Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Phân tích những khó khăn của nền kinh tế việt nam trong hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa giai đoạn 2011 – 2016 và định hướng đến năm 2020, đề xuất giải pháp vượt qua khó khăn1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.51 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

------

BÀI TẬP CÁ NHÂN
MÔN Héi nhËp kinh tÕ quèc tế
và Toàn cầu hóa
ti:
phân tích Những thuận lợi của nỊn kinh tÕ ViƯt Nam
trong héi nhËp kinh tÕ qc tế và toàn cầu hóa
giai đoạn 2011-2016 và định hớng đến năm 2020, đề xuất
giải pháp khai thác thuận lợi

Ging viên
Học viên
MBA
Lớp

: PGS.TS NGUYỄN THƯỜNG LẠNG
: ĐẶNG VIẾT VƯỢNG
: KHÓA 6
: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

HÀ NỘI - 2017

PHẦN I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ - CƠ HỘI
VÀ THÁCH THỨC



1. Hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hóa
1.1. Hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là một quá trình tham gia một cách chủ động của các quốc
gia vào đời sống quốc tế nhằm khai thác hiệu quả những lợi thế quốc gia và lợi thế
quốc tế cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Mặt khác, là việc thực hiện các
nghĩa vụ quốc gia đối với các cam kết quốc tế, luật pháp quốc tế mà quốc gia đã ký
kết hoặc tham gia.
1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế
Thực chất của hội nhập kinh tế quốc tế là sự chủ động của mỗi quốc gia, dân
tộc hịa mình vào cộng đồng nền kinh tế thế giới, từng bước tự do hóa các hoạt
động kinh tế và tham gia vào phân công lao động quốc tế.
1.3. Cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.1. Cơ hội và thách thức tồn tại đan xen lẫn nhau trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế
Mối quan hệ và tác động qua lại giữa cơ hội và thách thức của hội nhập kinh
tế quốc tế tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế là những hoàn cảnh và điều kiện thuận
lợi, mà nếu nắm bắt được chúng, thì sự phát triển kinh tế - xã hội sẽ đạt được
những kết quả cao, có thể tạo nên những bước ngoặt, nhảy vọt, mà sự vận động
bình thường có khi hàng thế kỷ không đạt được.
Thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế là những khó khăn, cản trở do hội
nhập kinh tế quốc tế đem lại, có tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội
và đe dọa sự phát triển bền vững của các quốc gia dân tộc.
Mỗi bước tiến của hội nhập quốc tế về kinh tế ln có cả cơ hội và cả thách
thức. Cơ hội và thách thức tồn tại một cách tất yếu trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Tuy nhiên chúng không được chia đều, lần lượt cho các quốc gia, càng
khơng thể có những cơ hội mang tính chung chung, trừu tượng, mà nó hết sức cụ
thể, đa dạng và phong phú.

1



1.3.2. Khái quát một số cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế
 Một số cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho việc phát huy lợi thế so sánh,
để phát triển.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho việc tăng nguồn vốn đầu tư.
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho việc tiếp thu và nâng cao trình
độ khoa học, kỹ thuật và cơng nghệ; tăng cường cơ sở hạ tầng và học tập kinh
nghiệm quản lý tiên tiến.
Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho việc mở rộng kinh tế đối ngoại.
Năm là, hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho việc thay đổi cơ cấu kinh tế và
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng.
 Một số thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế khiến cho lợi thế so sánh có thể bị suy yếu
dần.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế không bền
vững do phụ thuộc vào xuất khẩu, sức cạnh tranh yếu kém và môi trường sinh thái
ngày càng xấu đi
Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến sự gia tăng nợ nần, tăng khoảng
cách giàu nghèo.
Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến thách thức khơng nhỏ về văn hóa
khi mà các giá trị văn hóa, truyền thống dân tộc có nguy cơ bị xói mịn.
Năm là, hội nhập kinh tế có thể làm suy yếu vai trị của nhà nước trong việc
bảo đảm độc lập tự chủ quốc tế.
1.4. Vai trò của nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội
nhập kinh tế quốc tế
1.4.1. Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trước tác động của tồn cầu hóa
và sức ép của hội nhập kinh tế quốc tế
Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh

chính trị và trật tự, an toàn xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập,
nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế - đó là chức năng nhà nước mà mọi quốc
gia, dân tộc đều phải thực hiện trong bối cảnh tồn cầu hóa.

2


1.4.2. Nội dung vai trò nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và thách thức của
hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, nhà nước giữ vai trò định hướng, xác định quan điểm, xây dựng
chiến lược và lộ trình hội nhập trên cơ sở nhận thức và dự báo chính xác các cơ hội
và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, với tư cách chủ thể quan trọng nhất tham gia vào tiến trình hội nhập
quốc tế, nhà nước giữ vai trò người thực hiện các điều chỉnh trong nước để tạo ra
những điều kiện thuận lợi nhất về thể chế, chính sách, pháp luật...cho việc nắm bắt cơ
hội, vượt qua thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ ba, nhà nước giữ vai trò người quản lý, điều tiết nền kinh tế đất nước,
phát huy tối đa nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực nhằm tận dụng cơ hội vượt
qua thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, nhà nước giữ vai trò chủ thể đàm phán, ký kết và thực hiện các hiệp
định, hợp đồng kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia dân tộc.
Thứ năm, nhà nước giữ vai trò chủ thể đảm bảo quyền quốc gia, nâng cao vị
thế đất nước trên trường quốc tế, giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ môi trường sinh
thái trong hội nhập kinh tế quốc tế.

