Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Bằng chứng kiểm toán và kỹ thuật bằng chứng kiếm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.75 KB, 39 trang )

Đề án môn học

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với xu thế hội nhập phát triển tồn cầu hố nền kinh tế, thị trường
mở rộng đối với cả hàng hoá trong nước và hàng hố nước ngồi. Thêm vào
đó, sự ra nhập thị trường của nhiều công ty mới với sự đa dạng về loại hình
và đang dạng về chủng loại sản phẩm kinh doanh cùng với sự phát triển của
thị trường chứng khoán một vài năm gần đây khiến cho nhu cầu về sự chính
xác của thơng tin tài chính ngày càng gia tăng. Những thơng tin này có ý
nghĩa rất quan trọng tới việc ra quyết định của các doanh nghiệp, các nhà đầu
tư…Điều này đã kích thích nhu cầu kiểm tốn gia tăng.
Là một loại hình kiểm tốn, kiểm tốn tài chính cũng thực hiện chức
năng xác minh và bày tỏ ý kiến về sự trung thực hợp lý của các Báo cáo tài
chính. Đối tượng kiểm tốn nói chung và đối tượng kiểm tốn tài chính nói
riêng ln chứa đựng nhiều mối quan hệ kinh tế và pháp lý phong phú. Hơn
nữa trong kiểm tốn tài chính, ý kiến hay kết luận của kiểm tốn viên khơng
phục vụ cho bản thân người lập hay người xác minh mà phục vụ cho người
quan tâm tới tính trung thực và hợp lý của Báo cáo tài chính. Do đó kết luận
này phải được dựa trên bằng chứng đầy đủ và có hiệu lực với chi phí kiểm
tốn hợp lý.
Trong thời kỳ hội nhập phát triển cùng với sự xuất hiện của nhiều cơng
ty kiểm tốn mới trên thị thường thì việc nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán
là yếu tố hàng đầu của các cơng ty kiểm tốn, khi đó cơng ty kiểm toán mới
tạo được lợi thế trong cạnh tranh và tạo được cho mình chỗ đứng trên thương
trường. Muốn làm được điều đó thì việc nâng cao chất lượng bằng chứng
kiểm toán là một điều tất yếu, là một trong những mục tiêu hàng đầu của các
công ty kiểm toán. Vấn đề đặt ra ở đây là cân đối giữa mục tiêu nâng cao
chất lượng bằng chứng kiểm toán với chi phí kiểm tốn hợp lý để cơng ty
kiểm tốn có thể tránh được những rủi ro kiểm tốn .



Đề án môn học

Với tầm quan trọng của bằng chứng kiểm toán nên Em đã chọn đề án:
“Bằng chứng kiểm toán và kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong
kiểm tốn Báo cáo tài chính”
Đề án của Em gồm hai phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận về bằng chứng kiểm toán và kỹ thuật thu thập
bằng chứng kiểm toán
Phần 2: Thực tế việc thực hiện kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán
tại Việt Nam và một số đề xuất khắc phục.


Đề án môn học

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẰNG CHỨNG KIỂM TOÁN VÀ PHƯƠNG
PHÁP KỸ THUẬT THU THẬP BẰNG CHỨNG KIỂM TỐN
TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1.

Lý luận chung về bằng chứng kiểm toán

1.1.1 Khái niệm bằng chứng kiểm tốn
Chức năng của kiểm tốn tài chính là “xác minh và bày tỏ ý kiến” về
các bản khai tài chính, thể hiện qua q trình thu thập và đánh giá các bằng
chứng về Báo cáo tài chính của một tổ chức kinh tế cụ thể nhằm mục đính xác
nhận và báo cáo về mức độ phù hợp của các báo cáo này với các chuẩn mực
đã được thiết lập thơng qua Báo cáo kiểm tốn. Báo cáo kiểm tốn ghi nhận
các ý kiến của kiểm tốn viên, nó là sản phẩm quan trọng nhất của cuộc kiểm
tốn, độ chính xác và hợp lý của nó phụ thuộc rất nhiều vào các bằng chứng

mà kiểm toán viên thu thập được trong q trình kiểm tốn.
Bằng chứng là cái để chứng minh cho điều gì đó là đúng là có thật.
Với ý nghĩa này thì bằng chứng kiểm tốn là tất cả các thơng tin mà kiểm
tốn viên thu thập được liên quan tới cuộc kiểm tốn, dựa trên thơng tin này
kiểm tốn viên hình thành nên ý kiến nhận xét của mình về sự trung thực hợp
lý của Báo cáo tài chính được kiểm tốn. Khái niệm này cũng chỉ rõ đặc tính
cơ bản của bằng chứng và mối quan hệ của bằng chứng với kết luận kiểm
toán.
Theo chuẩn mực Kiểm tốn Việt Nam sơ 500: “Bằng chứng kiểm tốn
là tất cả các tài liệu, thơng tin do kiểm tốn viên thu thập được liên quan đến
cuộc kiểm toán và dựa trên những thơng tin này kiểm tốn viên hình thành
nên ý kiến của mình.
Bằng chứng kiểm tốn gồm các tài liệu, chứng từ, sổ kế tốn, Báo cáo
tài chính , và nhứng tài liệu thông tin từ những nguồn khác “


Đề án mơn học

Theo khái niệm này ta có thể thấy bằng chứng kiểm tốn có thể là
những thơng tin văn bản hoặc những thơng tin bằng lời nói, các chứng từ sổ
sách, các biên bản kiểm kê, thư xác nhận của khách hàng…
Các loại bằng chứng kiểm toán khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau
đến việc hình thành ý kiến của kiểm tốn viên. Do đó kiểm tốn viên cần
nhận thức cụ thể về các loại bằng chứng để có thể đánh giá bằng chứng một
cách hữu hiệu khi thực hành kiểm tốn.
1.1.2 Các tính chất của bằng chứng kiểm tốn
Bằng chứng kiểm tốn có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó là cơ sở để
hình thành ý kiến kết luận của kiểm tốn viên, nó là một yếu tố quyết định
độ chính xác và rủi ro trong ý kiến của kiểm tốn viên. Từ đó sự thành cơng
của tồn bộ cuộc kiểm tốn phụ thuộc trước hết vào việc thu thập và sau đó

