Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Phân tích những thuận lợi của nền kinh tế việt nam trong hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa giai đoạn 2011 2016 và định hướng đến năm 2020, đề xuất giải pháp khai thác thuận lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.51 KB, 27 trang )

I. KHÁI QUÁT VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Khái niệm
Hội nhập quốc tế được hiểu là quá trình các nước tiến hành các hoạt động
tăng cường sự gắn kết với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị,
nguồn lực và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ
chức quốc tế.
Hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thơng thường, địi hỏi sự
chia sẻ và tính ràng buộc cao của các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế,
q trình hội nhập hình thành nên và củng cố các tổ chức quốc tế, thậm chí là
các chủ thế mới của quan hệ quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình hội nhập lấy các mục tiêu về kinh tế
làm cơ bản, dựa trên cơ sở tự do hóa và mở cửa thị trường, đáp ứng các yêu cầu,
quy định chung do các tổ chức kinh tế quốc tế đặt ra.
Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, có đủ thẩm quyền
và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế. Trong hội nhập
kinh tế quốc tế, doanh nghiệp là những đối tượng chịu tác động chính của q
trình hội nhập.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất
(tức là mức độ gắn kết), phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức
(song phương, đa phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.
2. Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thời đại ngày nay
Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, do bản chất xã hội của lao động
và quan hệ giữa con người. Các cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải có quan
hệ và liên kết với nhau tạo thành cộng đồng. Nhiều cộng đồng liên kết với nhau
tạo thành xã hội và các quốc gia-dân tộc. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị
trường đòi hỏi phải mở rộng các thị trường quốc gia, hình thành thị trường khu
vực và quốc tế thống nhất. Đây là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung.
Trên cấp độ tồn cầu, ngay sau Chiến tranh thế giới II, Liên hiệp quốc và
hàng loạt các tổ chức chun mơn ra đời, trong đó có Quỹ Tiền tệ quốc tế và
Ngân hàng Thế giới, với số lượng thành viên gia nhập ngày một nhiều hơn, bao


quát hầu hết các nước trên thế giới. Đây là một tổ chức hợp tác toàn diện, bao
quát hầu hết mọi lĩnh vực và có quy mơ tồn cầu. Trong một số lĩnh vực, Liên
hiệp quốc đã có sự phát triển vượt lên trên sự hợp tác thơng thường và có thể nói
đã đạt đến trình độ ban đầu của hội nhập (lĩnh vực chính trị-an ninh, lĩnh vực
nhân quyền, lĩnh vực tài chính).

-1-


Trong lĩnh vực kinh tế, tiến trình hội nhập tồn cầu được thúc đẩy với việc
ra đời của một định chế đa phương đặc biệt quan trọng, đó Hiệp định chung về
Thương mại và Thuế quan (GATT), sau đó được nối tiếp bằng Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) kể từ năm 1995. Hiện nay, 161 quốc gia và vùng lãnh thổ
đã tham gia với tư cách thành viên chính thức của Tổ chức này, 22 quốc gia
khác đang trong quá trình đàm phán gia nhập. Trong hơn một thập kỷ qua, WTO
đã phát triển mạnh mẽ hệ thống “luật chơi” về thương mại quốc tế, bao quát hầu
hết các lĩnh vực của quan hệ kinh tế giữa các thành viên như hàng hóa, dich vụ,
nơng nghiệp, kiểm dịch động thực vật, dệt may, hàng rào kỹ thuật, đầu tư, sở
hữu trí tuệ, chống bán phá giá, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, các biện
pháp tự vệ, xác định giá trị tính thuế hải quan, giám định hàng hóa, quy tắc xuất
xứ, quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp… Các quy định cơ bản của WTO trở
thành nền tảng của tất cả các thỏa thuận kinh tế khu vực hay song phương trên
thế giới hiện nay.
Ở cấp độ khu vực, khi quá trình đàm phán ở WTO (Vịng Doha) bị chậm
lại, khơng đạt kết quả như mong muốn, các nước quay sang tìm kiếm, thúc đẩy
tự do hóa ở phạm vi nhỏ hơn, trong từng khu vực hoặc thậm chí giữa từng cặp
nước. Hình thức chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế thời gian này là các hiệp
định thương mại tự do (FTA) giữa các nước hoặc một nhóm nước. Thậm chí từ
một hạt nhân liên kết đã có lại có thể nảy sinh ra các mối liên kết mới, như
trường hợp ASEAN và các đối tác (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ,

Úc, New Zealand), v.v…
Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế lớn và một đặc
trưng quan trọng của thế giới hiện nay. Xu thế này chi phối toàn bộ quan hệ kinh
tế quốc tế và làm thay đổi to lớn cơ cấu sản xuất, thương mại của thế giới cũng
như bản thân các chủ thể và mối quan hệ giữa chúng.
3. Các cấp độ hội nhập kinh tế quốc tế
Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế được chia thành một số
hình thức cơ bản từ thấp đến cao như sau:
(i) Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Các nước thành viên dành cho
nhau các ưu đãi thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, nhưng còn hạn chế
về phạm vi (số lượng các mặt hàng đưa vào diện cắt giảm thuế quan) và mức độ
cắt giảm. Hiệp định PTA của ASEAN (1977), là ví dụ cụ thể của mơ hình liên
kết kinh tế ở giai đoạn thấp nhất.
(ii) Khu vực thương mại tự do (FTA): Các thành viên phải thực hiện việc
cắt giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và các hạn chế về định lượng (có thể
bao gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng rào phi thuế quan) trong thương mại
hàng hóa nội khối, nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập đối với các
nước ngồi khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu (EFTA), Khu vực mậu
-2-


dịch tự do bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Những
năm gần đây, phần lớn các hiệp định FTA mới có phạm vi lĩnh vực điều tiết
rộng hơn nhiều. Ngồi lĩnh vực hàng hóa, các hiệp định này cịn có những quy
định tự do hóa đối với nhiều lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ,
mua sắm chính phủ… Ví dụ: Hiệp định FTA giữa ASEAN với Úc-Niudilân
(2009), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP).
(iii) Liên minh thuế quan (CU): Các thành viên ngoài việc cắt giảm và loại
bỏ thuế quan trong thương mại nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách
thuế quan chung đối với các nước bên ngồi khối. Ví dụ: Nhóm ANDEAN và

Liên minh thuế quan Nga-Bêlarút-Cadăcxtan.
(iv) Thị trường chung (hay thị trường duy nhất): Ngoài việc loại bỏ thuế
quan và hàng rào phi quan thuế trong thương mại nội khối và có chính sách thuế
quan chung đối với ngồi khối, các thành viên cịn phải xóa bỏ các hạn chế đối
với việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác (vốn, lao động…) để tạo thành
một nền sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Liên minh châu Âu đã trải qua giai
đoạn xây dựng thị trường duy nhất (Thị trường chung châu Âu) trước khi trở
thành một liên minh kinh tế.
(v) Liên minh kinh tế: Là mơ hình hội nhập kinh tế ở giai đoạn cao nhất dựa
trên cơ sở một thị trường chung/duy nhất cộng thêm với việc thực hiện chính
sách kinh tế và tiền tệ chung (một đồng tiền chung, ngân hàng trung ương thống
nhất của khối). Ví dụ: EU hiện nay.
Một nước có thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập với tính
chất, phạm vi và hình thức khác nhau. Hội nhập kinh tế là nền tảng hết sức quan
trọng, được các nước ưu tiên thúc đẩy giống như một đòn bẩy cho hợp tác và
phát triển trong bối cảnh tồn cầu hóa.
II. Q TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
Việt Nam đang bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu sắc và tồn
diện hơn bao giờ hết. Tính đến nay, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với
185/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu
tư với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên tích cực của trên 70 tổ
chức khu vực và quốc tế, đóng vai trị quan trọng trong Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) và nhiều cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc. Việc
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đã đưa quá
trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu vực (ASEAN năm 1995) và liên khu
vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) lên đến cấp độ toàn cầu. Chặng đường
30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là một quá trình nỗ lực bền bỉ của đất nước.
Mười năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt
Nam phải đối mặt trước những khó khăn thử thách hết sức nghiêm trọng: nền
-3-



kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng gay gắt, an ninh quốc gia bị đe dọa bởi
tình trạng vừa có hịa bình, vừa có chiến tranh, các thế lực đế quốc thù địch xiết
chặt bao vây cấm vận, quan hệ đối ngoại bị thu hẹp. Bởi vậy, bước vào thời kỳ
đổi mới (1986), Việt Nam đứng trước đòi hỏi cấp bách mang ý nghĩa sinh tử là
phải tìm cách thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế bị bao vây
cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường đã lựa chọn.
Trong bối cảnh đó, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng và
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam đã có những điều chỉnh
cơ bản về chính sách đối ngoại. Theo đó, cùng với chủ trương bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam coi trọng cải thiện quan hệ với các
nước láng giềng Đông Nam Á, tạo mơi trường quốc tế hồ bình, ổn định ở khu
vực, thuận lợi cho phát triển đất nước.
Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của
ASEAN. Gia nhập ASEAN trở thành bước đột phá trong chính sách đối ngoại và
hội nhập quốc tế của Việt Nam, cho thấy rõ ưu tiên của Việt Nam đối với khu
vực. Từ sau sự kiện này, Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập khu vực mạnh
mẽ, đồng thời cải thiện rõ rệt thế và quan hệ với các nước lớn. Nói cách khác, nếu
khơng là thành viên ASEAN, quan hệ của Việt Nam với các nước lớn khó có thể
phát triển như thực tế đã diễn ra.
Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam nỗ lực thực hiện đầy đủ mọi cam kết
và trách nhiệm của một nước thành viên, chủ động đưa ra những sáng kiến nhằm
thúc đẩy hợp tác khu vực, hoàn thành nhiều trọng trách trước Hiệp hội. Việt
Nam tiếp tục mở rộng quan hệ nhiều mặt, trên nhiều tầng nấc trong khuôn khổ
đa phương và song phương, đóng góp thiết thực vào q trình hợp tác liên kết
ASEAN hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với ba
trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội.
ASEAN là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam.
Năm 2014, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đạt 19,121 tỷ USD, tương

đương 12,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Giá trị nhập khẩu từ ASEAN đạt
22,998 tỷ USD, chiếm 15,5% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước. Tính đến hết
tháng 9 năm 2014, tổng vốn đầu tư trực tiếp đăng ký của ASEAN tại Việt Nam
khoảng 51,83 tỷ USD, chiếm trên 21,4% tổng vốn đầu tư nước ngồi đăng ký tại
Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam còn tham gia với tinh thần trách nhiệm cao
vào các cơ chế hợp tác đa phương của ASEAN với các đối tác bên ngoài như:
ASEAN+1, ASEAN+3, Hợp tác Á-Âu (ASEM), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á,
Hợp tác 4 nước CLMV, Hợp tác tiểu vùng Mekong.
Bên cạnh việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, Việt
Nam còn năng động cải thiện quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn và các
tổ chức quốc tế trong quá trình hội nhập.
-4-


Bình thường hố quan hệ với Mỹ là một hướng lớn trong hoạt động đối
ngoại của Việt Nam. Quan hệ với Mỹ có ý nghĩa chiến lược đối với yêu cầu an
ninh và phát triển của nước ta. Cải thiện mối quan hệ hai nước góp phần củng cố
vị thế quốc tế của Việt Nam, tác động tác động mạnh mẽ đến quan hệ của tất cả
các nước khác, nhất là các nước phương Tây đối với Việt Nam, thúc đẩy quan
hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, từng bước đi vào thị
trường rộng lớn của Mỹ, tranh thủ khoa học kỹ thuật tiên tiến, nguồn vốn đầu
tư... Năm 1994, chính quyền Mỹ huỷ bỏ cấm vận chống Việt Nam và tháng
11/7/1995 bình thường hố quan hệ với Việt Nam. Sau bình thường hóa, quan
hệ Việt - Mỹ có nhiều tiến triển thuận lợi. Quan hệ kinh tế - thương mại, khoa
học - công nghệ được thúc đẩy. Hai nước đã ký Hiệp định thương mại năm 2000
và năm 2006, chính quyền Mỹ chính thức ban hành đạo luật về thiết lập Quy chế
quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam, đánh dấu việc
bình thường hóa hồn tồn quan hệ song phương giữa hai nước, tạo thuận lợi
cho Việt Nam gia nhập WTO. Năm 2014 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng
hóa hai chiều của Việt Nam và Hoa Kỳ đạt gần 35 tỷ USD, trong đó, kim ngạch

xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt 28,655 tỷ USD, tăng 20,2% so với cùng kỳ
năm 2013 và xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam đạt 6,284 tỷ USD, tăng
20,1%[7]. Hiện Mỹ đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Với Trung Quốc, năm 2014, kim ngạch thương mại song phương đạt 58,773
tỷ USD, tăng 17 % so với cùng kỳ năm 2013, chiếm khoảng 19,7% tổng kim
ngạch ngoại thương của Việt Nam.
Hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về phân định
vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá
trong vịnh Bắc Bộ. Trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam đã quán triệt tốt
phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh đối với những vấn đề cịn bất đồng và
tranh chấp thì kiên trì lập trường nguyên tắc và sự độc lập tự chủ của mình.
Đối với Liên bang Nga, Việt Nam đã chủ động đề ra những biện pháp
nhằm duy trì và thúc đẩy quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, kể cả an ninh quốc
phòng. Hai nước đã xác lập mối quan hệ đối tác chiến lược (2001), cùng với một
loạt các hiệp định về hợp tác kinh tế - thương mại, khoa học kỹ thuật, dầu khí,
khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tổ hợp công nông nghiệp. Kim ngạch buôn bán
giữa hai nước và đầu tư của Nga vào Việt Nam có chiều hướng tăng. Năm 2014,
kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 2,547 tỷ USD.
Bên cạnh quan hệ chính trị tốt đẹp, hợp tác về kinh tế, thương mại, khoa
học kỹ thuật, an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Ấn Độ có bước phát triển
thể hiện sự tin cậy lẫn nhau. Hai nước ký Tuyên bố chung về Đối tác chiến lược
mới (7/2007). Từ năm 2007, Ấn Độ đã lọt vào nhóm 10 nước có vốn đầu tư lớn
-5-


nhất ở Việt Nam, đồng thời Việt Nam cũng trở thành nước tiếp nhận FDI lớn
nhất từ Ấn Độ ở Đơng Nam Á. Tính đến tháng 8/2015, Ấn Độ có 111 dự án đầu
tư còn hiệu lực với tổng số vốn đạt 529,05 triệu USD. Quan hệ thương mại Việt
Nam - Ấn Độ tăng lên nhanh chóng, từ hơn 1 tỷ USD năm 2006 đã tăng lên 25,6

tỷ USD năm 2014.
Việt Nam tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản, nhất
là trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du
lịch, chuyển giao cơng nghệ. Hiện nay Nhật Bản là bạn hàng lớn nhất, là nước
cung cấp viện trợ phát triển nhiều nhất và đầu tư lớn ở Việt Nam. Quan hệ Việt
Nam - Nhật Bản hiện vẫn năng động tiến vững trên đường hướng tới đối tác
chiến lược vì hịa bình và phồn vinh ở châu Á.
Với Liên minh châu Âu (EU), Việt Nam đã ký với hầu hết các nước EU
Hiệp định khung về hợp tác, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần... tạo cơ sở pháp lý cho xây dựng và phát triển mối
quan hệ hợp tác ổn định, lâu dài. Hiện nay EU trở thành đối tác thương mại hàng
đầu của Việt Nam, là thị trường tiêu thụ những sản phẩm xuất khẩu trọng điểm
của Việt Nam như dệt may, giày dép, thủy sản, điện thoại di động.

