng tự giữ lại của mình cho các nhà tái
bảo hiểm theo hình thức bắt buộc.
Hình thức tái bảo hiểm này thường chỉ có thể thực hiện được bằng cách
chào tái cho các nhà tái bảo hiểm có tiềm lực lớn, có khả năng nhận được các
đơn vị rủi ro có giá trị cao như vậy sẽ giảm bớt chi phí do phải phân tán rủi ro
cho nhiều nhà tái bảo hiểm.

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

Trong trường hợp cơng ty nhượng tái có q nhiều đơn vị rủi ro cần
phải đem đi tái thì chi phí hành chính cho việc áp dụng hình thức tái bảo hiểm
này sẽ rất tốn kém vì những rủi ro cần tái bảo hiểm đó thường địi hỏi các
điều kiện tái bảo hiểm khác nhau, cơng tác tính tốn phí và sổ sách kế tốn sẽ
phức tạp, khó khăn hơn.
1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO HIỂM
Các hình thức tái bảo hiểm như đã trình bày ở trên được áp dụng theo
hai phương pháp chính là:
+ Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (tái bảo hiểm theo tỷ lệ);
+ Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường (tái bảo hiểm phi tỷ lệ).
1.4.1. Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm
Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm là một phương pháp tái bảo hiểm
mà trong đó trách nhiệm của cơng ty nhượng và nhà tái bảo hiểm đối với mỗi

đơn vị rủi ro được bảo hiểm được phân bổ theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên
trên cơ sở số tiền bảo hiểm. Vì lẽ đó các dịch vụ tái bảo hiểm theo số tiền bảo
hiểm còn được gọi là tái bảo hiểm theo tỷ lệ.
Phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ được chia làm hai dạng chính:
+ Tái bảo hiểm số thành;
+ Tái bảo hiểm mức dôi.
1.4.1.1. Tái bảo hiểm số thành
Theo phương thức này, công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ nhất
định so với số tiền bảo hiểm, phần cịn lại tái đi. Vì vậy phí bảo hiểm và số
tiền bồi thường cũng được phân bổ giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm
theo tỷ lệ tương ứng.
Ưu điểm:
+ Tính tốn đơn giản, dễ xử lý, chi phí hành chính và cách quản lý đơn
giản, ít tốn kém;

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

+ Đối với nhà tái bảo hiểm, dạng tái bảo hiểm này có tính cân đối và dễ
chấp nhận hơn so với dạng tái bảo hiểm mức dơi, có khả năng phân tán rủi ro
tốt hơn so với các loại tái bảo hiểm khác. Nhà tái bảo hiểm có điều kiện tham
gia vào mọi rủi ro mà công ty nhượng nhận bảo hiểm, đồng thời cơng ty
nhượng có thể n tâm nhận mọi rủi ro có giá trị nằm trong phạm vi hạn mức
khống chế tối đa đã quy ước vì mọi rủi ro này đều được chia sẻ cho nhà tái
bảo hiểm cùng hưởng và cùng chịu với công ty nhượng. Điều này đảm bảo

cân đối thu chi cho cả hai bên: công ty nhượng và nhà nhận tái bảo hiểm.
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm của dạng này cao nhất,ngồi ra các điều kiện
về phí tạm giữ cũng có tỷ lệ cao, nhờ đó cơng ty nhượng có điều kiện sử dụng
vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các việc khác.
Nhược điểm:
+ Công ty nhượng tái phải tái đi mọi đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc theo
một tỷ lệ định trước nên không khai thác hết khả năng của công ty;
+ Đồng thời công ty nhượng tái không khống chế được tỷ lệ bồi thường
đối với mức giữ, không có khả năng làm giảm hệ số biến thiên của phần tổn
thất thuộc mức giữ lại làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của
công ty;
Tái bảo hiểm số thành thường được ứng dụng trong những trường hợp
sau:
+ Khi cơng ty nhượng có ý định thu xếp tái bảo hiểm dưới hình thức
trao đổi dịch vụ lẫn nhau giữa các công ty bảo hiểm này với các công ty bảo
hiểm khác;
+ Đối với các công ty bảo hiểm “ non trẻ ” việc áp dụng tái bảo hiểm số
thành là rất phù hợp. Khi công ty nhượng mới bắt đầu triển khai bảo hiểm một
nghiệp vụ mới mà họ cịn chưa có kinh nghiệm và thiếu số liệu thống kê phân
tích khả năng tiến triển của loại nghiệp vụ đó. Với phương pháp này, cơng ty