là đánh giá bằng chứng của kiểm tốn viên. Khi kiểm tốn viên khơng thu
thập đầy đủ và đánh giá đúng các bằng chứng kiểm tốn thích hợp thì kiểm
tốn viên khó có thể đưa ra một nhận định chính xác về đối tượng kiểm tốn.
Nói cách khác, kết luận kiểm tốn khó có thể chính xác về thực trạng của đối
tượng kiểm tốn nếu như bằng chứng thu được quá ít, bằng chứng khơng phù
hợp hoặc bằng chứng có độ tin cậy khơng cao. Như vậy sự đầy đủ và hiệu
lực của bằng chứng kiểm tốn ln đi liền với nhau, có quan hệ mật thiết với
nhau. Tính hiệu lực và đầy đủ của bằng chứng kiểm tốn được hiểu như sau:
Tính hiệu lực của bằng chứng kiểm toán là khái niệm chỉ độ tin cậy
hay chất lượng của bằng chứng kiểm toán. Nếu một bằng chứng được đánh
giá là có độ tin cậy cao nó sẽ giúp cho kiểm tốn viên có thể đưa ra nhận xét
rằng Báo cáo tài chính của khách thể kiểm tốn được trình bày trung thực,
hợp lý. Như vậy một bằng chứng có tính hiệu lực hay có giá trị khi nó đáng
tin cậy, nó thể hiện đúng thực trạng của doanh nghiệp. Do đó việc thu thập
được bằng chứng đáng tin cậy là rất quan trọng. Để có thể thu thập được
bằng chứng kiểm tốn có độ tin cậy cao thì kiểm tốn viên phải nhận định
được các nhân tố ảnh hưởng tới tính hiệu lực của bằng chứng kiểm toán như:


Đề án mơn học

Một là, thể thức kiểm tốn áp dụng: Độ tin cậy của bằng chứng kiểm
toán phụ thuộc vào quyết định về thể thức kiểm toán áp dụng. Nó khơng phụ
thuộc vào quyết định về qui mơ mẫu và quyết định về những khoản mục cá
biệt được lựa chọn vào mẫu.
Hai là, hình dạng của bằng chứng: Bằng chứng vật chất ví dụ như
biên bản kiểm kê hàng tồn kho, quỹ tiền mặt, tài sản cố định…đáng tin cậy
hơn bằng chứng bằng văn bản như thư xác nhận nợ phải thu, phải trả… Bằng
chứng dạng văn bản thì đáng tin cậy hơn bằng chứng thu được bằng lời nói
như phỏng vấn.

Ba là, nguồn thu thập bằng chứng kiểm toán: Bằng chứng kiểm toán
thu được từ nguồn càng độc lập với đối tượng kiểm tốn thì càng đáng tin
cậy. Bằng chứng thu được từ bên trong doanh nghiệp như các chứng từ luân
chuyển trong nội bộ doanh nghiệp, sổ sách kế tốn… thì có độ tin cậy khơng
cao bằng những bằng chứng thu được từ bên ngoài doanh nghiệp như giấy
xác nhận của khách hàng, giấy báo số dư khách hàng do khách hàng cung
cấp…Bằng chứng thu được trực tiếp bởi kiểm toán viên như bằng chứng thu
được từ kiểm kê, quan sát, tính tốn và điều tra… thì có độ tin cậy cao hơn
những bằng chứng thu được khơng trực tiếp bởi kiểm tốn viên.
Bốn là, sự hiểu biết về chuyên môn: mặc dù nguồn gốc của bằng chứng
độc lập nhưng bằng chứng vẫn có thể khơng đáng tin cậy nếu người thu thập
bằng chứng khồng có chuyên mơn để thực hiện việc đó. Bằng chứng thu
được trực tiếp bởi kiểm tốn viên vẫn có thể khơng đáng tin cậy nếu như
kiểm tốn viên khơng có chun mơn thực hiện. Ví dụ như bằng chứng do
kiểm tốn viên thu thập được thông qua kiểm kê nguyên vật liệu của khách
hàng chuyên kinh doanh sản xuất kim cương, nếu kiểm tốn viên khơng được
đào tạo để phân biệt kim cương và thuỷ tinh thì kết quả thu được từ q trình
kiểm kê trên vẫn khơng đáng tin cậy.
Năm là, sự phù hợp với cơ sở dẫn liệu: Bằng chứng kiểm toán phải
liên quan tới mục tiêu kiểm toán mà kiểm tốn viên thực hiện trước khi nó có


Đề án mơn học

thuyết phục. Ví dụ kiểm tốn viên nhận định rằng khoản phải thu khách hàng
lớn bất thường, khi đó kiểm tốn viên phải thu thập bằng chứng liên quan tới
mục tiêu hiện hữu. Kiểm tốn viên có thể tiến hành xác nhận nợ phải thu.
Nếu kiểm toán viên thực hiện chọn mẫu khoản phải thu, đối chiếu nó với sổ
chi tiết, sổ cái TK 131 (mục tiêu đầy đủ) thì bằng chứng thu được trong
trường hợp này là khơng đáng tin cậy.

Sáu là, hệ thống kiểm sốt nội bộ: Hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ
thống các chính sách và thủ tục được thiết lập nhằm đạt được bốn mục tiêu
sau: bảo vệ tài sản của đơn vị, bảo đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm
việc thực hiện chế độ pháp lý và bảo đảm hiệu quả hoạt động. Hệ thống kiểm
soát nội bộ hoạt động dựa trên cơ sở xác định rủi ro có thể xảy ra trong từng
khâu cơng việc để tìm ra biện pháp ngăn chặn nhằm thực hiện có hiệu quả
các mục tiêu sau: Thứ nhất là các nghiệp vụ kinh tế ghi sổ đều phải có căn cứ
hợp lý. Thứ hai là các nghiệp vụ kinh tế ghi sổ đều phải được phê chuẩn
đúng đắn. Thứ ba là các nghiệp vụ kinh tế phải được đánh giá đúng đắn. Thứ
tư là các nghiệp vụ kinh tế đều phải được phân loại đúng đắn. Thứ năm là các
nghiệp vụ kinh tế phải được phản ánh kịp thời. Thứ sáu là các nghiệp vụ kinh
tế phải được ghi đúng đắn váo các sổ chi tiết, sổ tổng hợp. Do vậy báo cáo
kiểm toán thu được trong trường hợp hệ thống kiểm sốt nội bộ hoạt động có
hiệu quả sẽ có độ tin cậy cao hơn bằng chứng kiểm tốn thu được trong điều
kiện hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động yếu kém.
Bảy là, tính kịp thời của bằng chứng: Tính kịp thời của bằng chứng thể
hiện qua thời điểm bằng chứng được thu thập hoặc khoảng thời gian tiến hành
cuộc kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán cho các khoản mục trên bảng cân đối
kế toán thường thuyết phục hơn khi nó được thu thập vào thời điểm càng gần
ngày khoá sổ kế toán. Đối với các khoản mục trên báo cáo kết quả kinh doanh
thì bằng chứng kiểm tốn thường thuyết phục hơn nếu nó thu được từ một
mẫu gồm các phần tử được lấy trên toàn bộ thời gian được kiểm tốn. Ví dụ
như kiểm tốn khoản mục doanh thu trên báo cáo kết quả kinh doanh thì kiểm