Nhìn tổng quát, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã xúc tiến
với bước đi khá vững chắc và đạt được kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Việt
Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu vực, trở thành
-6-


thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo điều kiện thuận lợi
cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn.
III. CÁC FTA THẾ HỆ MỚI VIỆT NAM ĐANG ĐÀM PHÁN VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG ĐÀM PHÁN CÁC FTA THẾ HỆ
MỚI ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1. Các FTA thế hệ mới Việt Nam đã tham gia
Kể từ khi Việt Nam tuyên bố chính thức tham gia đàm phán Hiệp định TPP
vào tháng 11 năm 2010, cho đến nay, Việt Nam đã và đang đàm phán các FTA
với các đối tác sau: với Hàn Quốc (VKFTA), với Liên minh Hải quan NgaBelarut-Cadacxtan (VCUFTA), TPP, với Khối Thương mại tự do Châu Âu
(EFTA), với Liên minh Châu Âu (EVFTA) và cùng các nước thành viên

ASEAN đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với 6
nước Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ơt-xtray-lia và Niu
Dilan).
Q trình đàm phán các hiệp định đều đang được các bên tham gia tích cực
triển khai, trong đó, ngày 10 tháng 12 năm 2014, Hội nghị Cấp cao kỷ niệm
ASEAN- Hàn Quốc được tổ chức tại Busan (Hàn Quốc) nhân dịp 25 năm thiết
lập quan hệ đối thoại ASEAN- Hàn Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc đã ký Biên
bản thoả thuận về kết thúc đàm phán Hiệp định VKFTA theo đúng kế hoạch mà
Lãnh đạo Cấp cao hai nước đặt ra. Ngày 15 tháng 12 năm 2014, trong khuôn
khổ Phiên đàm phán thứ 8 của Hiệp định VCUFTA được tổ chức tại Phú Quốc
(Kiên Giang), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự và chứng
kiến lễ ký tuyên bố chung về kết thúc đàm phán hiệp định giữa Bộ trưởng Bộ
Cơng Thương – Trưởng đồn đàm phán phía Việt Nam và Bộ trưởng phụ trách
thương mại của Ủy ban Kinh tế Á Âu – Trưởng đồn đàm phán phía Liên minh
Hải quan.
Các FTA nêu trên mà Việt Nam đang tham gia đàm phán đều có các đặc
trưng nhất định, trong đó xét về đối tác, phạm vi chủ yếu, mức độ tư do hóa và
mức độ tác động thì có thể chia thành hai nhóm là: (i) nhóm truyền thống
(VKFTA, VCUFTA, RCEP) với đặc trưng về đối tác truyền thống, phạm vi điều
chỉnh chủ yếu là thương mại hàng hóa, tương đối tự do hóa và tác động chủ yếu
đến xuất nhập khẩu; và (ii) nhóm mới (TPP, EVFTA, Việt Nam-EFTA) với các
đối tác mới, phạm vi điều chỉnh rộng bao trùm các lĩnh vực, mức độ tự do hóa
mạnh, có khả năng tác động đến thị trường và thể chế.
Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu, Ban soạn thảo tập trung các FTA
mới với hiệp định TPP và EVFTA.

-7-


1.1. Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)

Lịch sử hiệp định
Tiền thân của TPP là Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình
Dương được ký kết ngày 03 tháng 6 năm 2005 giữa bốn nước Bru-nây, Chi-lê,
Niu Dilan và Singapore, còn được gọi tắt là Hiệp định P4. Tháng 9 năm 2008,
Hoa Kỳ tuyên bố tham gia TPP, tuy nhiên, Hoa Kỳ không "gia nhập" TPP cũ mà
cùng các bên đàm phán một FTA mới và vẫn lấy tên gọi là Hiệp định TPP.
Tháng 11 năm 2008, Ôt-xtray-lia và Pê-ru tham gia TPP. Đầu năm 2009, Việt
Nam được mời tham gia với tư cách thành viên liên kết. Sau 3 phiên đàm phán,
tháng 11 năm 2010, Việt Nam quyết định tham gia chính thức. Trước đó, tháng
10 năm 2010, Malaysia cũng tham gia vào TPP, nâng tổng số thành viên lên 9
nước.
Tháng 12 năm 2012, Canada và Mehico được chấp nhận tham gia đàm
phán TPP. Vào cuối tháng 7 năm 2013, Nhật Bản chính thức tham gia, đưa tổng
số thành viên TPP hiện nay là 12 nước.
Mục tiêu của TPP
TPP được kỳ vọng là mô hình mới về hội nhập và hợp tác kinh tế khu vực,
tạo thuận lợi tối đa cho thương mại và đầu tư và nếu có thể thì trở thành hạt
nhân để hình thành FTA chung cho tồn khu vực APEC. TPP hướng tới mục
tiêu thiết lập một FTA khu vực nhằm thúc đẩy và mở rộng tự do hóa thương mại
tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương, nhưng có thể có hiệu ứng lan tỏa đối với
hội nhập kinh tế khu vực ở mức độ rộng lớn hơn. Năm 2011, tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của các nước TPP là 20 nghìn tỷ USD, trong đó Hoa Kỳ chiếm
¾ giá trị này.
Với trọng tâm hướng về Châu Á, Hoa Kỳ đã dẫn đầu việc mở rộng TPP và
khuyến khích các nước APEC khác cùng tham gia đàm phán Hiệp định. Hoa Kỳ
cho rằng TPP cần phải được mở rộng để bao trùm các vấn đề liên quan đến hợp
tác kinh tế và giải quyết những thách thức kinh tế của thế kỷ 21. Mỗi nước tham
gia đàm phán TPP đều có các mục tiêu riêng: Một là, đi đường ngắn nhất để đạt
lợi ích cao nhất (cùng lúc có quan hệ thương mại tự do với nhiều nước). Hai là,
chuyển trọng tâm từ tiến trình đa phương sang khu vực và sử dụng tiến triển

trong đàm phán khu vực để tác động trở lại đàm phán đa phương. Ba là, thông
qua TPP để thiết lập quan hệ thương mại tự do (FTA) với Hoa Kỳ và khai thác
thị trường rộng lớn này.
Vì vậy, quá trình đàm phán TPP hiện nay đang diễn ra trong tất cả các lĩnh
vực thuộc phạm vi điều chỉnh của hiệp định bao gồm thương mại hàng hóa,
thương mại dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ (TPRs), thương mại và mơi
trường, lao động và cơng đồn, dịch vụ tài chính, dịch vụ viễn thông, thương
-8-