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ mơn Kinh tế Bảo

nhượng có điều kiện đảm bảo ổn định kinh doanh của mình, nhất là trong

những năm đầu tiên vì lúc này “ quy luật số lớn “ chưa có tác động nhiều
trong nghiệp vụ. Thêm vào đó, nhà nhận tái hầu hết được coi như công ty bảo
hiểm gốc cùng chia sẻ rủi ro, vận may với cơng ty nhượng, có điều kiện gần
gũi và giúp đỡ công ty nhượng tái nhiều hơn về mặt chuyên môn, kỹ thuật, cố
vấn cho công ty nhượng tái tích cực hơn;
+ Đối với các loại nghiệp vụ bảo hiểm mà cơng ty nhượng tái có khó
khăn trong việc phân định thế nào là một rủi ro đơn (đặc biệt trong các loại
bảo hiểm về nông nghiệp);
+ Nhằm giảm nhẹ khả năng nguy hiểm của công ty nhượng tái đối với
các hợp đồng bảo hiểm về rủi ro thiên tai;
+ Đối với các loại nghiệp vụ mà phạm vi tác động và quy mô của tổn
thất không chắc chắn, mặc dù các hợp đồng bảo hiểm loại này có thể có giới
hạn trách nhiệm.
Tái bảo hiểm số thành thường được sử dụng trong bảo hiểm trách
nhiệm dân sự, xe ô tô, giông bão, mưa đá, bảo hiểm vận chuyển hàng hóa và
thường kết hợp với tái bảo hiểm mức dôi.
1.4.1.2. Tái bảo hiểm mức dôi
Tái bảo hiểm mức dôi là dạng tái bảo hiểm tỷ lệ cổ xưa và phổ biến
nhất. Trong tái bảo hiểm mức dôi, công ty nhượng ấn định mức giữ lại là một
số tuyệt đối,số vượt quá tái đi. Với phương pháp này,trách nhiệm của người
nhận được xác định theo lớp là bội số của mức giữ lại. Phí bảo hiểm và số tiền
bồi thường được phân bổ theo tỷ lệ tương ứng với trách nhiệm giữa công ty
nhượng và nhà nhận tái.
Ưu điểm:
Phương pháp tái bảo hiểm này giúp khai thác hết khả năng của công ty
nhượng tái do chỉ tái đi những rủi ro vượt quá mức giữ lại, đảm bảo lợi ích