Đề án mơn học

tốn viên tiến hành kiểm tra chọn mẫu hoá đơn bán hàng bằng chứng kiểm
toán thu được từ mẫu các hoá đơn bán hàng trong 12 tháng sẽ đáng tin cậy
hơn bằng chứng thu được từ mẫu hoá đơn bán hàng trong 6 tháng đầu năm.

Tám là, sự kết hợp các bằng chứng: Các bằng chứng sẽ có tính thuyết
phục hơn nếu như các thơng tin từ nhiều nguồn khác nhau và nhiều loại
thông tin khác nhau cùng xác nhận. Trường hợp này kiểm tốn viên có thể có
được mức độ tin tưởng chung cao hơn so với trường hợp xuất phát từ những
bằng chứng riêng rẽ. Ngược lại trường hợp bằng chứng từ nguồn này mâu
thuẫn với bằng chứng từ nguồn khác, kiểm toán viên phải xác định được
những thủ tục kiểm tra bổ xung cần thiết để sửa chữa mâu thuẫn này.
Tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán là khái niệm chỉ số lượng
hay quy mơ cần thiết của bằng chứng kiểm tốn để kiểm tốn viên có thể dựa
vào đó đưa ra ý kiến về tính trung thực hợp lý của Báo cáo tài chính được
kiểm tốn. Đây là một vấn đề khơng có thước đo chung mà địi hỏi rất lớn ở
sự xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Theo chuẩn mực Kiểm tốn
Việt Nam Số 500: “Trong q trình hình thành ý kiến của mình, kiểm tốn
viên khơng nhất thiết phải kiểm tra tất cả các thơng tin có sẵn. Kiểm toán
được phép đưa ra kết luận về số dư tài khoản, các nghiệp vụ kinh tế hoặc hệ
thống kiểm soát nội bộ trên cơ sở kiểm tra chọn mẫu theo phương pháp thống
kê hoặc theo xét đốn cá nhân”.
Nói tới tính đầy đủ là đề cập tới số lượng, chủng loại của bằng chứng
cần thu thập, khơng có bất cứ một chuẩn mực nào quy định một cách cụ thể
bao nhiêu bằng chứng là đủ mà nó phụ thuộc vào sự quyết đoán chủ quan của
kiểm toán viên. Phán quyết này tuỳ thuộc vào từng tình huống cụ thể. Như
vậy để có thể thu thập đủ số lượng bằng chứng cần thiết thì kiểm tốn viên
cần phải cân nhắc, xem xét tới các nhân tố ảnh hưởng tới tính đầy đủ của
bằng chứng kiểm tốn bao gồm:
Một là, kích cỡ mẫu: Quy mô mẫu cần chọn đối với một thể thức nhất
định trong cuộc kiểm toán là một yếu tố rất quan trọng để xác định sự đầy đủ


Đề án mơn học


của bằng chứng kiểm tốn. Với một thể thức kiểm tốn nhất định thì bằng
chứng kiểm tốn thu được từ một mẫu có kích thước lớn sẽ đầy đủ hơn bằng
chứng thu được từ một mẫu kích thước nhỏ hơn. Tuy nhiên tính đầy đủ của
bằng chứng kiểm tốn cịn phụ thuộc vào các phần tử được lựa chọn vào
mẫu.
Hai là, tính trọng yếu: Tính trọng yếu là khái niệm tầm cỡ và bản chất
của các sai phạm của thơng tin tài chính hoặc là đơn lẻ hoặc từng nhóm trong
bối cảnh cụ thể nếu dựa vào thơng tin này để xét đốn thì khơng thể chính
xác hoặc sẽ rút ra nhận xét sai lầm. Do đó đối tượng cụ thể được kiểm tốn
càng trọng yếu thì số lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều để khi đó
kiểm tốn viên có thể đưa ra ý kiến xác đáng về đối tượng kiểm toán. Các sai
phạm được coi là trọng yếu là những sai phạm có thể ảnh hưởng trọng yếu
tới Báo cáo tài chính, ngược lại các sai phạm có quy mơ nhỏ thì khó có thể
ảnh hưởng trọng yếu tới Báo cáo tài chính.
Ba là, mức độ rủi ro: Rủi ro kiểm toán là khả năng kiểm tốn viên đưa
ra ý kiến khơng xác đáng về đối tượng được kiểm tốn. Như vậy trong q
trình lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải tiến hành đánh giá mức độ
rủi ro của các khoản mục. Trong q trình thực hành kiểm tốn thì kiểm tốn
viên dựa vào đánh giá này để tiến hành thu thập bằng chứng kiểm toán.
Những khoản mục nào càng được đánh giá là rủi ro tức là khả năng ở đó tồn
tại nhiều sai phạm tiềm ẩn, do đó để có thể đưa ra ý kiến xác đáng về tính
trung thực hợp lý của các Báo cáo tài chính thì kiểm toán viên càng phải thu
thập nhiều bằng chứng, và ngược lại những khoản mục nào được đánh giá là
ít rủi ro thì số lượng bằng chứng cần thu thập ít hơn. Trong lĩnh vực nghề
kiểm tốn khơng có một chuẩn mực chính thức nào về mức rủi ro kiểm tốn
có thể chấp nhận, loại trừ mức rủi ro kiểm toán phải ở mức thấp cho phép.
Trong thực tiễn, rủi ro kiểm toán thường xảy ra do các giới hạn về quản lý,
về kiểm tốn mà trực tiếp là chi phí kiểm tốn và từ đó ảnh hưởng tới số
lượng bằng chứng kiểm toán thu được. Trong quan hệ này rủi ro kiểm toán