3


PHẦN II: NHỮNG THUẬN LỢI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN

CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) là xu hướng tất yếu hiện nay của
mọi quốc gia trên thế giới, không một nước nào muốn phát triển mạnh mẽ, bền
vững có thể tách riêng khỏi xu thế thời đại này. Đó chính là bởi vì: HNKTQT là
sự gắn kết nền kinh tế của nỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác KTKV và toàn
cầu, trong đó mối quan hệ giữa các thành viên có sự ràng buộc theo những qui
định chung của khối hay HNKTQT là quá trình gắn kết nền kinh tế và thi trường
của một quốc gia với nền kinh tế và thi trường thế giới và khu vực thông qua các
biện pháp tư do hóa và mở cửa thị trường trên các cấp độ đơn phương , song
phương và đa phương.
HNKTQT với bản chất và các cấp độ có tính lan tỏa dần dần sẽ góp phần
làm nên tồn cầu hóa. Đó chính là tiến trình hội nhập kinh tế quốc gia vào nền
kinh tế quốc tế thong qua thương mại,FDI, dòng vốn, di cư và phổ biến công
nghệ hay là tiến trình tiến tối một nền kinh tế thế giới phụ thuộc và hợp nhất lẫn
nhau nhiều hơn.
1. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của VN
Việt Nam đang bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu sắc và tồn
diện hơn bao giờ hết. Tính đến nay, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với
185/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu
tư với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên tích cực của trên 70 tổ
chức khu vực và quốc tế, đóng vai trị quan trọng trong Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) và nhiều cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc. Việc
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đã đưa quá
trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu vực (ASEAN năm 1995) và liên khu
vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) lên đến cấp độ toàn cầu. Chặng đường
30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là một quá trình nỗ lực bền bỉ của đất nước.
Mười năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt
Nam phải đối mặt trước những khó khăn thử thách hết sức nghiêm trọng: nền
kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng gay gắt, an ninh quốc gia bị đe dọa bởi
tình trạng vừa có hịa bình, vừa có chiến tranh, các thế lực đế quốc thù địch xiết

chặt bao vây cấm vận, quan hệ đối ngoại bị thu hẹp. Bởi vậy, bước vào thời kỳ
4


đổi mới (1986), Việt Nam đứng trước đòi hỏi cấp bách mang ý nghĩa sinh tử là
phải tìm cách thốt khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế bị bao vây
cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường đã lựa chọn.
Trong bối cảnh đó, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng và
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam đã có những điều chỉnh
cơ bản về chính sách đối ngoại. Theo đó, cùng với chủ trương bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam coi trọng cải thiện quan hệ với các
nước láng giềng Đông Nam Á, tạo môi trường quốc tế hồ bình, ổn định ở khu
vực, thuận lợi cho phát triển đất nước.
Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của
ASEAN. Gia nhập ASEAN trở thành bước đột phá trong chính sách đối ngoại và
hội nhập quốc tế của Việt Nam, cho thấy rõ ưu tiên của Việt Nam đối với khu
vực. Từ sau sự kiện này, Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập khu vực mạnh
mẽ, đồng thời cải thiện rõ rệt thế và quan hệ với các nước lớn. Nói cách khác, nếu
không là thành viên ASEAN, quan hệ của Việt Nam với các nước lớn khó có thể
phát triển như thực tế đã diễn ra.
Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam nỗ lực thực hiện đầy đủ mọi cam kết
và trách nhiệm của một nước thành viên, chủ động đưa ra những sáng kiến nhằm
thúc đẩy hợp tác khu vực, hoàn thành nhiều trọng trách trước Hiệp hội. Việt
Nam tiếp tục mở rộng quan hệ nhiều mặt, trên nhiều tầng nấc trong khn khổ
đa phương và song phương, đóng góp thiết thực vào q trình hợp tác liên kết
ASEAN hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với ba
trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội.
ASEAN là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam.
Năm 2014, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đạt 19,121 tỷ USD, tương
đương 12,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Giá trị nhập khẩu từ ASEAN đạt

22,998 tỷ USD, chiếm 15,5% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước. Tính đến hết
tháng 9 năm 2014, tổng vốn đầu tư trực tiếp đăng ký của ASEAN tại Việt Nam
khoảng 51,83 tỷ USD, chiếm trên 21,4% tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tại
Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam cịn tham gia với tinh thần trách nhiệm cao
vào các cơ chế hợp tác đa phương của ASEAN với các đối tác bên ngoài như:
ASEAN+1, ASEAN+3, Hợp tác Á-Âu (ASEM), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á,
Hợp tác 4 nước CLMV, Hợp tác tiểu vùng Mekong.