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A



Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

kinh tế cao hơn tái bảo hiểm số thành, đồng thời phương pháp này cịn giúp
cơng ty nhượng có điều kiện giữ lại một khối lượng kim ngạch bảo hiểm lớn
và do đó có mức phí thu nhập lớn khơng cần phải tái bảo hiểm.
Nhược điểm:
Việc tính tốn lại phức tạp hơn, chi phí tốn kém hơn, sử dụng nhiều
nhân lực (nhất là đối với những nước khơng có điều kiện áp dụng máy tính
điện tử) và có ảnh hưởng lớn đến kinh doanh trong trường hợp tổn thất rơi
nhiều vào những rủi ro dưới mức giữ lại của công ty nhượng tái.
Tái bảo hiểm mức dôi thông thường được áp dụng khi khối lượng dịch
vụ gồm nhiều rủi ro có những số tiền rất chênh lệch được bảo hiểm như: tái
bảo hiểm cháy, tai nạn thân thể và nhân thọ...
1.4.1.3. Tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi
Đây không phải là dạng tiếp theo của hình thức tái bảo hiểm theo tỷ lệ
mà thực chất là sự kết hợp giữa hai dạng số thành và mức dôi. Dạng kết hợp
này tỏ ra rất phù hợp và thường được áp dụng với các công ty bảo hiểm mới
thành lập. Với các công ty này khối lượng dịch vụ mà họ nhận bảo hiểm chưa
đủ ổn định để tránh khỏi trường hợp khơng may có rủi ro tổn thất lớn xảy ra.
Để đảm bảo có thể đứng vững trên thị trường và đáp ứng những nhu cầu khác
nhau của khách hàng mua bảo hiểm, cơng ty nhượng tái cần thiết phải có tái
bảo hiểm theo hình thức mức dơi. Đồng thời vì mới thành lập nên công ty
nhượng thường chưa đủ số tiền dự trữ đảm bảo để đương đầu với những chu
kì biến thiên của tổn thất, vì vậy cần phải bảo vệ phần giữ lại gộp của mình
bằng một hợp đồng tái bảo hiểm số thành.
Thông thường khi áp dụng dạng tái bảo hiểm kết hợp này, công ty
nhượng đem tái bảo hiểm cho cùng một số nhà tái bảo hiểm và trong đó dạng


Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

tái bảo hiểm số thành là hợp đồng cơ sở và dạng tái bảo hiểm mức dôi làm
hợp đồng bổ sung tự động.
Tái bảo hiểm theo phương pháp kết hợp này phát huy được những ưu
điểm và hạn chế được những nhược điểm của từng phương pháp tái bảo hiểm
số thành hoặc tái mức dôi.
Ưu điểm:
Giúp công ty nhượng tái đảm bảo khả năng gia tăng về phần trách
nhiệm bảo hiểm một cách tự động mà không ảnh hưởng đến mức giữ lại của
bản thân công ty (không phải tăng mức giữ lại), đồng thời việc phân tán rủi ro
sẽ dễ dàng hơn, hợp đồng tái bảo hiểm số thành sẽ ổn định hơn.
Nhược điểm:
Thủ tục và chi phí điều hành phức tạp hơn hợp đồng số thành thuần túy,
thủ tục phí tái bảo hiểm thu được từ hợp đồng mức dôi thấp hơn so với thủ
tục phí đưa vào hợp đồng số thành (vì tỷ trọng giữa phí và trách nhiệm thấp).
1.4.2. Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường
Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường là một hình thức tái bảo hiểm
trong đó cơng ty nhượng tái ấn định một giới hạn bồi thường bằng một số tiền
mà họ có thể tự gánh chịu cho mỗi tổn thất thuộc trách nhiệm của mình (điểm
tự bồi thường hoặc mức tự bồi thường), phần tổn thất vượt quá hạn mức đó
được chuyển giao cho nhà tái bảo hiểm gánh chịu (giới hạn trách nhiệm bồi
thường của nhà tái bảo hiểm).

Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường có những đặc điểm sau:
+ Trách nhiệm của công ty nhượng tái và nhà tái bảo hiểm đối với tổn
thất không chia sẻ theo tỷ lệ về phí, trách nhiệm cũng như về bồi thường. Vì
thế hình thức tái bảo hiểm này cịn được gọi là là tái bảo hiểm phi tỷ lệ;
+ Số tiền bồi thường tổn thất là tiêu chuẩn cơ bản để phân định trách
nhiệm giữa các bên;