Đề án mơn học

và chi phí kiểm tốn có quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau, do vậy rủi ro kiểm toán
và số lượng bằng chứng cần thu thập cũng có mối quan hệ tỉ lệ thuận với
nhau.
1.1.3 Phân loại bằng chứng kiểm tốn
Bằng chứng kiểm tốn có tính đa dạng. Các loại bằng chứng kiểm toán
khác nhau sẽ ảnh hưởng khác nhau tới việc hình thành ý kiến kiểm tốn. Mỗi
loại bằng chứng kiểm tốn khác nhau có độ tin cậy khác nhau, mức độ tin cậy
của bằng chứng kiểm toán là yếu tố quan trọng tác động tới quyết định của
kiểm toán viên trong thực hành kiểm toán. Do đó kiểm tốn viên cần nhận
thức cụ thể về các loại bằng chứng để có thể đánh giá bằng chứng một cách
hữu hiệu trong thực hành kiểm toán, xác định độ tin cậy một cách hợp lý
nhằm thu thập bằng chứng một cách có lợi thì việc phân loại bằng chứng là
hết sức quan trọng, nó giúp kiểm tốn viên có thể tìm được những bằng chứng
có độ tin cậy cao nhằm giảm bớt chi phí kiểm tốn. Việc phân loại có thể tiến
hành theo các cách sau:
Thứ nhất: phân loại theo mức độ sẵn có của bằng chứng
Theo cách phân loại này thì bằng chứng kiểm tốn có thể được xem xét dưới
các dạng:
Một là, bằng chứng sẵn có là tài liệu kế tốn gồm: các chứng từ, sổ
sách kế tốn, các Báo cáo tài chính…
Hai là, bằng chứng là các tài liệu được tạo ra gồm: bằng chứng vật chất
(biên bản kiểm kê hàng tồn kho, quỹ tiền mặt, tài sản cố định…); bằng chứng
xác nhận (Thư xác nhận số dư khách hàng, thư xác nhận số dư tài khoản tiền
gửi…); bằng chứng phân tích là bằng chứng thu được từ kết quả của q trình
phân tích do kiểm toán viên thực hiện; bằng chứng phỏng vấn (bằng chứng
kiểm tốn thu được từ q trình phỏng vấn các nhân viên, ban giám đốc của
đối tượng kiểm toán về vấn đề kiểm toán viên nghi vấn).

Việc phân chia này giúp kiểm tốn viên có thể kiểm sốt được chi phí
và thời gian của cuộc kiểm tốn vì các bằng chứng sẵn có thì thường có chi


Đề án mơn học

phí thu thập thấp hơn. Tuy nhiên độ tin cậy của những bằng chứng này cũng
không cao.
Thứ hai: Phân loại theo nguồn hình thành bằng chứng
Cách phân loại này dựa vào nguồn gốc của các thông tin, tài liệu có liên
quan đến Báo cáo tài chính được kiểm toán mà kiểm toán viên thu thập được
trong quá trình kiểm tốn. Theo cách này bằng chứng kiểm tốn được chia
thành các loại sau:
Một là, bằng chứng do khách thể kiểm toán phát hành và lưu chuyển
nội bộ doanh nghiệp như: bảng chấm cơng, bảng tính và phân bổ khấu hao,
sổ chi tiết, sổ tổng hợp, phiếu kiểm tra sản phẩm hoàn thành…Lượng bằng
chứng này chiếm một lượng lớn khá phổ biến, nó có thể cung cấp với số
lượng nhanh, chi phí thấp. Tuy nhiên do loại bằng chứng này có nguồn gốc
từ nội bộ khách thể kiểm tốn do đó chúng chỉ thực sự đáng tin cậy nếu hệ
thống kiểm sốt nội bộ có hiệu lực. Do đó tính thuyết phục của bằng chứng
này khơng cao.
Hai là, bằng chứng do đối tượng khác phát hành lưu trữ tại doanh
nghiệp như: hoá đơn bán hàng, biên bản giao nhận hàng hoá, biên bản bàn
giao tài sản cố đinh…Loại bằng chứng này do bên thứ ba có liên quan bên
ngồi doanh nghiệp cung cấp nên nó có độ tin cậy cao. Tuy nhiên các loại
bằng chứng này vẫn có khả năng bị sửa chữa nếu như hệ thống kiểm soát nội
bộ của doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Do đó kiểm tốn viên phải
nắm rõ đặc điểm này để có những quyết định thu thập bằng chứng thích
đáng.
Ba là, bằng chứng là tài liệu do đơn vị phát hành và lưu chuyển ở ngồi

doanh nghiệp như: hố đơn bán hàng, uỷ nhiệm chi,.. Đây là những bằng
chứng có độ thuyết phục cao vì nó được lưu trữ tại cả doanh nghiệp và bên
thứ ba. Tuy nhiên độ tin cậy của loại bằng chứng này cũng phụ thuộc vào tính
độc lập của bên thứ ba.


Đề án mơn học

Bốn là, bằng chứng do bên ngồi phát hành và lưu trữ: loại bằng chứng
này thường được thu thập bằng phương pháp gửi thư xác nhận. Đây là bằng
chứng có tính thuyết phục cao do nó được thu thập trực tiếp bởi kiểm toán
viên. Tuy nhiên nếu kiểm tốn viên khơng quản lý được q trình gửi thư xác
nhận tức là có sự móc nối giữa đối tượng được kiểm toán và bên thứ ba trong
việc cung cấp những thơng tin liên quan tới cuộc kiểm tốn thì bằng chứng
thu thập được sẽ có độ tin cậy thấp.
Năm là, bằng chứng do kiểm toán viên trực tiếp khai thác và phát
hiện: Biên bản kiểm kê vật chất hàng tồn kho, kiểm tra tài sản, quan sát về
hoạt động của kiểm soát nội bộ, bằng chứng thu được từ phỏng vấn,…Loại
bằng chứng này có độ tin cậy cao nhất bởi vì nó được trực tiếp thu thập bởi
kiểm toán viên. Tuy nhiên các loại bằng chứng này cũng có một số nhược
điểm như nó thường phụ thuộc vào thời điểm thu thập ví dụ như thời điểm
kiểm kê, thời điểm quan sát…
Thứ ba: phân loại bằng chứng theo tính thuyết phục.
Kiểm tốn tài chính có đối tượng là các Báo cáo tài chính bao gồm các
thơng tin tổng hợp liên quan đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong
một năm tài chính được kiểm tốn. Với đối tượng kiểm tốn rộng như vậy,
chi phí của kiểm tra và đánh giá tất cả các loại bằng chứng sẽ trở lên rất cao.
Do đó vấn đề đặt ra với kiểm toán viên là phải thu thập được bằng chứng
thuyết phục. Theo cách này bằng chứng kiểm tốn có thể được phân loại như
sau:

Một là, bằng chứng thuyết phục hồn tồn: Đây là loại bằng chứng do
kiểm tốn viên trực tiếp thu thập thông qua kiểm kê, quan sát, phân tích…
Loại bằng chứng này thuờng được đánh giá là khách quan chính xác vì nó
hồn tồn độc lập với đối tượng kiểm toán. Kiểm toán viên thường dựa vào
loại bằng chứng này để đưa ra ý kiến chấp nhận tồn phần. Tuy nhiên chi phí
để thu thập loại bằng chứng này cao. Do vậy nên kiểm tốn viên ln phải
cân nhắc để thu thập được những bằng chứng này với chi phí hợp lý mà vẫn


Đề án môn học

đưa ra được ý kiến đúng đắn về bảng khai tài chính của khách hàng kiểm
tốn.
Hai là, bằng chứng thuyết phục từng phần: đây là các bằng chứng thu
được từ phỏng vấn, phân tích, các loại bằng chứng này thường được đảm bảo
bởi tính hiệu lưc của hệ thống kiểm soát nội bộ. Các bằng chứng này chỉ
thực sự thuyết phục nếu như hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu lực. Các loại
bằng chứng này cần được phân tích và kiểm tra lại. Dựa vào loại bằng chứng
này kiểm tốn viên có thể đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến loại
trừ.
Ba là, bằng chứng khơng có tính thuyết phục: là những bằng chứng
khơng có giá trị trong việc ra ý kiến và quyết định của kiểm tốn viên về
cơng việc kiểm tốn như một số bằng chứng về các xác nhận và giải trình của
nhà quản trị, một số bằng chứng từ phỏng vấn nhà quản trị…
Thứ tư: phân loại bằng chứng theo loại hình bằng chứng
Độ tin cậy của bằng chứng kiểm tốn được đánh giá qua loại hình bằng
chứng theo nguyên tắc: bằng chứng vật chất có độ tin cậy cao nhất. Bằng
chứng dạng văn bản thì có độ tin cậy cao hơn bằng chứng dạng lời nói. Theo
cách phân loại này có các loại sau:
Một là, dạng bằng chứng vật chất: Biên bản kiểm kê tài sản cố định,

biên bản kiểm kê hàng tồn kho, tiền mặt… dạng bằng chứng này có độ tin cậy
cao.
Hai là, dạng bằng chứng tài liệu: tài liệu kế toán, sổ sách kế toán,
chứng từ kế tốn, Báo cáo tài chính… Dạng bằng chứng loại này thì độ tịn
cậy thấp hơn bằng chứng dạng vật chất vì độ tin cây của loại bằng chứng này
phụ thuộc vào tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Ba là, dạng bằng chứng thu được từ lời nói: dạng bằng chứng này
thường thu được qua phỏng vấn… bằng chứng này có độ tin cậy khơng cao
song nó lại cần sự am hiểu cao của người phỏng vấn về vấn đề được phỏng
vấn. Tuy nhiên bằng chứng dạng này có thể là cơ sở cho kiểm tốn viên phân


Đề án mơn học

tích và nhận dạng sai phạm từ đó kết hợp với các phương pháp thu thập bằng
chứng khác để thu thập được bằng chứng kiểm toán thuyết phục.
1.1.4 Quyết định về bằng chứng kiểm toán
Một quyết định quan trọng của kiểm toán viên liên quan tới cuộc kiểm
toán là thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp mà kiểm tốn viên
có thể dựa vào đó để đưa ra ý kiến kết luận về sự trung thực hợp lý của đối
tượng kiểm toán. Tuy nhiên đối tượng kiểm tốn của kiểm tốn Báo cáo tài
chính bao gồm các thơng tin tài chính tổng hợp liên quan tới toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong 1 năm tài chính được kiểm
tốn. Với đối tượng rộng như vậy thì chi phí để kiểm tra, đánh giá tất cả các
bằng chứng là rất cao. Do đó quyết định về thu thập bằng chứng kiểm tốn
đầy đủ và thích hợp có thể được chia thành bốn loại sau:
Thứ nhất: quyết định về thể thức kiểm toán cần áp dụng. Thể thức
kiểm toán là hướng dẫn chi tiết về quá trình thu thập một loại bằng chứng cá
biệt phải thu thập ở một thời điểm nào đó trong cuộc kiểm tốn. Ví dụ: hướng
dẫn chi tiết quá trình thu thập biên bản kiểm kê tiền mặt, vật tư, hay hướng

dẫn chi tiết về thu thập bảng so sánh giữa các séc thanh toán với các khoản
chi tiền mặt…Đối với mỗi thể thức kiểm toán, các thuật ngữ sử dụng được
giải thích rõ ràng. Những hướng dẫn này được sắp xếp theo một thứ tự cụ thể
giúp kiểm toán viên thực hiện trong suốt cuộc kiểm toán.
Thứ hai: quy mô mẫu cần chọn đối với một thể thức kiểm toán
nhất định. Đối với mỗi thể thức kiểm tốn được lựa chọn, có thể có rất nhiều
cách lựa chọn ra một mẫu để tiến hành kiểm tra, quyết định lựa chọn các phần
tử của tổng thể vào mẫu được thực hiện bởi kiểm tốn viên.Thơng qua việc
kiểm tốn trên mẫu sẽ giúp cho kiểm toán viên thu thập và đánh giá bằng
chứng kiểm toán về đặc trưng của các phần tử được chọn, nhằm hình thành
hay củng cố kết luận về tổng thể. Tuy nhiên cần chú ý là bất cứ khi nào chọn
mẫu, rủi ro chọn mẫu cũng phát sinh. Rủi ro chọn mẫu là khả năng mà kết
luận của kiểm toán viên dựa trên mẫu sai lệch so với kết luận mà kiểm toán


