Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tắc kè - Thuốc bổ dương, mạnh gân xương doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.7 KB, 5 trang )

Tắc kè - Thuốc bổ dương,
mạnh gân xương
Tắc kè (Gekko gekko L.), tên
khác là cắc kè, đại bích hổ, là
một động vật quý, đặc sản của
vùng rừng núi nước ta. Từ lâu,
y học cổ truyền và kinh
nghiệm dân gian đã công nhận
tắc kè (tên thuốc là cáp giới) có giá trị cao về
mặt bổ dưỡng (ích khí, lợi huyết, tăng cường thể
lực) và mạnh gân xương (giảm đau, trợ dương,
chống viêm nhiễm).
Về mặt hóa học, tắc kè chứa chất béo với hàm
lượng 13-15% ở thân và 23-25% ở đuôi, các
acid amin như acid glutamic, alanin, glycin,
arginin, lysin, acid aspartic, serin, phenylalanin,
leucin, valin, prolin, histidin, treonin, cystein, đa
số là những loại không thay thế được.
Người ta thường dùng tắc kè dưới hai dạng:
dạng tươi sống và dạng phơi khô.
Tắc kè.
Dạng tươi sống, chữa kém ăn, gầy còm, suy
dinh dưỡng, tinh thần mệt mỏi, ho lâu ngày, hen
suyễn. Tắc kè bắt về, đem chặt bỏ đầu (từ hai
mắt trở lên) và bốn bàn chân. Dùng dao sắc khía
dọc sống lưng, lột hết da như lột da ếch, mổ
bụng, bỏ ruột, rửa sạch, chặt từng miếng, ướp
với nước mắm có gừng (để khử mùi tanh) rồi
nấu cháo ăn. Liều dùng trong ngày: 50-100g.
Hoặc rang sấy thịt tắc kè đã tẩm ướp cho khô
giòn, tán bột, rây mịn. Ngày uống 4-5g chia làm


hai lần. Có thể phối hợp bột tắc kè với yến
huyết, ngưu bàng, tử hà sa và mật ong để làm
viên bằng hạt ngô. Ngày uống hai lần, mỗi lần
20 viên.
Dạng phơi khô, chữa đau xương, đau mình, tê
thấp, liệt dương, đái nhắt, đái són. Lật ngửa tắc
kè, ghim chặt 4 chân trên một mảnh gỗ, rạch
một đường từ cổ xuống đến gốc đuôi, moi bỏ
ruột, lau sạch máu và nhớt (không rửa nước).
Dùng hai que to, một que xuyên ngang căng hai
chân trước và que kia xuyên ngang hai chân sau,
rồi lấy hai que mềm hơi đặt chéo trong lồng
bụng để căng cho phẳng và cuối cùng lấy một
que dài và cứng xuyên dọc từ đầu đến quá chót
đuôi. Dùng giấy bản quấn chặt đuôi vào que để
khỏi bị đứt hoặc gãy rơi mất (vì đuôi tắc kè là
bộ phận quý nhất). Đem phơi hoặc sấy khô ở
nhiệt độ 50-60oC.
Cách chế biến này còn bảo đảm giá trị thương
phẩm và xuất khẩu của tắc kè. Dược liệu có
hình dẹt, phẳng, đầu, đuôi, chân đều căng thẳng.
Mắt lõm xuống, miệng có răng rất nhỏ. Lưng
màu đen xám, điểm những chấm nâu sáng, trắng
hoặc vàng nhạt, sống lưng nhô rõ. Toàn thân có
những vảy rất nhỏ, nhẵn bóng. Thứ con to, béo
mập, thịt trắng, đuôi còn nguyên vẹn là loại tốt.
Ngoài thị trường, người ta thường buộc tắc kè
khô thành từng đôi để bán (1 con to, 1 con nhỏ)
tượng trưng cho con đực và con cái.
Khi dùng, lấy 3-4 con tắc kè đã chế biến nhúng

vào nước sôi, cạo sạch vảy ở lưng, chặt bỏ 4 bàn
chân và đầu từ hai mắt đến miệng. Cắt thành
miếng nhỏ, tẩm nước gừng, sao vàng, rồi ngâm
vào một lít rượu 40o, thêm ít trần bì cho thơm,
để 10-15 ngày, càng lâu càng tốt. Thỉnh thoảng
lắc đều, rồi lọc kỹ thành rượu tắc kè. Ở nhiều
vùng, người ta còn ngâm rượu tắc kè với chim
bìm bịp và củ sâm cau. Ngày uống 1-2 lần, mỗi
lần một cốc nhỏ. Thêm đường cho dễ uống.
Dùng riêng hoặc phối hợp với nhiều vị thuốc
khác nguồn gốc thực vật trong các bài thuốc
sau:
Chữa tay chân nhức mỏi, đau lưng, thận suy, ho
lâu ngày (nhất là ở người cao tuổi): Tắc kè 24g,
đẳng sâm 40g, huyết giác 3g, trần bì 3g, tiểu hồi
1g. Tắc kè ngâm với trần bì và tiểu hồi trong
rượu 40o để được 300ml. Các dược liệu khác
thái nhỏ, cũng ngâm với rượu 40o trong 10-15
ngày được 700ml. Hòa lẫn hai rượu với nhau,
thêm 60g đường kính (đã nấu thành sirô) để
thành 1 lít. Lọc kỹ, ngày uống 1-2 lần, mỗi lần
15-20ml sau bữa ăn hoặc trước khi đi ngủ.
Chữa suy yếu sinh lực, liệt dương: Tắc kè 50g,
ba kích 100g, hà thủ ô đỏ 100g, hoàng tinh hoặc
thục địa 100g, đại hồi 10g.
Cách làm, cách dùng và liều lượng như bài trên.
Ngoài ra, tắc kè phối hợp với xác rắn lột (lượng
hai thứ bằng nhau) đốt tồn tính, tán nhỏ. Ngày
uống hai lần, mỗi lần 2-4g với rượu hâm nóng
sau bữa ăn chữa hen suyễn, bụng đầy trướng,

đại tiện bí (Nam dược thần hiệu). Hoặc tắc kè 1
đôi; tri mẫu, hạnh nhân, bối mẫu, cam thảo, vỏ
rễ dâu, phục linh, mỗi thứ 60g; nhân sâm 6g.
Tất cả thái nhỏ, phơi khô, tán thành bột mịn
hoặc làm viên. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 6-9g
với nước ấm, chữa ho ra máu, chứng thở dốc
(Tài liệu nước ngoài).

×