mại điện tử, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ, dệt may, hàng rào kỹ
thuật và các vấn đề quy định khác.
Vị trí của Việt Nam trong TPP
Việt Nam có vai trị tương đối quan trọng đối với các nước trong đàm phán
TPP. Trước hết, Việt Nam là đối tác thương mại có quy mơ thị trường đáng kể
với hơn 90 triệu dân. Thứ hai, Việt Nam đang có vai trò ngày càng nổi bật trong
khu vực và trên thế giới, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang cùng các nước
thành viên ASEAN đẩy nhanh việc hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng
Kinh tế ASEAN vào năm 2015 và Việt Nam đang tích cực, chủ động hợp tác
với các đối tác trên thế giới thông qua các khuôn khổ và cơ chế hợp tác khác
nhau. Thứ ba, Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp và thu nhập
trung bình thấp. Việc Việt Nam có thể tham gia thành cơng vào TPP sẽ là bằng
chứng thuyết phục các nước có trình độ phát triển kinh tế chưa cao cùng tham
gia vào TPP. Ngay cả với Ơt-xtray-lia, Niu Dilan và Singapore là những nước
có quan hệ thương mại tự do với Việt Nam, việc nước ta tham gia TPP cũng
mang lại nhiều lợi ích, nhất là trong các lĩnh vực mà Việt Nam chưa có nhiều
cam kết với các nước này như dịch vụ và đầu tư.
Lợi ích của Việt Nam khi tham gia TPP
Về tổng thể, việc tham gia TPP giúp Việt Nam có các lợi ích tổng thể như:
cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu cân bằng hơn và có lợi thế trong trung hạn

trước nhiều đối thủ cạnh tranh khi xâm nhập thị trường Hoa Kỳ; có thêm điều
kiện tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút các nguồn lực từ bên ngoài để phục vụ
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc đổi mới; thêm cơ hội tham
gia vào q trình hợp tác, phân cơng lao động khu vực; tham gia các chuỗi sản
xuất, chuỗi phân phối khu vực và quốc tế; thu hút đầu tư, công nghệ tiên tiến từ
các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia... ; góp phần nâng cao vị thế của nước ta
trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và quốc tế; có thêm điều kiện bảo
đảm tốt hơn các yếu tố an ninh, quốc phịng.
Xét về lợi ích kinh tế, tham gia TPP có thể giúp ta có thêm cơ hội để tái cơ
cấu nền kinh tế, hoàn thiện mơi trường kinh doanh theo hướng thơng thống,
minh bạch và dễ dự đoán hơn, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp và thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngồi. Đây là tác động mang
tính dài hạn rất quan trọng.
Xét về lợi ích xã hội, việc tham gia TPP sẽ tạo ra các cơ hội giúp nâng cao
tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và góp
phần xố đói giảm nghèo; thơng qua tăng trưởng kinh tế sẽ có thêm nguồn lực
để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe cộng đồng...

-9-


Xét về lợi ích thể chế, việc tham gia TPP giúp Việt Nam tiếp tục hồn thiện
khn khổ pháp lý về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ...qua đó góp
phần nâng cao tính cạnh tranh của mơi trường kinh tế Việt Nam.
Thách thức đối với Việt Nam khi tham gia TPP
Việc tham gia TPP cũng mang lại cho Việt Nam những thách thức chủ yếu:
(i) rủi ro về mở cửa thị trường và cạnh tranh, chủ yếu là do sức cạnh tranh của
nền kinh tế và của các doanh nghiệp còn yếu, khả năng quản lý còn nhiều bất
cập. Nếu khơng có sự chuẩn bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ
gặp khó khăn; (ii) tác động về xã hội vì tự do hóa thương mại có thể dẫn tới phá

sản và tình trạng thất nghiệp ở các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu.
Tuy nhiên, do nhập khẩu từ Hoa Kỳ và các nước TPP chưa có FTA với ta là
khơng lớn (nhập khẩu từ Hoa Kỳ, Chi-lê và Pê-ru chỉ chiếm chưa đầy 4% tổng
kim ngạch nhập khẩu) nên nếu có thể đàm phán một lộ trình giảm thuế hợp lý,
kết hợp với hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, ta có thể xử lý được các tác động
tiêu cực nảy sinh do tham gia TPP; (iii) điều chỉnh hệ thống pháp luật, để thực
thi cam kết trong TPP, đòi hỏi phải điều chỉnh, sửa đổi nhiều quy định pháp luật
về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ, lao động, cơng đồn …
1.2. FTA giữa Việt Nam và EU (EVFTA)
Phiên đàm phán thứ nhất của Hiệp định EVFTA đã được tổ chức vào tháng
10 năm 2012 tại Hà Nội sau khi hai bên chính thức khởi động đàm phán hiệp
định này vào tháng 6 năm 2012. Hiệp định được kỳ vọng khơng chỉ giúp xóa bỏ
90% dịng thuế đối với hàng hóa Việt Nam vào EU mà cịn có thể tăng nguồn
vốn đầu tư từ EU vào Việt Nam. Trong ASEAN, Việt Nam là đối tác thứ ba (sau
Singapore và Malaysia) mà EU tiến hành đàm phán FTA. Trên thực tế, EU đã
ký kết và thực hiện nhiều FTA với các đối tác thương mại có điều kiện và trình
độ phát triển gần giống với Việt Nam. Riêng đối với thị trường EU, bất kỳ nước
nào khi đàm phán FTA cũng cần quan tâm đến một số đặc trưng như sau: thứ
nhất, về thương mại hàng hóa, EU thường cam kết miễn thuế nhập khẩu đối với
hầu hết các dòng sản phẩm và dịch vụ của mình để đổi lại mức cam kết tương
ứng của đối tác. Tuy nhiên, các nhà đàm phán EU thường kiên quyết giữ các
dịng thuế đối với sản phẩm nơng nghiệp và thủy hải sản. Vì vậy, EU có thể
hoặc khơng đòi hỏi quá cao với các đối tác về việc mở cửa thị trường nông sản
tương ứng, hoặc chấp nhận nhượng bộ ở những vấn đề khác để bù đắp việc này.
Ngoài ra, trong khi EU chấp nhận mở cửa ngay thị trường của mình cho đối tác,
khối này thường chấp nhận cho đối tác một lộ trình hồn tất việc cắt giảm thuế
tương đối dài (khoảng 10-12 năm, đôi khi tới 15 năm). Thứ hai, EU không quá
chú trọng tới độ dài của danh mục mở thị trường dịch vụ của đối tác mặc dù
thúc đẩy mức độ mở cửa cao. Thay vào đó, EU chỉ tập trung vào việc tăng
cường điều kiện gia nhập thị trường và hoạt động dịch vụ của các nhà cung cấp

- 10 -


EU trong một số lĩnh vực dịch vụ cụ thể. Thứ ba, những vấn đề khác về các rào
cản phi thuế quan (TBT, SPS, chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, hải
quan…) các FTA của EU đều có xu hướng tuân thủ các nguyên tắc trong WTO
và chỉ bổ sung các cơ chế hợp tác nhằm giải quyết nhanh những bất động, tạo
thuận lợi cho thương mại. Điều này không tạo thêm gánh nặng cam kết cho
những đối tác như Việt Nam mà còn mở ra những cơ hội để xử lý những khó
khăn mà các nhà xuất khẩu Việt Nam thường gặp phải. Thứ tư, liên quan đến
các vấn đề về sở hữu trí tuệ, các FTA của EU thường không ràng buộc đối tác
mức bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cao hơn mức WTO ở mọi khía cạnh mà tập
trung các yêu cầu vào những điểm mà khối này có thế mạnh như bản quyền,
thiết kế và chỉ dẫn địa lý đối với các loại rượu, giăm bơng, pho mát.
Lợi ích đối với Việt Nam
EVFTA là một hiệp định thương mại tự do toàn diện. Xét cả về phạm vi và
mức độ cam kết, hiệp định này đi xa hơn nhiều so với WTO, bao gồm cam kết
không chỉ trong các lĩnh vực truyền thống như thương mại hàng hóa, dịch vụ mà
cịn cả đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm cơng, chính sách cạnh tranh... Xét về nội
dung đàm phán thì hiệp định này phức tạp tương đương với TPP vì EU là đối tác
lớn trong thương mại quốc tế nên mức độ quan tâm cũng tương tự Hoa Kỳ.
Tính đến hết năm 2011, EU là đối tác FDI hàng đầu của Việt Nam với
1.687 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký là 32,85 tỷ USD và thực hiện là
13,07 tỷ USD. Hiện có 22/27 nước thành viên EU có dự án đầu tư vào Việt Nam
và tham gia vào tất cả các ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam nhưng tập
trung nhiều nhất vào các ngành công nghệ cao, bưu chính viễn thơng, tài chính,
bán lẻ và văn phịng cho thuê. EVFTA là cú huých quan trọng đối với xuất khẩu
của Việt Nam với quy mô khoảng 500 triệu người tiêu dùng và GDP đạt hơn
17000 tỷ USD, EU là thị trường mơ ước đối với bất kỳ nước nào. Hiện tại, xuất
khẩu của Việt Nam sang EU mới chiếm khoảng 0,75% tổng kim ngạch nhập