Đề án môn học

viên cũng dùng thử nghiệm tương tự áp dụng đối với toàn bộ tổng thể. Như
vậy khi tăng kích cỡ của mẫu chọn sẽ làm rủi ro chọn mẫu giảm. Nếu tăng
kích cỡ mẫu chọn tới khi tồn bộ tổng thể kiểm tốn được lựa chọn để kiểm
tra khi đó rủi ro chọn mẫu bằng khơng. Tuy nhiên nếu kích cỡ mẫu tăng sẽ
làm tăng chi phí kiểm tốn. Do đó quyết định về kích cỡ mẫu là một quyết
định khá quan trọng trong việc thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán.
Kiểm toán viên phải cân đối giữa rủi ro chọn mẫu với chi phí do chọn mẫu
lớn để quyết định kích cỡ mẫu phù hợp. Số lượng phần tử được lựa chọn vào
mẫu để kiểm tra cho một thể thức thay đổi giữa các cuộc kiểm toán.
Thứ ba: quyết định về những khoản mục cá biệt được chọn ra từ
tổng thể. Sau khi lựa chọn được quy mô mẫu cho một thể thức kiểm toán
nhất định, kiểm toán viên cần xác định những khoản mục cá biệt được lựa
chọn vào mẫu để kiểm tra. Quyết định về các khoản mục cá biệt được lựa

chọn vào tổng thể cũng liên quan tới rủi ro chọn mẫu vì nếu lựa chọn khơng
đúng sẽ dẫn đến mẫu không đại diện không đặc trưng cho tổng thể. Nếu kiểm
toán viên dựa vào kết quả kiểm tra với mẫu này để suy rộng ra kết quả cho cả
tổng thể sẽ dẫn tới sai lầm tức là kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến không xác
đáng về đối tượng kiểm tốn. Do đó trong q trình kiểm tốn chọn mẫu thì
kiểm tốn viên có thể áp dụng một trong các phương pháp chọn mẫu sau:
Một là: Chọn mẫu ngẫu nhiên đây là phương pháp chọn các phần tử
vào mẫu mà nguyên tắc của chọn mẫu ngẫu nhiên là mỗi phân tử trong tổng
thể đều có cơ hội như nhau để được chọn vào mẫu. Chọn mẫu ngẫu nhiên
bao gồm: chọn mẫu ngẫu nhiên dựa vào bảng số ngẫu nhiên, chọn mẫu ngẫu
nhiên dựa vào chương trình của máy tính, chọn mẫu ngẫu nhiên theo hệ
thống.
Hai là: chọn mẫu phi xác suất: Là quá trình lựa chọn các phần tử vào
mẫu nhưng các phần tử khơng có cơ hội như nhau để được chọn lựa vào mẫu
mà kiểm toán viên dựa vào nhận định nhà nghề để phán xét và quyết định


Đề án môn học

chọn phần tử nào vào mẫu. Chọn mẫu phi xác suất bao gồm chọn mẫu theo
khối (lô) và chọn mẫu theo nhận định nhà nghề.
Thứ tư: quyết định về thời gian hoàn thành các thể thức. Đối tượng
của kiểm tốn Báo cáo tài chính thường là những thơng tin tài chính của
doanh nghiệp trong một năm tài chính. Do đó khi tiến hành kiểm tốn, kiểm
tốn viên có thể thu thập bằng chứng kiểm tốn sau khi kỳ kế toán mới được
bắt đầu hoặc một khoảng thời gian sau khi kỳ kế tốn kết thúc. Vì vậy nên
thời gian hồn thành của một thể thức kiểm tốn có thể là trước hoặc sau khi
năm tài chính được kiểm toán kết thúc. Tuy nhiên khách hàng kiểm toán
mong muốn cơng ty kiểm tốn hồn thành kiểm tốn trong khoảng thời gian
một q kể từ khi kỳ kế tốn kết thúc.

1.2 Kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán
1.2.1 Kiểm kê vật chất
Kiểm kê vật chất là phương pháp kiểm tra tại chỗ các tài sản để chứng
minh tính hiện hữu của tài sản đó trong doanh nghiệp, kiểm kê thường được
thực hiện vào thời điểm cuối kỳ, để xem xét đơn vị được kiểm tốn có tn
thủ các quy định về kiểm kê tài sản hay không. Do đó kiểm kê vật chất chỉ áp
dụng đối với những tài sản có hình thái vật chất cụ thể như hàng tồn kho, tài
sản cố định hữu hình, tiền mặt và các thanh tốn có giá trị,…
Trong q trình kiểm kê ta phải xác định phạm vi kiểm kê: Đối với những tài
sản dễ xảy ra mất mát thường tiến hành kiểm kê tồn diện (Ví dụ như kiểm kê
tiền mặt, kim khí quý…) Đối với những tài sản khác thì kiểm tốn viên phải
đánh giá tầm quan trọng, mức độ trọng yếu của từng loại để từ đó quyết định
loại hình kiểm kê cho phù hợp: kiểm kê tồn diện hoặc kiểm kê chọn mẫu.
Phương pháp kiểm kê vật chất có ưu điểm là nó cung cấp bằng chứng
có độ tin cậy cao nhất vì kiểm kê là quá trình xác minh sự hiện hữu của tài
sản, mang tính khách quan. Hơn nữa cách thực hiện kỹ thuật kiểm kê đơn
giản phù hợp với chức năng xác minh của kiểm toán. Tuy nhiên phương pháp
này cũng bộc lộ một số nhược điểm như: đối với tài sản cố định như nhà


