Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Phòng ngừa chữa trị cận thị cho trẻ: Khó khăn từ phía người lớn doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.51 KB, 5 trang )

Phòng ngừa chữa trị cận thị cho trẻ:
Khó khăn từ phía người lớn
Cận thị là sự suy giảm khả năng nhìn xa, trong đó ảnh
của sự vật không được hội tụ đúng vào điểm vàng trên
võng mạc mà rơi ra phía trước võng mạc, vì vậy muốn
nhìn rõ phải dùng một thấu kính phân kỳ để điều
chỉnh hiện tượng này.
Phân loại cận thị
Có nhiều cách phân loại cận thị, thế nhưng cách phân loại
phổ biến nhất là chia thành 2 nhóm: cận thị học đường và
cận thị bệnh lý.
Cận thị học đường hay cận thị trên người trẻ (từ 8 - 22
tuổi) bắt đầu hình thành đầu cấp II, tăng độ cận dần theo
năm tháng đi học, mỗi năm 0,5 - 1 độ, (đi-ốp - D) dừng
lại khoảng 6D.
Cá biệt cũng có những trường hợp cận bệnh lý (cận thị
thoái hóa): có yếu tố di truyền, số kính tiếp tục gia tăng
sau tuổi trưởng thành, cận đến 10D hoặc hơn, không thể
đeo đúng số, nhiều biến chứng, thị lực khó đạt mức tối đa
mặc dù đã cố gắng chỉnh kính.
Một thực tế ở nước ta là nhiều người không hề cận thị khi
còn đi học, là sinh viên nhưng khi đi ra trường, đi làm lại
bị cận thị. Họ đều ở môi trường làm việc bằng mắt nhiều
ở cự ly gần, với máy tính chẳng hạn. Mặc dù độ cận
không cao nhưng cận thị sẽ theo đuổi những người này
đến khi họ ở tuổi trung niên (tuổi phải đeo kính lão).
Khám mắt cho
học sinh tại một
trường tiểu học
vùng cao.
Dấu hiệu


Phát hiện cận thị thường là do cha mẹ hoặc cô giáo,
những người gần gũi với trẻ nhất, bản thân trẻ thường
không ý thức được việc chúng bị cận thị, chúng tưởng ai
cũng chỉ nhìn được như vậy.
Đa phần cận thị sẽ bộc lộ khi trẻ bước vào cấp II, sau một
số năm học hành, trừ những trẻ có yếu tố di truyền rõ. Trẻ
bị cận thị có những biểu hiện chung mà bản chất của
những biểu hiện này là nhằm để cải thiện thị lực nhìn xa.
Hay gặp nhất là trẻ có biểu hiện nheo mắt, nghiêng đầu,
có xu hướng thích tiến gần đến nguồn tài liệu. Do loay
hoay với việc khắc phục thị lực nhìn xa nên học tập kém
tập trung, kết quả giảm sút do chép bài không kịp, mỏi
mắt, ngại học bài Thời lượng học tập cũng không thể
như trẻ bình thường, nhanh mỏi mắt, có thể dẫn tới đau
nhức mắt và đau đầu.
Nhờ những khó chịu kể trên nên khi hỏi bệnh các bác sĩ
đã có những định hướng quan trọng cho việc chẩn đoán.
Bên cạnh đó cũng cần khám xét, đo lường bổ sung.
Khẳng định cận thị không khó, trừ một số trường hợp giả
cận thị hoặc cận thị gắn liền với các hội chứng bẩm sinh
hoặc rối loạn chuyển hóa. Thông thường chỉ bằng việc
thử thị lực, đo khúc xạ, thử kính thấy thị lực đạt tối đa là
có thể kết luận trẻ có bị cận thị hay không. Các trường
hợp khác cận thị kèm với loạn thị, cận thị giả, cận thị do
một biểu hiện của bệnh nào đó sẽ phức tạp hơn, cần có
bác sĩ chuyên khoa khám xét cẩn thận.
Một số trường hợp có thể gây bối rối, phân vân cho bác sĩ
khi khám và kê đơn kính. Đó là trẻ không tập trung, nói
dối, không hợp tác. Thông tin bị nhiễu loạn có thể gây
khó khăn cho việc thử thị lực, thử kính. Thế nhưng, với

các bác sĩ hay chỉnh quang viên giàu kinh nghiệm, đầy đủ
trang thiết bị thì những khó khăn trên không thành vấn đề
gì. Người ta luôn có cách để cấp được kính chính xác cho
trẻ.
Dự phòng và điều trị bệnh cận thị
Nhiều người cho rằng, khi mới phát hiện trẻ bị cận không
nên cho đeo kính vì như vậy độ cận của trẻ sẽ bị tăng
nhanh. Để trả lời câu hỏi trên, người ta đã làm nghiên cứu
hai nhóm đối chứng, nhóm có đeo và không đeo. Hằng
năm có đánh giá lại tình trạng khúc xạ thì thấy đeo hay
không đeo không ảnh hưởng đến độ gia tăng cận thị. Có
một điều chắc chắn là: không đeo nhất định sẽ gặp khó
khăn trong học tập và sinh hoạt, nhìn gần cường độ cao
trong thời gian dài sẽ làm gia tăng số cận.
Tùy độ cận, độ thỏa mãn khi dùng kính, tình trạng bệnh lý
kèm theo mà bác sĩ sẽ đặt lịch khám lại cho trẻ. Cận thị
nhỏ hơn 6D khoảng 1 năm khám 1 lần. Trên 6D khoảng 6
tháng khám mắt 1 lần.
Cho trẻ học tập điều độ, kết hợp với vui chơi, hoạt động
thể lực tích cực sẽ làm hạn chế gia tăng cận thị. Tuy nhiên
dinh dưỡng cũng đóng vai trò quan trọng, dùng đủ
vitamin A, C, E kèm theo các khoáng chất kẽm, selen,
đồng được cho là hạn chế tăng số cận cùng với những
thoái hóa do cận thị. Các yếu tố dinh dưỡng trên có nhiều
trong rau xanh đậm, hoa quả màu đỏ, cá biển và một số
loài nhuyễn thể.
Cận thị là một vấn đề lớn của sức khỏe cộng đồng. Hiểu
biết về cơ chế bệnh còn hạn hẹp, các phương pháp điều trị
căn nguyên vẫn chưa được xác lập. Giới chuyên môn
chưa thể có những khuyến cáo mạnh mẽ và chính xác với

công chúng. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, tất cả
đều thống nhất rằng các biện pháp sau đây sẽ góp phần
làm giảm tỷ lệ cận thị, giảm nhẹ biến chứng và tốc độ gia
tăng số kính:
- Đảm bảo cho trẻ vệ sinh mắt tốt: chiếu sáng, cự ly,
khoảng cách học tập, học kết hợp với vui chơi và hoạt
động ngoại khóa
- Cung cấp dinh dưỡng đúng và đủ: vitamin A, C, E,
khoáng chất.
- Chăm sóc đặc biệt cho trẻ cận thị số cao: tránh chấn
thương, khám mắt đều đặn, phát hiện và điều trị sớm biến
chứng.

×