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

+ Công ty nhượng tái phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những tổn
thất bằng hoặc dưới điểm tự bồi thường;
+ Nhà tái bảo hiểm chỉ bồi thường cho phần tổn thất chênh lệch của
những tổn thất vượt quá điểm tự bồi thường của công ty nhượng tái cho tới
một hạn mức tối đa đã có sự thỏa thuận trước trong hợp đồng tái bảo hiểm,
hạn mức này được gọi là “ hạn mức trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm”.
Ưu điểm
+ Là hình thức tái bảo hiểm chỉ bảo vệ cho những trường hợp có tổn
thất quá lớn và được bảo vệ 100% mức tổn thất vượt quá “điểm tự bồi
thường” nên cơng ty nhượng tái có thể khống chế mức bồi thường tối đa của
mình bằng một mức tiền nhất định;
+ Cơng ty nhượng tái sẽ có thu nhập phí bảo hiểm lớn hơn vì nhà tái
bảo hiểm khơng có trách nhiệm bồi thường cho những vụ tổn thất có số tiền
thấp hơn “điểm tự bồi thường” của công ty nhượng;
+ Chi phí hành chính ít tốn kém do cơng ty nhượng tái không phải

phân loại từng đơn vị rủi ro bảo hiểm, tính tốn mức giữ lại, phí tái bảo hiểm,
mức tái bảo hiểm...
Nhược điểm
+ Phương pháp tính phí phức tạp và khó chính xác, địi hỏi kinh nghiệm
và kỹ thuật tính tốn cao, đặc biệt đối với những rủi ro thảm họa lớn;
+ Mức tự bồi thường nếu tính q cao thì có thể ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh của công ty nhượng tái nhưng nếu quá thấp thì lại làm tăng chi phí
hành chính của nhà tái bảo hiểm;
+ Gây khó khăn cho cơng ty nhượng tái trong việc thanh tốn phí tái
bảo hiểm vì phí tái bảo hiểm thường phải đóng trước;

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp
hiểm

Bộ môn Kinh tế Bảo

+ Phải trả thêm phí tái bảo hiểm trong trường hợp có bồi thường thuộc
trách nhiệm hợp đồng tái bảo hiểm và có điều khoản tái lập trách nhiệm bảo
vệ.
Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường có các dạng sau:
+ Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ;
+ Tái bảo hiểm vượt quá tỷ lệ bồi thường;
+ Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo thảm họa.
1.4.2.1. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ
Dạng tái bảo hiểm này bao gồm hai loại: loại đảm bảo nghiệp vụ không
hạn mức và loại đảm bảo nghiệp vụ có hạn mức từng sự cố.
a. Loại đảm bảo nghiệp vụ không hạn mức

Là loại đảm bảo nghiệp vụ áp dụng cho từng đơn vị rủi ro gốc và không
hạn chế tổng số tiền bồi thường trong trường hợp có nhiều tổn thất xảy ra từ
một sự cố. Trong loại tái bảo hiểm này, nhà tái bảo hiểm bồi thường không
hạn định số vụ và tổng số tiền của các vụ tổn thất xảy ra dù là một tổn thất
riêng biệt hay là một sự cố tổng hợp. Mục đích của việc thu xếp tái bảo hiểm
theo dạng này là để giảm bớt hay thay thế cho các dạng tái bảo hiểm theo tỷ lệ
thông thường.
b. Loại đảm bảo nghiệp vụ có hạn mức từng sự cố
Là loại “đảm bảo nghiệp vụ” bổ sung cho loại trên, trong đó mức bồi
thường của nhà tái bảo hiểm ngoài việc phải chịu trách nhiệm đối với những
tổn thất tính riêng từng đơn vị rủi ro vượt quá điểm vượt mức bồi thường, nó
cịn được khống chế ở một mức tối đa ấn định trong trường hợp nhiều rủi ro
xảy ra trong cùng một sự cố có tổng số tiền bồi thường quá lớn.
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ thường được sử
dụng trong các loại tái bảo hiểm về tài sản (vật chất). Các loại nghiệp vụ về
trách nhiệm ít áp dụng dạng này vì thơng thường bảo hiểm về trách nhiệm ít

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A



×