Đề án mơn học

xưởng, máy móc thiết bị…kỹ thuật kiểm kê chỉ cho biết sự hiện hữu của tài
sản mà không cho biết quyền sở hữu của đơn vị đối với tài sản đó, hoặc tài
sản có thể hiện hữu nhưng là những tài sản thuê ngoài hay đã đem thế chấp.
Đối với những hàng hoá, nguyên vật liệu tồn kho, kiểm tra vật chất chỉ cho
biết sự tồn tại thực tế về số lượng cịn chất lượng, tình trạng kỹ thuật, tính sở
hữu và phương pháp đánh giá chúng thì chưa thể hiện. Do đó phương pháp
kiểm kê khơng cung cấp đầy đủ bằng chứng về sự sở hữu, chất lượng và giá
trị. Do đó nó cần phải đi kèm với các bằng chứng khác. Ngồi ra thì độ tin

cậy của bằng chứng thu được từ phương pháp kiểm kê còn phụ vào kỹ năng
và hiểu biết của kiểm toán viên thực hiện kiểm kê. Nếu kiểm toán viên thiếu
sự hiểu biết chuyên môn về đánh giá sự đa dạng của các chủng loại tài sản
kiểm kê, hoặc kiểm tốn viên tham gia kiểm kê khơng cẩn thận thì bằng
chứng thu được có sự sai lệch.
Trên thực tế nhiều cơng ty kiểm tốn chỉ được mời sau khi đơn vị kiểm
toán đã kiểm kê xong. Trường hợp này rủi ro kiểm tốn là rất lớn nó là một
trong những yếu tố tạo ra sự khác biệt về kỳ vọng giữa kiểm tốn viên và
những người quan tâm. Ví dụ một mặt hàng nhập khẩu của nước ngồi nó có
thể đã được sử dụng và bị lỗi thời nhưng do nó là một mặt hàng mới với Việt
Nam do đó nó vẫn được tính giá mới. Hệ quả của vấn để này là kết quả kiểm
kê chỉ đạt mức độ tin cậy tương đối. Do đó để phát huy tác dụng nâng cao
hiệu quả kiểm kê, công tác kiểm kê cần thực hiện theo quy trình chung từ
khâu chuẩn bị đến thực hành và kết thúc kiểm kê.
Thứ nhất: giai đoạn chuẩn bị kiểm kê phải căn cứ: một là, mục tiêu,
qui mơ, thời hạn kiểm kê để bố trí lực lượng và cơ cấu nhân viên, các thiết bị
đo lường phù hợp và chính xác. Đây là yếu tố quyết định chất lượng của
kiểm kê nói riêng và của kiểm tốn nói chung. Hai là, đặc điểm của hệ thống
kiểm soát nội bộ liên quan tới hàng tồn kho, tiền mặt, tài sản cố định…Ba là,
các rủi ro tiềm tàng , rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện và tính trọng yếu của
các tài sản được tiến hành kiểm kê. Trong giai đoạn chuẩn bị kiểm kê thì các


Đề án môn học

thủ tục kiểm kê và hướng dẫn thực hành kiểm kê được xác lập bao gồm
những thông tin về: Địa điểm kiểm kê, sự cần thiết phải tham gia kiểm kê của
chuyên gia…
Thứ hai: giai đoạn thực hành kiểm kê phải theo đúng yêu cầu và ghi
chép đầy đủ theo từng mã, lô hàng (đối với hàng tồn kho), theo từng loại tiền

đối với kiểm kê tiền….Phiếu (sổ) mã cân hay phiếu kiểm kê…trở thành
chứng từ kế tốn. Trong q trình thực hành kiểm kê phải xem xét tính đầy
đủ chính xác của hồ sơ kiểm kê bằng cách đối chiếu khoản mục trên hồ sơ
kiểm kê kho với danh mục thực tế kiểm kê kho. Lập một bản sao hồ sơ kiểm
kê kho để so sánh sau này. Ghi chép những biến động trong suốt quá trình
kiểm kê để xem xét việc hạch tốn sau này đối với nghiệp vụ trước và sau
kiểm kê.
Trong thực tế, kiểm kê hiện vật hàng tồn kho có thể được thực hiện
vào thời điểm khác với thời điểm kết thúc niên độ. Thông thường cách làm
này chỉ được áp dụng cho trường hợp kiểm toán khi rủi ro kiểm soát được
đánh giá là thấp hoặc trung bình. Trường hợp này kiểm tốn viên phải phát
hiện các thủ tục thích hợp để xem xét sự biến động của hàng tồn kho giữa
ngày kết thúc niên độ có được hạch tốn một cách chính xác hay khơng.
Trường hợp hàng tồn kho được bên thứ ba kiểm sốt hoặc bảo quản thì kiểm
tốn viên phải yêu cầu bên thứ ba xác nhận trực tiếp về số lượng và tình trạng
hàng tồn kho mà bên thứ ba giữ hộ cho đơn vị.
Thứ ba: giai đoạn kết thúc kiểm kê cần có biên bản kiểm kê nêu rõ
chênh lệch, các nguyên nhân và xử lý cụ thể. Biên bản cần được đính kèm
phiếu kiểm kê, bảng kê chênh lệch và kết quả kiểm kê.
1.2.2 Lấy xác nhận
Việc xác nhận thơng tin từ bên ngồi là q trình thu thập và đánh giá
bằng chứng kiểm tốn thông qua việc liên hệ trực tiếp với bên thứ ba để nhận
được phúc đáp của họ về các thông tin cụ thể ảnh hưởng đến cơ sở dẫn liệu
được Ban Giám đốc lập và trình bày trong Báo cáo tài chính của đơn vị được


Đề án mơn học

kiểm tốn, Đây là những thơng tin mà kiểm tốn viên nghi ngờ cần tìm kiếm
thơng tin để chứng minh.