5


Bên cạnh việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, Việt
Nam còn năng động cải thiện quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn và các
tổ chức quốc tế trong quá trình hội nhập.
Bình thường hố quan hệ với Mỹ là một hướng lớn trong hoạt động đối
ngoại của Việt Nam. Quan hệ với Mỹ có ý nghĩa chiến lược đối với yêu cầu an
ninh và phát triển của nước ta. Cải thiện mối quan hệ hai nước góp phần củng cố
vị thế quốc tế của Việt Nam, tác động tác động mạnh mẽ đến quan hệ của tất cả
các nước khác, nhất là các nước phương Tây đối với Việt Nam, thúc đẩy quan
hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, từng bước đi vào thị
trường rộng lớn của Mỹ, tranh thủ khoa học kỹ thuật tiên tiến, nguồn vốn đầu
tư... Năm 1994, chính quyền Mỹ huỷ bỏ cấm vận chống Việt Nam và tháng
11/7/1995 bình thường hố quan hệ với Việt Nam. Sau bình thường hóa, quan
hệ Việt - Mỹ có nhiều tiến triển thuận lợi. Quan hệ kinh tế - thương mại, khoa
học - công nghệ được thúc đẩy. Hai nước đã ký Hiệp định thương mại năm 2000
và năm 2006, chính quyền Mỹ chính thức ban hành đạo luật về thiết lập Quy chế
quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam, đánh dấu việc
bình thường hóa hồn tồn quan hệ song phương giữa hai nước, tạo thuận lợi
cho Việt Nam gia nhập WTO. Năm 2014 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng
hóa hai chiều của Việt Nam và Hoa Kỳ đạt gần 35 tỷ USD, trong đó, kim ngạch

xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt 28,655 tỷ USD, tăng 20,2% so với cùng kỳ
năm 2013 và xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam đạt 6,284 tỷ USD, tăng
20,1%[7]. Hiện Mỹ đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Với Trung Quốc, năm 2014, kim ngạch thương mại song phương đạt 58,773
tỷ USD, tăng 17 % so với cùng kỳ năm 2013, chiếm khoảng 19,7% tổng kim
ngạch ngoại thương của Việt Nam.
Hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về phân định
vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá
trong vịnh Bắc Bộ. Trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam đã quán triệt tốt
phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh đối với những vấn đề cịn bất đồng và
tranh chấp thì kiên trì lập trường nguyên tắc và sự độc lập tự chủ của mình.
Đối với Liên bang Nga, Việt Nam đã chủ động đề ra những biện pháp
nhằm duy trì và thúc đẩy quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, kể cả an ninh quốc

6


phòng. Hai nước đã xác lập mối quan hệ đối tác chiến lược (2001), cùng với một
loạt các hiệp định về hợp tác kinh tế - thương mại, khoa học kỹ thuật, dầu khí,
khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tổ hợp công nông nghiệp. Kim ngạch buôn bán
giữa hai nước và đầu tư của Nga vào Việt Nam có chiều hướng tăng. Năm 2014,
kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 2,547 tỷ USD.
Bên cạnh quan hệ chính trị tốt đẹp, hợp tác về kinh tế, thương mại, khoa
học kỹ thuật, an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Ấn Độ có bước phát triển
thể hiện sự tin cậy lẫn nhau. Hai nước ký Tuyên bố chung về Đối tác chiến lược
mới (7/2007). Từ năm 2007, Ấn Độ đã lọt vào nhóm 10 nước có vốn đầu tư lớn
nhất ở Việt Nam, đồng thời Việt Nam cũng trở thành nước tiếp nhận FDI lớn
nhất từ Ấn Độ ở Đông Nam Á. Tính đến tháng 8/2015, Ấn Độ có 111 dự án đầu
tư còn hiệu lực với tổng số vốn đạt 529,05 triệu USD. Quan hệ thương mại Việt

Nam - Ấn Độ tăng lên nhanh chóng, từ hơn 1 tỷ USD năm 2006 đã tăng lên 25,6
tỷ USD năm 2014.
Việt Nam tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản, nhất
là trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du
lịch, chuyển giao cơng nghệ. Hiện nay Nhật Bản là bạn hàng lớn nhất, là nước
cung cấp viện trợ phát triển nhiều nhất và đầu tư lớn ở Việt Nam. Quan hệ Việt
Nam - Nhật Bản hiện vẫn năng động tiến vững trên đường hướng tới đối tác
chiến lược vì hịa bình và phồn vinh ở châu Á.
Với Liên minh châu Âu (EU), Việt Nam đã ký với hầu hết các nước EU
Hiệp định khung về hợp tác, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần... tạo cơ sở pháp lý cho xây dựng và phát triển mối
quan hệ hợp tác ổn định, lâu dài. Hiện nay EU trở thành đối tác thương mại hàng
đầu của Việt Nam, là thị trường tiêu thụ những sản phẩm xuất khẩu trọng điểm
của Việt Nam như dệt may, giày dép, thủy sản, điện thoại di động.

7


Nhìn tổng quát, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã xúc tiến với
bước đi khá vững chắc và đạt được kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Việt
Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu vực, trở thành
thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo điều kiện thuận lợi
cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn
2. Một số thành tựu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ nhập kinh tế
quốc tế của VN:
Động lực chính khi HNKTQT của VN là nhằm tìm kiếm nhiều cơ hội tiếp
cận thị trường thế giới, mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư quốc tế...để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế...tạo tiền đề để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội của quốc gia như: tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân...góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.Trên thực tế, mở cửa,

tích cực và chủ động HNKTQT đã mở ra không gian phát triển mới cho nền
kinh tế VN. Cụ thể:

8


2.1.Về xuất khẩu:
- Xuất khẩu hàng hóa: Hoạt động xuất khẩu của VN từ năm 1991, đặc biệt là từ
năm 1995 đến nay đã không ngừng tăng trưởng và thực sự trở thành động lực
chính, quan trọng của sự phát triển kinh tế.
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu tương đối cao, do đó giá trị kim ngạch
xuất khẩu tăng mạnh, nếu so sánh năm 2012 với năm 1986, thì kim ngạch xuất
khẩu tăng gấp khoảng 145 lần (114.572,7 triệu USD/789,1 triệu USD)1.
Mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có nhiều nhóm hàng
“chủ lực” đạt kim ngạch lớn. Nếu như năm 2004 chỉ có 6 nhóm hàng/mặt hàng
đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, thì năm 2010 là 18, năm 2012 là 22,
trong đó 8 nhóm hàng đạt trên 1 tỷ USD và 14 nhóm hàng đạt trên 2 tỷ
USD.Hàng hóa xuất khẩu của VN đã có mặt trên thị trường 220 nước và vùng
lãnh thổ, hầu hết các châu lục, chủ yếu là châu Á. Các thị trường xuất khẩu hàng
hóa lớn của VN là Mỹ, EU, ASEAN, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc. “Câu lạc
bộ” các thị trường xuất khẩu (năm 2012) đạt 1 tỷ USD của VN gồm 25 nước và
vùng lãnh thổ, trong đó thấp nhất là Cộng hịa Áo: 1,67 tỷ USD, cao nhất là Mỹ
19,67 tỷ USD.
- Về xuất khẩu dịch vụ, q trình HNKTQT, VN đã nhanh chóng phát triển một
số ngành dịch vụ, như: Bưu chính, viễn thơng, hàng khơng, hàng hải, tài chính,
ngân hàng, du lịch … Nhờ đó mà xuất khẩu dịch vụ ngày càng tăng tiến, đặc
biệt là khi VN gia nhập WTO. Hiện có tới 70 loại hình dịch vụ của VN được
xuất khẩu (mỗi loại hình lại có nhiều hoạt động cụ thể). Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê trong 5 năm (2001-2005) kim ngạch dịch vụ xuất khẩu đạt 21,824
tỷ USD, tăng bình quân 15,7%/năm, chiếm tỷ trọng 10,8%GDP của 5 năm đó.

Từ khi gia nhập WTO, kim ngạch xuất nhập khẩu dịch vụ: 7.176 triệu USD2.
Phát triển xuất khẩu đã góp phần tạo thêm việc làm3, tăng thu nhập, xóa đói
giảm nghèo, nhất là đối với khu vực nơng thơn. Phát triển xuất khẩu cũng có tác
dụng tích cực trong việc nâng cao trình độ của người lao động và thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2. Về hoạt động nhập khẩu hàng hóa:
Hoạt động nhập khẩu cũng gia tăng mạnh mẽ: Năm 1995 so với 1985,
kim ngạch nhập khẩu tăng gấp gần 5 lần (8.155,4 triệu USD/1.857,4 triệu USD);
năm 1996 kim ngạch nhập khẩu là 11.143,6 triệu USD, đến năm 2006 là

9


44.981,1 triệu USD, tăng gấp khoảng gần 4 lần so với năm 1996. Năm 2012 so
với năm 2006, kim ngạch nhập khẩu tăng gấp hơn 2,5 lần (113.792,7 triệu USD/
44.891,1 triệu USD).Điều đáng lưu ý trong suốt 28 năm, VN ln ln ở trong
tình trạng nhập siêu (trừ năm 1992 có thặng dư là 40 triệu USD và năm 2012 là
78 triệu USD) và giá trị kim ngạch nhập siêu ngày càng tăng – từ 348 triệu USD
năm 1990 lên 5,064 tỷ USD năm 2006, năm 2010 là 13.172 tỷ USD [ CITATION
Tuấ11 \l 1033 ]. Thị trường nhập siêu lớn nhất của VN là Trung Quốc, Hàn Quốc,
Nhật, Đài Loan và Singapore (thứ 5).Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là máy móc,
thiết bị, nguyên vật liệu, chiếm đến trên 80%/kim ngạch nhập khẩu; hàng tiêu
dùng khoảng 10%/kim ngạch nhập khẩu, cịn lại các hàng hóa khác. Trong đó
khu vực có vốn đầu tư nước ngồi nhập khẩu nhiều hơn khu vực kinh tế trong
nước.
2.3. Về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), ODA và kiều hối
- Kể từ khi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực (1988), FDI vào
VN ngày càng tăng cả về dự án,
vốn đăng ký và số nước, vùng lãnh thổ. Tính đến hết năm 2012, tổng vốn FDI
đăng ký là 242.613 triệu USD, vốn thực hiện là 102.551 triệu USD5

Trên 80 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào VN, trong đó: Nhật, Hàn Quốc, Đài
Loan, Singaporre, quần đảo Virgin thuộc Anh, Hồng Kông, Malaysia và Mỹ là
những đối tác đạt trên 10 tỷ USD vốn đăng ký còn hiệu lực.Thu hút FDI đã góp
phần tăng vốn đầu tư phát triển. Cụ thể: Thời kỳ 1996-2000, FDI bình quân là
25,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,6% tổng vốn đầu tư phát triển; thời kỳ 2001-2005,
các con số tương ứng: 39,1 nghìn tỷ đồng và 15,7%; thời kỳ 2006-2010 là 156,3
nghìn tỷ đồng và 25,3%; năm 2012 các con số là: 230,0 nghìn tỷ đơng và
23,3%6
Khu vực doanh nghiệp FDI đã giải quyết việc làm cho gần 2 triệu lao động trực
tiếp, và hàng chục triệu lao động gián tiếp; tạo gần 20% tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước.
- VN khơng chỉ là nước nhận FDI, mà cịn đầu tư trực tiếp ra nước ngồi:
Tính đến hết năm 2007, VN đã đầu tư ra nước ngoài 265 dự án, với tổng số vốn
đăng ký khoảng 2 tỷ USD và vốn thực hiện khoảng 800 triệu USD. Các dự án
đầu tư ra nước ngoài được thực hiện ở 37 nước và vùng lãnh thổ, trong đó chủ
yếu là ở châu Á, với 180 dự án, chiếm 68%/tổng số dự án và 1,3 tỷ USD (chiếm