khẩu của EU, trong đó, chỉ 40% được hưởng thuế 0%, 60% cịn lại phải chịu các
mức thuế khác nhau. Khi EVFTA trở thành hiện thực, hàng xuất khẩu của Việt
Nam sẽ có cơ hội lớn để thâm nhập hoặc tăng thị phần trên thị trường này do
thuế nhập khẩu vào EU giảm xuống.
Với chuẩn mực dự kiến khá cao về minh bạch hóa và thuận lợi hóa,
EVFTA chắc chắn sẽ góp phần cải thiện môi trường kinh doanh ở nước ta theo
hướng thuận lợi, cởi mở và thơng thống hơn, từ đó sẽ thúc đẩy hoạt động kinh
doanh và đầu tư trực tiếp từ EU và các nước khác vào Việt Nam. Với quy mô và
tiềm năng đầu tư của EU, Việt Nam cịn có cơ hội trở thành địa bàn trung
chuyển, kết nối hoạt động thương mại và đầu tư của EU tại khu vực ASEAN.
Điều này sẽ hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi
mơ hình tăng trưởng của Việt Nam. Tham gia FTA với EU cũng giúp Việt Nam
- 11 -


đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, tránh phụ thuộc quá mức vào khu vực
Đông Á. Do gần gũi về vị trí địa lý, Đơng Á vốn đã chiếm tỷ trọng khá lớn trong
kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Việc 7 trong số 8 FTA đã ký là ký với
các nước Đông Á càng làm cho tỷ trọng này trở nên lớn hơn. Hiệp định EVFTA,
tương tự như Hiệp định TPP, sẽ giúp Việt Nam có được cơ cấu thị trường xuất
nhập khẩu cân đối hơn.
Với 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (năm 1990) và 20 năm ký Hiệp
định khung về hợp tác (năm 1995), quan hệ giữa Việt Nam và EU đã có những
chuyển biến tích cực từ chính trị ngoại giao là chủ yếu sang hình thức hợp tác
năng động hơn, vừa song phương, vừa đa phương, từ tiếp nhận viện trợ sang
hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ... trên cơ sở hai Bên
cùng có lợi. Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, năm 2013, EU đã trở thành thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 24,33 tỷ USD, tăng
19,8% so với năm 2012 và chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của
nước ta, với một số mặt hàng chủ lực vào thị trường EU chiếm tỷ trọng cao như

điện thoại nguyên chiếc, linh kiện điện thoại, giày dép, máy tính và linh kiện
điện tử, hàng dệt may.
Bảng: Thống kê kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng của Việt Nam – EU
Đơn vị: tỷ USD/ Nguồn: Tổng cục Thống kê

Mặt hàng

Năm 2012

Năm 2013

Tháng 3/2014

Điện thoại và linh kiện
điện thoại

5,48

8,07

1,85

Giày dép các loại

2,63

2,94

0,17


Hàng dệt may

2,41

2,69

0,61

Máy tính và linh kiện máy
tính

1,52

2,2

0,4

Cà phê

1,25

1,06

0,48

Quan hệ thương mại giữa hai Bên vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn
có, vì vậy, việc ký kết EVFTA sẽ mở ra trang sử mới thúc đẩy quan hệ hợp tác
giữa Việt Nam và EU. Nhân chuyến thăm và làm việc tại EU vào tháng 10 năm
2014, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Ủy ban Châu Âu đã
ra Tuyên bố chung về định hướng kết thúc đàm phán EVFTA trong đầu năm

2015. Theo đó, hai Bên mong muốn xây dựng FTA này trở thành một hiệp định
hiện đại, toàn diện và cân bằng để giúp nền kinh tế của cả hai Bên giải quyết các
thách thức hiện nay và cả các thách thức trong tương lai, tạo nền tảng quan trọng

- 12 -


góp phần tăng cường quan hệ giữa châu Âu và Đơng Nam Á. Thơng qua hiệp
định này, Việt Nam có thể đạt được một số lợi ích quan trọng như:
Thứ nhất là khả năng tiếp cận thị trường dễ dàng hơn do thuế quan đối với
90% dòng thuế được loại bỏ, mang lại lợi ích thiết thực cho các ngành hàng chủ
lực của Việt Nam như dệt may, giày dép, chế biến thực phẩm cùng với kỳ vọng
tăng trưởng đáng kể của thương mại dịch vụ.
Thứ hai, hiệp định góp phần tạo ra môi trường kinh doanh và đầu tư thơng
thống và cởi mở hơn, thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài từ EU và các nước
khác vào Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nhiều công ty EU lựa chọn Việt
Nam là địa điểm đầu tư tốt, chi phí lao động của EU khá cao nên khó cạnh tranh
trên thị trường quốc tế, trong khi cơ cấu chi phí của các cơng ty Việt Nam khá
hấp dẫn. Thơng qua hiệp định, các cơng ty của Việt Nam có cơ hội tiếp cận tri
thức và phương thức sản xuất hiện đại của Châu Âu, góp phần tăng khả năng
cạnh tranh trên thị trường. Hiệp định cũng sẽ thúc đẩy dòng vốn FDI của EU
chảy vào các ngành dịch vụ chất lượng cao như dịch vụ vụ tài chính ngân hàng,
bảo hiểm, năng lượng, viễn thông, cảng biển, vận tải biển... Việt Nam có cơ hội
trở thành cửa ngõ cho các hoạt động thương mại đầu tư của EU tại khu vực
ASEAN, góp phần tích cực cho q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới
mơ hình tăng trưởng của Việt Nam.
Thứ ba, hàng hóa của EU xuất khẩu sang Việt Nam sẽ tăng lên, tạo sự cạnh
tranh trên thị trường nội địa, mang lại nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng
trong nước với các sản phẩm chất lượng tốt và giá cả cạnh tranh.
Thứ tư, EVFTA có các điều khoản về lao động và cơng đồn, do đó việc

hiệp định được ký kết sẽ mở ra giai đoạn mới trong việc thúc đẩy, nâng cao các
tiêu chuẩn lao động ở Việt Nam theo hướng phù hợp hơn với các tiêu chuẩn lao
động quốc tế. Người lao động có thêm cơ hội việc làm và tiền lương khi đầu tư
nước ngồi lớn và xuất khẩu hàng hóa tăng.
Thách thức đối với Việt Nam
Là một đối tác lớn trong thương mại quốc tế, EU thường đặt ra những yêu
cầu tự do hóa rất cao. Việt Nam sẽ phải đưa thuế nhập khẩu về 0% đối với đa số
các dòng thuế, mở cửa thêm thị trường dịch vụ so với cam kết WTO và có khả
năng phải mở cửa thị trường mua sắm cơng. Vì vậy, sức ép cạnh tranh chắc chắn
sẽ tăng lên. Bên cạnh đó, do EU đề cao nguyên tắc minh bạch hóa, thuận lợi
hóa, nhiều quy định trong nước về quản lý kinh doanh và đầu tư chắc cũng phải
sửa đổi. EU cũng rất quan tâm đến mơi trường cạnh tranh bình đẳng, trong đó có
vấn đề trợ cấp và doanh nghiệp nhà nước. Đây cũng là thách thức đối với Việt
Nam.