Kỹ thuật xác nhận bằng chứng thu được từ bên thứ ba độc lập với đối
tượng kiểm toán nên bằng chứng thu được từ kỹ thuật này được đánh giá là
có độ tin cậy cao. Tuy nhiên các xác nhận tương đối tốn kém. Thư trả lời
thường không thu được do nhiều nguyên nhân: Sự thiếu hợp tác của bên thứ
ba, thư xác nhận bị thất lạc. Bằng chứng thu được có thể bị giảm độ tin cậy
nếu như có sự dàn xếp giữa ban giám đốc với bên thứ ba. Sự tin cậy của bằng
chứng kiểm toán thu thập được từ thông tin xác nhận từ bên ngồi phụ thuộc
vào các thủ tục mà kiểm tốn viên đã áp dụng để yêu cầu xác nhận từ bên
ngoài, phụ thuộc quá trình thực hiện xác nhận từ bên ngoài; và đánh giá kết
quả của thủ tục xác nhận từ bên ngoài. Những nhân tố ảnh hưởng đến độ tin
cậy của việc xác nhận từ bên ngoài bao gồm: Sự kiểm soát mà kiểm toán
viên thực hiện đối với yêu cầu xác nhận và thư phúc đáp, tính chất của thư
phúc đáp và bất kỳ sự hạn chế nào trong việc phúc đáp hoặc áp đặt của Ban
Giám đốc. Do đó kỹ thuật này khơng được áp dụng rộng rãi cho mọi khoản
mục. Hình thức lấy xác nhận khơng được dùng để chứng minh nghiệp vụ
kinh tế diễn ra giữa các tổ chức, cá nhân ví dụ hình thức xác nhận không
được sử dụng để xác minh từng nghiệp vụ bán hàng lúc này người ta có thể
sử dụng các chứng từ để tiến hành kiểm tra. Hay hình thức lấy xác nhận hiếm
khi được sử dụng để thu thập bằng chứng về tài sản cố định bởi vì có thể thu
thập được đầy đủ bằng chứng thơng qua xác minh tài liệu kiểm kê, biên bản
bàn giao tài sản cố định…Tuy nhiên trên thực tế hình thức lấy xác nhận được
là hình thức ưu việt được sử dụng để thu thập bằng chứng về các khoản công
nợ. Bởi vì các khoản mục cơng nợ phải thu và phải trả là các khoản mục
trọng yếu trên Báo cáo tài chính, hình thức lấy xác nhận các khoản cơng nợ
là hình thức thu được bằng chứng kiểm tốn kiểm tốn đáng tin cậy về
chúng.


Đề án mơn học


Thư xác nhận được kiểm tốn viên soạn, sau khi đã có ký duyệt của
đơn vị được kiểm tốn thì kiểm tốn viên tiến hành gửi thư xác nhận và sau
khi được xác nhận thì các thư phúc đáp phải được gửi trực tiếp cho kiểm toán
viên. Kiểm tốn viên phải kiểm sốt được tồn bộ q trình gửi và nhận thư
xác nhận. Nếu khách hàng tiến tiến hành kiểm soát từ khâu chuẩn bị đến
khâu gửi và nhận thư xác nhận thì bằng chứng thu được khơng có tính độc
lập. Do đó quy trình này nhằm đảm bảo tính độc lập của kỹ thuật xác nhận
đối với đơn vị được kiểm tốn.
Các hình thức thư xác nhận: Có hai hình thức thư xác nhận là thư xác nhận
phủ định và thư xác nhận khẳng định.
Gửi thư xác nhận dạng phủ định: kiểm toán viên yêu cầu người xác
nhận gửi thư phản hồi nếu có sai khác giữa thực tế với thơng tin kểm tốn
viên nhờ xác nhận .
Gửi thư xác nhận dạng khẳng định: kiểm toán viên yêu cầu người xác
nhận thư phản hồi cho tất cả các thư xác nhận dù thực tế có trùng khớp với
thơng tin mà kiểm tốn viên quan tâm. Hình thức này có độ tin cậy cao hơn
cho kỹ thuật xác nhận, nhưng chi phí lại cao.
Khi gửi thư xác nhận kiểm toán viên cần chủ ý: Thứ nhất, đặc điểm
khoản mục đối tượng thông tin cần xác nhận. Những nội dung thơng tin cần
xác nhận từ bên ngồi phải phù hợp với những mục tiêu kiểm toán cụ thể.
Thứ hai, cân nhắc khả năng nhận được thư trả lời. Khi thiết lập các nội dung
thông tin cần xác nhận, kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn cần cân nhắc tới
các loại thông tin mà người được yêu cầu có thể sẵn sàng xác nhận ngay, vì
điều này có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ phúc đáp và nội dung của bằng chứng thu
thập được. Thứ ba, cân nhắc đối tượng gửi thư xác nhận để chọn và gửi thư.
Cơng việc kiểm sốt được duy trì giữa những người nhận thư và kiểm toán
viên nhằm giảm thiểu khả năng các kết quả xác nhận là không khách quan do
các yêu cầu xác nhận và thông tin phản hồi bị ngăn chặn hoặc bị thay đổi.



Đề án mơn học

Ngồi ra, kiểm tốn viên cũng cần phải đảm bảo rằng đã gửi các nội dung đề
nghị xác nhận đến đúng địa chỉ và các phản hồi sẽ được gửi trực tiếp tới
kiểm toán viên. Kiểm toán viên cũng phải xem xét tới việc các thông tin
phản hồi có được gửi cho những người liên quan hay khơng. Thứ tư, hình
thức gửi thư xác nhận. Kiểm tốn viên có thể lựa chọn thư xác nhận dạng
đóng hoặc thư xác nhận dạng mở hoặc có thể kết hợp cả hai dạng trên. Ví dụ,
khi tổng số dư các khoản phải thu của đơn vị được kiểm toán bao gồm chủ yếu
là một số lượng nhỏ các số dư lớn hay một số lớn các số dư nhỏ, kiểm tốn viên
có thể quyết định rằng sẽ xác nhận tất cả hay chọn mẫu các khách hàng có số nợ
lớn với thư xác nhận khẳng định và chọn mẫu các khách hàng có số dư nợ nhỏ
với thư xác nhận phủ định. Thứ năm, kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn
phải xem xét những thơng tin xác nhận từ bên ngồi đã nhận được có đáng
tin cậy hay khơng. Kiểm tốn viên sẽ xem xét đến tính chính xác của những
thông tin phản hồi đồng thời phải thực hiện các thủ tục để xác định tính trung
thực của thơng tin phản hồi. Kiểm tốn viên có thể thẩm định lại nguồn và
nội dung của thông tin phản hồi qua điện thoại đối với người gửi thơng tin
đó. Ngồi ra, kiểm tốn viên có thể đề nghị người xác nhận gửi bản gốc trực
tiếp cho mình. Cùng với sự phát triển ngày càng cao trong việc sử dụng công
nghệ, kiểm tốn viên ngày càng quan tâm đến tính chính xác của nguồn
thông tin phản hồi mà họ nhận được thông qua các hình thức lưu chuyển điện
tử như fax hay thư điện tử. Sự xác nhận bằng lời nói phải được ghi bằng văn
bản. Nếu những thông tin xác nhận bằng lời nói là quan trọng, kiểm tốn
viên nên đề nghị bên liên quan gửi Thư xác nhận qua giấy tờ trực tiếp tới
kiểm toán viên.




×