10


65%/tổng vốn đăng ký). Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là nước nhận đầu tư
lớn nhất của VN, với 98 dự án (chiếm 37%/tổng số dự án) và 104 tỷ USD
(chiếm 51%/tổng vốn đăng ký). Các dự án đầu tư ra nước ngoài của VN chủ yếu
vào lĩnh vực công nghiệp, với 113 dự án (chiếm 42,6%/tổng dự án) và 1,3 tỷ
USD (chiếm 75%/tổng vốn đăng ký)7.
- Về thu hút ODA và kiều hốiTính từ năm 1993 đến hết năm 2012, tổng
vốn ODA cam kết đạt 76,176 triệu USD, giải ngân đạt 35,967 triệu USD, tương
đương với 3,36% GDP8.
Lượng kiều hối (vốn của người VN ở nước ngoài) về VN thời kỳ 1993-2012 là
72.023 triệu USD chiếm 6,8% GDP9. FDI và ODA vào VN đã góp phần thúc

đẩy tăng GDP, tăng vốn đầu tư phát triển xã hội, tăng kim ngạch xuất khẩu, phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội …
2.4. Về tăng trưởng phát triển kinh tế
HNKTQT trong 28 năm qua đã tác động mạnh đến sự tăng trưởng, phát
triển kinh tế của VN.GDP luôn tăng trưởng với tốc độ cao, đặc biệt là thời kỳ
1992-1997, bình quân là 8,75%/năm; thời kỳ 2002-2007 cũng đạt bình quân
7,55%/năm; thời kỳ 2008-2012, do chịu sự ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
toàn cầu … nhưng tốc độ tăng GDP bình quân là 5,85%/năm10.
Nhờ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định mà quy mô của nền kinh tế được
mở rộng nhiều lần, do đó thu nhập bình quân đầu người cũng tăng lên đáng kể:
Năm 2000 so với năm 1988, quy mô của nền kinh tế tăng gấp 4,6 lần (31,208 tỷ
USD/ 5,473 tỷ USD) và GDP/người tăng gấp 4,8 lần (402 USD/86 USD). Năm
2012 so với năm 2000, các con số tương ứng là: 4,5 lần (140,328 tỷ
USD/31,2008 tỷ USD) và 3,9 lần (1.580 USD/402 USD)11.So sánh năm 2012
với năm 1988 thì quy mơ nền kinh tế gấp 25,6 lần (140,328 triệu USD/5,473
triệu USD) và GDP/người tăng gấp 18,36 lần (1.580/86 USD).Thành tựu tăng
trưởng phát triển kinh tế đã đưa nước ta vượt qua hai “cửa ải” quan trọng: (i)
Thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; (2) Thoát khỏi danh sách các nước
kém phát triển và bước vào hàng ngũ các nước đang phát triển có thu nhập trung
bình thấp.
2.5. Về phát triển xã hội
Trong quá trình HNKTQT, VN đã chú trọng đến nhiệm vụ phát triển xã
hội, trước hết là tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội cấp bách: Xóa đói

11


giảm nghèo, giải quyết việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khỏe dân cư, phát
triển giáo dục-đào tạo, phát triển con người- nâng cao thứ hạng chỉ số phát triển
con người (HDI), thực hiện an sinh xã hội, công bằng, tiến bộ xã hội … Cộng

đồng quốc tế đánh giá cao các thành tựu của công cuộc đổi mới ở VN, đặc biệt
là thành tựu xóa đói giảm nghèo.
Năm 2008, VN đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu Thiên niên kỷ đặt ra
cho năm 2015.
Tuy vậy, còn nhiều tồn tại, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội: kinh
tế phát triển thiếu bền vững; cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch theo hướng hợp lý
và hiệu quả, hầu hết các ngành công nghiệp là “công nghiệp gia cơng”, phụ
thuộc vào bên ngồi; 3 nút thắt của phát triển vẫn còn hiện hữu (thể chế kinh tế
thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng); năng lực cạnh tranh
tranh quốc gia thấp, năm 2012 xếp thứ 75/144 nước, thấp hơn 10 bậc so với năm
2011; Kinh tế vĩ mơ có nhiều yếu tố thiếu vững chắc và có những dấu hiệu bất
ổn. Đơn cử: Nợ công gia tăng và chiếm tỷ lệ lớn (55% GDP); thâm hụt ngân
sách triền miên và tỷ lệ cao (năm 2010 là bằng 6% GDP); lạm phát diễn biến
phức tạp; nợ xấu của ngân hàng thương mại, của doanh nghiệp nhà nước, tính
thanh khoản của ngân hàng kém … đang là “cục máu đông” làm tắc nghẽn sự
phát triển và môi trường và tài nguyên thiên nhiên của VN đang bị suy thối
nhanh chóng dưới áp lực tăng trưởng mạnh, tăng trưởng theo kế hoạch đề ra.
Việc khắc phục những tồn tại, yếu kém này trong giai đoạn mới của hội nhập
quốc tế nói chung, HNKTQT nói riêng là vơ cùng cấp bách.
3. Các FTA thế hệ mới Việt Nam đã tham gia hệ mới Việt Nam đã tham gia mới Việt Nam đã tham gia i Việ mới Việt Nam đã tham gia t Nam đã tham gia
Kể từ khi Việt Nam tuyên bố chính thức tham gia đàm phán Hiệp định TPP
vào tháng 11 năm 2010, cho đến nay, Việt Nam đã và đang đàm phán các FTA
với các đối tác sau: với Hàn Quốc (VKFTA), với Liên minh Hải quan NgaBelarut-Cadacxtan (VCUFTA), TPP, với Khối Thương mại tự do Châu Âu
(EFTA), với Liên minh Châu Âu (EVFTA) và cùng các nước thành viên
ASEAN đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với 6
nước Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ơt-xtray-lia và Niu
Dilan).
Q trình đàm phán các hiệp định đều đang được các bên tham gia tích cực
triển khai, trong đó, ngày 10 tháng 12 năm 2014, Hội nghị Cấp cao kỷ niệm
12