- 13 -


Trong lĩnh vực hàng hóa, sức ép cạnh tranh sẽ không quá lớn do cơ cấu
xuất nhập khẩu của Việt Nam và EU mang tính bổ trợ cho nhau nhiều hơn là
cạnh tranh. Trong lĩnh vực dịch vụ, do cam kết của Việt Nam tại WTO về cơ
bản đã khá thơng thống nên sức ép của việc mở cửa thêm cũng không nhiều.
Riêng trong lĩnh vực mua sắm công, nếu chấp nhận mở cửa, thì đây là lần đầu
tiên Việt Nam mở lĩnh vực này, vì vậy, quá trình đàm phán cần xem xét kỹ
lưỡng nội dung này.
Có thể nói trong hiệp định EVFTA, việc xem xét lợi ích và thách thức cần
được nhìn nhần ở nhiều khía cạnh khác nhau, như chuyên gia kinh tế Phạm Chi
Lan đã cho rằng lợi ích của EVFTA khơng chỉ ở cán cân xuất nhập khẩu và
thách thức không chỉ từ cạnh tranh. Ngay cả sau khi có FTA, Việt Nam trở
thành nước nhập siêu trong quan hệ thương mại với EU thì điều này cũng tốt

cho Việt Nam nếu xem xét ở nguồn cung chất lượng cao và bền vững thay vì tập
trung nhập khẩu hàng hóa kém chất lượng, cơng nghệ lạc hậu từ Trung Quốc
như hiện nay. Có thể lấy ví dụ trường hợp của Mexico khi ký kết FTA với EU.
Hiệp định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2010 và Mexico là một nước
đang phát triển định hướng xuất khẩu. Cho đến nay, FTA này đã được thực thi
hơn 10 năm với nhiều biến động trong thương mại quốc tế. Số liệu thống kê cho
thấy thương mại hai chiều đã tăng trên 207% sau 9 năm thực thi hiệp định với
mức tăng trưởng xuất khẩu từ Mexico sang EU là 228% và mức tăng trưởng
thương mại từ EU sang Mexico là 196%. Mặc dù mức tăng trưởng xuất khẩu từ
Mexico sang EU mạnh hơn nhưng sau 10 năm thực thi FTA, Mexico vẫn là
nước nhập siêu và giá trị nhập siêu tăng lên theo thời gian. Tuy nhiên, Mexico
không cho rằng đây là tác động tiêu cực trong quan hệ thương mại với EU mà
họ quan tâm đến việc tăng kim ngạch xuất khẩu vào EU, mua sắm thiết bị công
nghệ tốt từ EU với chi phí hợp lý, có thêm nguồn ngun liệu dồi dào và có chất
lượng hơn như sắt thép, nhựa, hóa chất hữu cơ... để gia tăng sản xuất và xuất
khẩu hàng hóa sang thị trường chính của Mexico là Hoa Kỳ.
Trên thực tế, việc tham gia EVFTA hay bất kỳ hiệp định thương mại tự do
nào đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là tăng cường hội nhập kinh tế, mang lại
lợi ích thiết thực nhất cho các quốc gia, doanh nghiệp và các bên liên quan. Vì
vậy, để tận dụng tối đa các lợi ích và hạn chế các tác động tiêu cực trong nước,
Việt Nam phải tiến hành cải cách quản lý ở cấp độ quốc gia với mức độ sâu rộng
nhằm tránh rơi vào “bẫy tự do hóa thương mại” từ EVFTA. Việc cải cách quản
lý giữ vai trị quan trọng trong q trình cải cách cơ cấu kinh tế là nhân tố cần
thiết để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế dài hạn nhằm thu lợi ích kinh tế tồn diện
thơng qua trao đổi thương mại và đầu tư với EU.
2. Đặc điểm và nội dung cam kết chính trong các FTA thế hệ mới mà
Việt Nam đã tham gia

- 14 -



Từ những năm đầu của thập niên 1990, song song với q trình tồn cầu
hố, chủ nghĩa khu vực (regionalism) đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về lượng
và về chất. Trước đó, chủ nghĩa khu vực thường mang hình thái khu vực mậu
dịch tự do (Free Trade Area) nhưng kể từ thập niên 1990, hình thái FTA (Free
Trade Agreement) song phương hoặc nhiều bên trở nên phổ biến hơn, với phạm
vi hợp tác rộng hơn, không chỉ giới hạn trong việc thực hiện tự do hóa thương
mại hàng hóa, dịch vụ mà cịn cả xúc tiến và tự do hố đầu tư, hợp tác chuyển
giao cơng nghệ, thuận lợi hóa thủ tục hải quan, xây dựng năng lực và nhiều nội
dung mới khác như lao động, môi trường.
Trong bối cảnh đàm phán thương mại đa phương (Vòng đàm phán Doha
của Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO) hiện đang bế tắc, sự gia tăng mạnh
các FTA song phương và khu vực đang trở thành một xu thế quan trọng trong
quan hệ kinh tế quốc tế từ đầu thế kỷ 21. Cho đến nay, theo thống kê của WTO,
có khoảng 270 FTA song phương và khu vực đã được thông báo với WTO.
Đặc điểm quan trọng của các FTA hình thành thời gian gần đây là có phạm
vi điều chỉnh rộng (bao gồm hầu hết các lĩnh vực chính như hàng hố, dịch vụ,
đầu tư, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, mua sắm chính phủ v.v..), mức độ
tự do hố cao (cao hơn WTO) và hình thành trên cơ sở liên kết giữa các đối tác
thuộc các khu vực địa lý khác nhau, đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang
phát triển, ví dụ, FTA Hoa Kỳ-Chi-lê, FTA EU- Thái Lan, EPA Việt Nam Nhật Bản v.v.. Đối với các nước đang phát triển, việc tham gia các FTA tạo điều
kiện mở rộng xuất khẩu, đồng thời tạo sức ép để các nước này tăng cường hiệu
quả sản xuất, năng lực cạnh tranh, cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp lý cho phù
hợp với chuẩn mực quốc tế. Ngồi ra, FTA cịn giúp các nước đang phát triển
củng cố quan hệ an ninh chính trị với các đối tác, đặc biệt là các nước lớn.
Về phần Việt Nam, thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, sau khi
gia nhập WTO năm 2007, Việt Nam đã và đang đàm phán, ký kết nhiều FTA
song phương và khu vực. Trong thời gian gần đây, Việt Nam đang tham gia đàm
phán nhiều FTA bao gồm Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP),
Hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định

thương mại tự do Liên minh Hải quan (VCUFTA), Hiệp định thương mại tự do
với Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu, Hiệp định thương mại tự do với Hàn
Quốc. Đây là các FTA thế hệ mới toàn diện, phạm vi bao gồm các lĩnh vực như:
Thương mại hàng hóa; Quy tắc xuất xứ; Thương mại Dịch vụ; Đầu tư; Các biện
pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS); Thuận lợi
hóa hải quan; Phòng vệ thương mại; Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT);
Thương mại Điện tử; Cạnh tranh; Sở hữu trí tuệ; Mua sắm cơng; Phát triển bền
vững; Thể chế và Pháp lý...