ASEAN- Hàn Quốc được tổ chức tại Busan (Hàn Quốc) nhân dịp 25 năm thiết
lập quan hệ đối thoại ASEAN- Hàn Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc đã ký Biên
bản thoả thuận về kết thúc đàm phán Hiệp định VKFTA theo đúng kế hoạch mà
Lãnh đạo Cấp cao hai nước đặt ra. Ngày 15 tháng 12 năm 2014, trong khuôn
khổ Phiên đàm phán thứ 8 của Hiệp định VCUFTA được tổ chức tại Phú Quốc
(Kiên Giang), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự và chứng
kiến lễ ký tuyên bố chung về kết thúc đàm phán hiệp định giữa Bộ trưởng Bộ
Cơng Thương – Trưởng đồn đàm phán phía Việt Nam và Bộ trưởng phụ trách
thương mại của Ủy ban Kinh tế Á Âu – Trưởng đoàn đàm phán phía Liên minh
Hải quan.
Các FTA nêu trên mà Việt Nam đang tham gia đàm phán đều có các đặc
trưng nhất định, trong đó xét về đối tác, phạm vi chủ yếu, mức độ tư do hóa và
mức độ tác động thì có thể chia thành hai nhóm là: (i) nhóm truyền thống
(VKFTA, VCUFTA, RCEP) với đặc trưng về đối tác truyền thống, phạm vi điều
chỉnh chủ yếu là thương mại hàng hóa, tương đối tự do hóa và tác động chủ yếu
đến xuất nhập khẩu; và (ii) nhóm mới (TPP, EVFTA, Việt Nam-EFTA) với các
đối tác mới, phạm vi điều chỉnh rộng bao trùm các lĩnh vực, mức độ tự do hóa
mạnh, có khả năng tác động đến thị trường và thể chế.
Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu, Ban soạn thảo tập trung các FTA
mới với hiệp định TPP và EVFTA.

13


PHẦN III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHAI THÁC
THUẬN LỢI
1. Những xu hướng nội tại của bối cảnh thế giới và cơ hội, thuận lợi đối với
VN

- Sự phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ, hình thành
kinh tế tri thức, sử dụng các cơng nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, thân
thiện với môi trường, phát triển kinh tế xanh. Đây là động lực chủ yếu làm thay
đổi và thúc đẩy cải cách cơ cấu kinh tế và thị trường trên phạm vi toàn cầu, cũng
như từng quốc gia.
- Tồn cầu hóa và liên kết kinh tế ngày càng sâu rộng, thúc đẩy quá trình
quốc tế hóa sản xuất và phân cơng lao động, hình thành mạng lưới sản xuất và
chuỗi giá trị tồn cầu.
- Vai trò ngày càng tăng của các nền kinh tế mới nổi (BRIC), nhất là sự
phát triển mạnh mẽ của Ấn Độ và Trung Quốc làm thay đổi cán cân quyền lực
kinh tế - chính trị thế giới;
- Tình trạng suy thối mơi trường, biến đổi khí hậu nhất là nước biển dâng,
có những tác động to lớn đến đời sống cộng đồng dân cư và các hoạt động kinh
tế của tất cả các nước.…
Đặt trong bối cảnh quốc tế ấy, VN có thể có cơ hội, thuận lợi mới, có khả
năng mở rộng quan hệ kinh tế và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới
dựa trên các yếu tố: Tiềm năng kinh tế và lợi thế cạnh tranh về tài nguyên, dân
số và nguồn nhân lực dồi dào hơn tất cả các nền kinh tế Đơng Nam Á nào, sự ổn
định chính trị - xã hội, quy mô của nền kinh tế ngày càng được mở rộng, các
doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế đang thích nghi ngày càng tốt hơn với thị
trường thế giới; mức sống của nhân dân có sự gia tăng đáng kể và với khoảng
trên 90 triệu dân vào năm 2020, tiềm năng thị trường trong nước của VN ngày
càng rộng lớn hơn về quy mô với nhu cầu ngày càng cao hơn.
Tuy vậy, VN cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức mới: (i)
Phụ thuộc nhiều hơn vào nền kinh tế thế giới, bởi độ mở của nền kinh tế VN quá
lớn; bất lợi khitham gia vào các hoạt động sản xuất theo chuỗi giá trị toàn cầu;
(ii) Đối mặt với những rủi ro trong kinh doanh, trong cạnh tranh và những nhân
tố gây bất ổn về kinh tế (biến đổi khí hậu, khủng hoảng năng lượng, an ninh
14



lương thực...); và (iii) Những thách thức đối với nền kinh tế VN vẫn còn hiện
hữu (tụt hậu về kinh tế, lạc hậu về trình độ khoa học và cơng nghệ, sự phát triển
thiếu tính bền vững), nguy cơ rơi vào bẫy nước có thu nhập trung bình thấp.
2. Phương hướng, giải pháp thúc đẩy HNKTQT trong giai đoạn mới
2.1.Phương hướng chung, vĩ mô:
- HNKTQT cần gắn kết hơn với đổi mới kinh tế - xã hội trong nước để
nâng cao hiệu quả và tăng cường thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau vì mục tiêu phát triển
chung của đất nước, nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng.
- HNKTQT cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội nhập trong các
lĩnh vực khác như hội nhập văn hóa, chính trị… nhưng HNKTQT phải là trọng
tâm, là nội dung chính và quan trọng nhất của Hội Nhập Quốc Tế.
- HNKTQT phải nhằm thúc đẩy các quan hệ hợp tác song phương, khu
vực, đa phương; tiếp tục nâng cao vị thế, vai trò của VN trên trường quốc tế. Kết
hợp chặt chẽ giữa HNKTQT với yêu cầu giữ vững độc lập tự chủ, chủ quyền và
an ninh quốc phịng; giữ gìn và bảo vệ mơi trường sinh thái...; HNKTQT phải
gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
2.2.Định hướng giải pháp
Thứ nhất, bằng nhiều giải pháp và sức mạnh tổng hợp của quốc gia … bảo
đảm sự ổn định chính trị - xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh kinh
tế. Đồng thời tiếp tục hồn thiện cơ chế chính sách đi đơi với cải cách hành
chính, nâng cao tính hiệu quả của hệ thống chính sách, bộ máy và cơ chế quản
lý. Tiếp tục hoàn thiện các yếu tố Kinh tế Thị trường, thể chế Kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Thứ hai, đổi mới mơ hình tăng trưởng kinh tế, tái cơ cấu nền kinh tế, mà
trọng tâm là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, mà trọng điểm là các tập đồn
kinh tế và tổng cơng ty nhà nước,chấn chỉnh việc đầu tư tràn lan ngồi ngành
khơng hiệu quả, gây thất thốt nhiều nghìn tỷ đồng như Vinashin, Vinalines…
của nhiều tập đoàn Nhà nước như thời gian vưa qua, cần tái cơ cấu đầu tư trọng
tâm là đầu tư công, và tái cơ cấu lại thị trường tài chính mà trọng tâm là tái cơ

cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính
Chuyển đổi căn bản cấu trúc kinh tế truyền thống theo hướng phát triển
kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Thực hiện sản xuất và tiêu dùng sạch,

15


bền vững, “từng bước phát triển năng lượng sạch … phát triển các dịch vụ môi
trường, xử lý chất thải”.
Thứ ba, tập trung nỗ lực vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh ở mọi cấp
độ, trước hết là nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia bằng việc giải quyết “các
nút thắt” của nền kinh tế, đó là: Thể chế, kết cấu hạ tầng và chất lượng nguồn
nhân lực.
Thứ tư, gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng phát triển kinh tế và HNKTQT
với phát triển xã hội và an ninh con người. Ngày nay người ta càng nhận ra rằng
sự lạc hậu về trình độ khoa học, cơng nghệ và kinh tế là mối đe dọa vơ hình đối
với tương lai của mỗi quốc gia. Trong thời đại toàn cầu hóa, sự ổn định, an ninh
của mỗi quốc gia, của mỗi con người sẽ ngày càng gắn chặt với sự phát triển
kinh tế của chính nước đó.
Thứ năm, thực hiện đầy đủ các cam kết và nghĩa vụ đối với WTO, với các
tổ chức kinh tế quốc tế khác mà VN là thành viên, trước mắt, VN cần tham gia
tích cực vào việc hình thành cộng đồng kinh tế Đông Á, theo cơ chế ASEAN +
3 (Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc). Tham gia thúc đẩy hình thành cộng đồng
ASEAN vào năm 2015; Thực hiện mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư
trong APEC cho các nước đang phát triển vào năm 2020 và thực hiện tốt hợp tác
tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS).

16



PHẦN IV. LIÊN HỆ THỰC TẾ TẠI NGÂN HÀNG TMCP
NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM (VIETCOMBANK)
Trong bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhân dịp kỷ niệm
50 năm ngày thành lập Vietcombank có đoạn ghi ” Trong suốt chặng đường 50
năm xây dựng và phát triển, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam luôn là một
Ngân hàng thương mại hàng đầu của nước ta, đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn,
thách thức, hồn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần tích cực vào
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng
như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày nay”.
Lịch sử phát triển bền vững, đầy hiệu quả của Vietcombank trong suốt 50
năm qua được thể hiện qua 4 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1: Khởi đầu trong đấu tranh- tự hào từ lịch sử: giai đoạn 19631975.
Ngày 30/10/1962, Hội đồng chính phủ ban hành nghị định số 115/CP về
việc thành lập Ngân hàng thương mại Ngoại thương VN- Ngân hàng chuyên
doanh ngoại hối. Ngày 01.04.1963 Vietcombank chính thức ra mắt và đi vào
hoạt động, với tư cách là một pháp nhân Ngân hàng thương mại giao dịch trên
thương trường trong nước và quốc tế. Ra đời với 10 nhân sự, 5.000.000 đồng
vốn nhà nước cấp, nhiệm vụ của Vietcombank là: Kinh doanh ngoại hối, thanh
toán quốc tế, tín dụng quốc tế, cho vay ngoại thương, tham gia quản lý ngoại
hối, góp phần bảo vệ tiền và tài sản tài sản Nhà nước, tăng cường và mở rộng
quan hệ kinh tế, chính trị và văn hóa với nước ngoài. Đây thực sự là giai đoạn
đầy cam go, thử thách nhưng cùng hết sức hào hùng của Vietcombank- vừa làm
việc, vừa chiến đấu vì: ra đời và hoạt động chưa đầy hai năm thì cuộc đấu tranh
phá bằng khơng quan của đế quốc Mỹ trên miền Bắc VN bắt đầu. cả nước là
một trận tuyến. Miền Bắc là hậu phương lớn,là niềm tin và hy vọng của miền
Nam, ngày đem lao động thực hiện khẩu hiệu ”mỗi người làm việc bằng hai”,
Vietcombank được giao tài sản thuộc ” quỹ ngoại tệ đặc biệt B29” là dành
riêng cho miền Nam, Vietcombank lại gửi vốn đó ở nước ngồi, tại các Ngân
hàng đại lý quốc tế lớn đáng tin cậy, từ những ngoại tệ đó dung để mua vũ khí,
lương thực, thuốc men…góp phần cùng tồn dân VN chiến thắng đế quốc Mỹ