- 15 -


2.1. Đặc điểm các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đang đàm phán
Mục tiêu cơ bản của các FTA thế hệ mới cũng giống như các FTA truyền
thống là thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các quốc gia thành viên, tăng
cường tăng trưởng kinh tế bền vững, khả năng cạnh tranh và tạo thêm công ăn
việc làm. Tuy nhiên, các FTA thế hệ mới còn được thiết kế nhằm:
- Xử lý cả những vấn đề thương mại mới phát sinh và những vấn đề thương
mại - đầu tư tồn đọng từ lâu mà các FTA truyền thống chưa xử lý được;
- Tạo thuận lợi hơn nữa cho thương mại và đầu tư thơng qua việc thúc đẩy
hình thành các chuỗi sản xuất và cung ứng hiệu quả hơn, năng động hơn;
- Thúc đẩy hợp tác về các vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn và chính sách
quản lý;
- Đảm bảo cạnh tranh công bằng;
- Thúc đẩy phát triển thương mại và đầu tư trong các lĩnh vực công nghệ
mới, các lĩnh vực, ngành nghề mới phát sinh;
- Đưa ra thêm các cách tiếp cận mới nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,
góp phần tạo thêm cơng ăn việc làm ở các quốc gia;
- Đảm bảo các tiêu chuẩn cao về minh bạch và trách nhiệm đối với cộng
đồng, xã hội;

- Đưa ra những cam kết nghiêm túc nhằm thúc đẩy phát triển;
- Hỗ trợ các ưu tiên có liên quan đến thương mại như xử lý các vấn đề về
biến đổi khí hậu và lao động;
- Tạo lập hệ thống cảnh báo sớm và cơ chế giải quyết tranh chấp nhanh
chóng;
- Đảm bảo đủ linh hoạt cho việc tham gia của các quốc gia thành viên mới,
việc bổ sung các vấn đề mới chưa đề cập trong hiệp định ban đầu; và
- Hỗ trợ hệ thống thương mại trên cơ sở tuân thủ các quy tắc đặt ra.
Để đạt được các mục tiêu trên, các quốc gia tham gia đàm phán các FTA
thế hệ mới cần xây dựng lập trường, quan điểm, đề xuất của mình trên cơ sở
xem xét kỹ lưỡng những vấn đề sau:
- Tiếp tục kế thừa, phát triển các đề xuất đã được đưa ra trước đây trong
các khuôn khổ đàm phán đa phương khi xem xét, giải quyết các vấn đề thương
mại và đầu tư đang nổi lên cũng như làm thế nào để tạo điều kiện tốt nhất
thương mại và đầu tư (ví dụ như các đề xuất được xây dựng trong khn khổ
WTO nhằm tăng cường tính minh bạch trong việc cấp phép xuất khẩu, hàng rào
phi thuế quan liên quan đến tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá
sự phù hợp cho các sản phẩm ô tô, hoặc loại bỏ thuế quan đối với hàng hóa và
- 16 -


dịch vụ mơi trường,…; các sáng kiến khơng mang tính ràng buộc của APEC,
…).
- Tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư trong các ngành công nghệ mới,
các ngành mới phát sinh thông qua việc nỗ lực loại bỏ rào cản trong các ngành
có thể là chìa khóa cho mục tiêu đổi mới, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc
làm cũng như các mục tiêu chính sách lớn khác. Các ngành nằm trong số này có
thể là năng lượng, công nghệ môi trường, công nghệ sinh học, công nghệ nano,
công nghệ y tế, công nghệ thông tin và giáo dục. Cơ hội từ sự phát triển các
ngành này là quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế của tất cả các nước, cả nước

phát triển và đang phát triển.
- Tạo thêm công ăn việc làm thông qua các biện pháp thương mại và đầu tư
tập trung vào các phân khúc phát triển nhanh nhất và sử dụng nhiều lao động
nhất ở các nước. Tìm cách hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ vốn tạo nhiều công ăn
việc làm nhưng đóng góp khơng lớn vào xuất khẩu, giúp họ tận dụng được lợi
ích từ các cam kết, thỏa thuận. Ví dụ, tăng cường khả năng tiếp cận cho các
doanh nghiệp nhỏ để họ hiểu rõ hơn về những vấn đề cụ thể mà họ có thể phải
đối mặt khi các cam kết, thỏa thuận có hiệu lực, thành lập các đầu mối liên lạc
đặc biệt ở các nước để giúp các doanh nghiệp nhỏ hiểu và tận dụng được lợi ích
từ các cam kết, thỏa thuận.
- Đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm xã hội. Đây là những đặc tính
giúp có được sự ủng hộ của xã hội, cồng đồng đối với các cam kết, thỏa thuận
đạt được. Trách nhiệm xã hội ở đây được hiểu là đảm bảo phúc lợi cho người
lao động, không tăng cường khả năng cạnh tranh trên cơ sở lạm dụng việc khai
thác người lao động.
- Tôn trọng nguyên tắc phát triển: Việc đàm phán, ký kết các FTA thế hệ
mới cần xem xét để các nước đang phát triển có thể tham gia hiệu quả trong các
FTA này cả ở khía cạnh đưa ra cam kết và thực thi các cam kết đó. Trên cơ sở
đó, những sáng kiến, đề xuất nhằm tăng cường hiệu quả hợp tác, xây dựng năng
lực, hỗ trợ kỹ thuật và các bước đi cụ thể nhằm cụ thể hóa các mục tiêu trên, hỗ
trợ sự phát triển của các thành viên kém phát triển hơn cũng là rất cần thiết.
Nguyên tắc phát triển cũng là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự
thành công của một FTA ở khía cạnh thực thi các cam kết đạt được trong đàm
phán, đặc biệt là các cam kết tiêu chuẩn cao.
- Tính tốn việc lồng ghép chính sách: Để đảm bảo các FTA thế hệ mới
được tích hợp đầy đủ hơn vào các mục tiêu chính sách kinh tế lớn và xây dựng
được sự ủng hộ từ các thành phần hữu quan, các nước tham gia đàm phán các
FTA thế hệ mới cần phải xem xét cách thức kết hợp các ưu tiên có liên quan đến
thương mại, như biến đổi khí hậu hay lao động, vào các FTA này. Cách thức
làm này phải tránh được sự xung đột khơng cần thiết vì các nội dung này cũng

- 17 -


có thể đang được thảo luận trong các diễn đàn khác và một trong những giải
pháp có thể được tính đến là việc chỉ tập trung vào các yếu tố có liên quan thực
sự đến thương mại.
- Thiết lập cơ chế cảnh báo sớm và giải quyết tranh chấp nhanh: Việc thiết
lập được cơ chế cảnh báo sớm và giải quyết tranh chấp nhanh sẽ giúp giải quyết
hiệu quả các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực thi các FTA, giúp tăng
cường các cam kết và hiệu quả của những cam kết này.
- Đảm bảo khả năng gia nhập trong tương lai cho các thành viên mới cũng
như việc thảo luận, đưa ra các cam kết bổ sung cho những vấn đề phát sinh mới
trong tương lai (Hiệp định sống): Các quốc gia tham gia đàm phán cần xem xét,
đưa ra các nguyên tắc để đảm bảo duy trì cơ chế trên, đặc biệt phải coi trọng sự
phát triển bùng nổ của công nghệ kỹ thuật và những vấn đề phát sinh mới từ sự
phát triển bùng nổ đó.
- Tôn trọng hệ thống thương mại trên cơ sở các nguyên tắc đã được cam
kết: các FTA thế hệ mới là một phần không tách rời của hệ thống thương mại đa
phương. Việc đàm phán, ký kết các FTA thế hệ mới, do vậy, cũng cần phải được
xem xét trong mới quan hệ tương tác với các thỏa thuận, cam kết thương mại đa
phương khác, tránh xung đột cam kết và đảm bảo sự hỗ trợ cho hệ thống thương
mại đa phương.
2.2. Nội dung cam kết chính trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam
đang đàm phán
2.2.1. Một số nội dung chính của các FTA thế hệ mới
Các FTA thế hệ mới có xu hướng ngày càng mở rộng phạm vi điều chỉnh
sang các lĩnh vực phi thương mại như đầu tư, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, các lĩnh
vực phi truyền thống như lao động, môi trường và cả các lĩnh vực mang tính
quản lý chính sách vĩ mô như chống tham nhũng, chuỗi sản xuất - cung ứng, hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây đều là những lĩnh vực đem lại nhiều lợi ích

cho các nước phát triển. Ngược lại, một số khía cạnh của tự do hố thương mại
có thể đem lại nhiều lợi ích cho các nước đang phát triển lại có thể khơng được
đưa vào như trợ cấp nông nghiệp. Đây cũng là lý do tại sao nguyên tắc phát triển
cần được xem xét, tơn trọng nhằm đảm bảo lợi ích cần bằng cho các nước đang
phát triển cũng như khả năng thực thi của các quốc gia này đối với các nghĩa vụ
cam kết.
Về mặt nội dung, mặc dù nội dung chính của các FTA thế hệ mới vẫn là
những nội dung gắn với thương mại, đầu tư truyền thống như thương mại hàng
hóa, nơng nghiệp, quy tắc xuất xứ, hải quan, hàng rào kỹ thuật, các biện pháp vệ
sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật, thương mại dịch vụ, dịch vụ
tài chính, dịch vụ viễn thơng… nhưng yêu cầu về mức độ cam kết đối với các
- 18 -


nội dung này cao hơn rất nhiều so với mức cam kết trước đây của các nước
trong các diễn đàn đa phương như WTO, WCO. Bên cạnh đó, các FTA thế hệ
mới còn bổ sung nhiều nội dung phi truyền thống, những nội dung mới, phát
sinh gần đây từ sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin như mua sắm
chính phủ, thương mại điện tử, sở hữu trí tuệ, môi trường, lao động,… với mức
cam kết yêu cầu đặt ra cũng rất cao.
- Về thương mại hàng hoá, nhìn chung trong các FTA thế hệ mới, các nước
hướng đến những cam kết rất tham vọng về cắt giảm thuế quan. Tùy vào tính
nhạy cảm của mỗi dịng thuế, lộ trình cắt giảm có thể dài hơn (tùy thuộc vào kết
quả đàm phán) nhưng tổng số lượng các dòng thuế phải đưa về 0% sau khi kết
thúc lộ trình sẽ là rất cao, có thể lên đến 100% các dòng thuế.
- Về thương mại dịch vụ - đầu tư, cách tiếp cận mới “chọn – bỏ” có thể
được sử dụng thay cho cách tiếp cận “chọn - cho” truyền thống. Cách tiếp cận
này một mặt giúp đảm bảo tốt hơn tính minh bạch, dễ đốn trước của mơi
trường đầu tư, giúp các nhà cung cấp dịch vụ an tâm, vững tin hơn trong hoạt
động đầu tư nhưng mặt khác cũng gây nhiều khó khăn, quan ngại cho các nước

đang phát triển, hệ thống pháp luật quản lý dịch vụ - đầu tư còn nhiều hạn chế.
Đặc biệt, việc xây dựng biểu cam kết theo cách tiếp cận chọn - bỏ địi hỏi nhiều
cơng sức, kinh nghiệm quản lý, điều mà các nước đang phát triển còn thiếu.
Phương thức 3 trong cung cấp dịch vụ (hiện diện thương mại) có thể được
đưa vào điều chỉnh trong Chương đầu tư, dẫn đến việc các cam kết dịch vụ này
bị chịu cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước (ISDS). Điều
này gây ra khơng ít quan ngại cho các nước đang phát triển do môi trường đầu
tư ở các nước này còn chưa thực sự minh bạch, khả năng can thiệp và rủi ro vi
phạm cam kết dẫn đến việc bị kiện ISDS còn lớn. Việc bị vướng vào các vụ kiện
ISDS không chỉ tiềm ẩn nguy cơ phải bồi thường thiệt hại mà còn khiến các
nước này phải tiêu tốn nhiều khoản chi phí đáng giá đối với họ cho việc theo
đuổi vụ kiện.
- Về mua sắm chính phủ, nếu như Hiệp định về mua sắm chính phủ của
WTO khơng mang tính bắt buộc đối với các quốc gia thành viên thì nội dung
này đang dần trở thành một chương bắt buộc trong các FTA thế hệ mới. Thông
qua cam kết trong các FTA này, các nước đang phát triển phải mở cửa thị
trường trong lĩnh vực mua sắm chính phủ. Đối với một số nước, thị trường này
chiếm thị phần GDP lớn (có thể lên đến 20%) và việc mở cửa thị trường này gây
ra nhiều quan ngại. Nội dung, cam kết trong chương mua sắm chính phủ trong
các FTA thế hệ mới vượt xa mức WTO, vốn chỉ chủ yếu bao trùm các khía cạnh
về minh bạch hố.
- Về sở hữu trí tuệ, các FTA thế hệ mới đặt ra yêu cầu cam kết ở mức rất
cao, vượt xa khuôn khổ Hiệp định TRIPS của WTO do được vận động hành
- 19 -


lang mạnh mẽ bởi các ngành như dược phẩm, công nghệ sinh học, phim ảnh và
công nghệ thông tin. Hệ quả tiêu cực của các cam kết tham vọng này đối với các
nước đang phát triển có thể là sự hạn chế trong tiếp cập bí quyết cơng nghệ
(know-how) và dược phẩm có giá cả phải chăng, trong khi khơng bảo vệ được

những kiến thức truyền thống.
Nội dung chỉ dẫn địa lý (GI) có thể được đưa vào Chương Sở hữu trí tuệ
trong các FTA thế hệ mới. Điều này gây nên rất nhiều khó khăn và quan ngại
cho các nước không thực sự “quen” với hệ thống bảo hộ này. Các nước vừa là
đối tác FTA của Hoa Kỳ vừa là đối tác FTA của EU còn vướng phải những khó
khăn đến từ sức ép của chính Hoa Kỳ và EU xuất phát từ sự khác biệt giữa hệ
thống bảo hộ GI của 2 nền kinh tế này. Do vậy, việc tìm ra giải pháp dung hịa là
một thách thức không hề nhỏ.
IV. CƠ HỘI, THUẬN LỢI, THÁCH THỨC TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Cơ hội, thuận lợi
Một là, mở rộng thị trường, thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại với các
nước, các tổ chức quốc tế
Chúng ta đã là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO
cũng như nhiều định chế tài chính như WB, ADB, IMF... Việc gia nhập WTO
vào năm 2007 đã mở ra quan hệ thương mại bình đẳng giữa Việt Nam với 150
quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là một thành tựu quan trọng của việc thực hiện
chính sách đối ngoại đổi mới, đưa Việt Nam trở thành quốc gia bình đẳng trong
thương mại với các nước trên thế giới.
Ngồi ra, ta đã có quan hệ thương mại với trên hai trăm quốc gia và vùng
lãnh thổ ở khắp các châu lục; trên một trăm quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án
đầu tư ở Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam đã có dự án đầu tư ở trên bảy
mươi quốc gia và vùng lãnh thổ.
Với việc mở rộng thị trường và quan hệ hợp tác như vậy, ta đã ngày càng
tham gia sâu rộng vào các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng có
tiếng nói quan trọng với ý thức trách nhiệm cao trong các diễn đàn khu vực và
thế giới, do đó đã góp phần mở rộng thị trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện cho mơ hình kinh tế hướng về xuất khẩu của
ta, mở rộng thị trường hàng nhập khẩu, góp phần phục vụ chiến lược cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời từng bước khẳng định được hình ảnh và vị

thế của một quốc gia thành cơng trong q trình đổi mới.
Hai là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

- 20 -



×