vang dội 5 Châu, bốn Biển, đưa tên tuổi của việt Nam lên một vị thế chính trị,

17


tạo tiền đề cho kinh tế phát triển trong nước và thơng thương với quốc tế tốt
hơn.

Ơng Trần Dương- Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước (Bên trái)
và ơng Đồn Viết Doãn - Chủ tịch Vietcombank (bên phải) tại Hội nghị IMF và WB
tại Malina năm 1976

Giai đoạn 2: Tái thiết đất nước- phát triển nền tảng quan hệ quốc tế- giai
đoạn 1975-1990
Ở giai đoạn tái thiết đất nước sau chiến tranh, Vietcombank tham gia tiếp quản
các Ngân hàng cũ, xây dựng hệ thống Ngân hàng ngoại thương trên cả nước:
- Thu hồi quyền sở hữu vàng, ngoại tệ của chính quyền cũ.
- Xử lý các khoant ngoại tệ đã chi trả về hàng nhập khẩu.
- Từng bước giải quyết vấn đề tiền tệ.
Trong cơ chế Ngân hàng một cấp và độc quyền kinh doanh ngoại hối
Vietcombank vẫn tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quản lý ngoại hối của Nhà nước,
nhất là trong các mặt hoạt động liên quan đến nghiệp vụ Ngân hàng ngoại hối,
ngân hàng chuyên doanh đối ngoại.
Thời kỳ 1975-1988 là thời kỳ mở rộng một bước đáng kể các mối quan hệ
quốc tế của Vietcombank. Những quan hệ này không chỉ phát triển theo hướng
các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa mà ngày càng mở rộng ra các nước tư bản
chủ nghĩa và các nước độc lập dân tộc, Vietcombank lần lượt thiết lập quan hệ
đại lý với các Ngân hàng ở phần lớn những nước mà Việt Nam có quan hệ kinh
tế. Cho tới cuối thời kỳ này đã có tới 500 đơn vị ngân hàng đại lý của
Vietcombank trên toàn thế giới.


18


Ông Vũ Viết Ngoạn - Tổng giám đốc Vietcombank ký kết Hiệp định với Ngân hàng
Nga có sự chứng kiến của Thủ tướng 2 nước

Vietcombank thời kỳ đó đã đóng góp vai ntrof hết sức quan trọng tháo gỡ
khó khăn sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. không chỉ cho vay và hỗ trợ
doanh nghiệp, Vietcombank còn là đơn vị đầu tiên đưng ra bảo lãnh nhập hàng
trả chậm. Ngân hàng lúc đó khong có nhiều ngoại tệ để cho vay. Giải pháp là
bảo lãnh mua thiếu. do Vietcombank có uy tín với các Ngân hàng nước ngồi và
mạng lưới quan hệ đại lý rộng khắp thế giới đã đứng ra bảo lãnh cho hàng loạt
xí nghiệp. Từ đó, việc “ xé rào” này được lan rộng, hàng trăm cơ sở đã được cho
vay ngoại tệ ngoài kế hoạch. Vietcombank đã đóng góp vào việc giải quyết khó
khăn chung về kinh tế của cả nước.
Giai đoạn 3: Khẳng định vị thế, hội nhập kinh tế- 1990-2007
Từ một tổ chức nhỏ chuyên trách về ngoại tệ phục vụ cho kháng chiến, trải
qua bao thăng trầm của lịch sử, Vietcombank ngày nay khẳng định vị thế là một
trong những Ngân hàng chủ đạo của Quốc gia.
Giai đoạn này, Vietcombank phải đối mặt với một bước ngoặt mới trong
lịch sue phát triển của mình. Chính phủ khuyến khích cạnh tranh giữa các tổ
chức trín dụng nhằm tăng cường nguồn tiết kiệm trong nước và đầu tư.
Vietcombank vượt qua thách thức này bằng cách không ngừng tăng cường
nguồn vốn tiền gửi, đa dạng giạng hóa các hoạt động tín dụng, hiện đại hóa cơng
nghệ Ngân hàng, có chính sách khách hàng hấp dẫn và mạng lưới chi nhánh.
Vietcombank đã có 11 biện pháp cũng là thành tựu trong thời kỳ đổi mới 19901995 là:

19




×