Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

chuyên đề tìm hiểu về cúm gia cầm và vaccine phòng bệnh ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.63 KB, 46 trang )

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Dịch cúm A/H5N1 bắt đầu bùng phát vào cuối tháng 12/2003 tại Việt
Nam, nhanh chóng lan rộng tới nhiều tỉnh/thành chỉ trong thời gian ngắn, và
liên tục tái bùng phát hàng năm trong cả nước cho đến nay. Để ngăn chặn
dịch bệnh, hàng trăm triệu gia cầm đã bị tiêu huỷ, gây thiệt hại trầm trọng
cho ngành chăn nuôi gia cầm nói riêng, và ảnh hưởng tới nền chăn nuôi
nước nhà nói chung.
Đã có 385 trường hợp mắc cúm A/H5N1, trong đó, 243 trường hợp đã tử
vong, chiếm 63,11%, trong đó Việt Nam và Indonesia là hai quốc gia có số
người nhiễm và tử vong cao nhất. Không giống như dịch cúm A/H5N1 giai
đoạn 1996 - 2002, có thể khống chế bằng cách tiêu diệt và loại trừ loài gia
cầm trong vùng dịch, cúm A/H5N1 thể độc lực cao giai đoạn 2003 đến nay,
với sự xuất hiện nhiều genotype khác nhau, lan truyền từ Nam Trung Quốc
đến các nơi khác trên thế giới. Tính gây bệnh của A/H5N1 thể độc lực cao
có hiệu ứng của sản phẩm đa gen và khả năng tái tổ hợp tạo virus mới với
đặc tính gây bệnh và độc lực khác nhau. Về phương diện dịch tễ, tiến hóa,
tạo biến chủng, biến đổi kháng nguyên - miễn dịch, tính mẫn cảm và đề
kháng với dược liệu, khác với nhiều virus khác ở gia cầm, virus cúm
A/H5N1 có xu hướng đột biến nhanh để tạo nên nhiều biến chủng phân chia
thành nhiều phân dòng khác nhau và có tính thích ứng phổ rộng đối với loài
mắc. Vaccine được phát triển từ nhiều chủng virus cúm A/H5N1 bằng kỹ
thuật hiện đại, hứa hẹn tiềm năng phòng chống. Trong bài tổng quan này,
giới thiệu những đặc điểm cơ bản của virus cúm A/H5N1 và tóm lược những
nghiên cứu về vaccine của cúm A/H5N1 ở Việt Nam và Thế giới. [4]
1
Chương I. TỔNG QUAN VỀ CÚM A/H5N1
I TÌNH HÌNH CÚM GIA CẦM TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
1. Sơ lược lịch sử của bệnh
Bệnh cúm gia cầm được Porroncito mô tả lần đầu tiên khi nghiên cứu ổ
dịch trên gia cầm tại Italia vào năm 1878 với tên gọi là dịch tả gà. Do bệnh


gây ra tỉ lệ tử vong rất cao ở gia cầm nên Porroncito đã nhận định rằng đây
là bệnh rất nguy hiểm và quan trọng trong tương lai. Tuy nhiên phải tới năm
1901, Cettai và Sawnozzi mới xác định được yếu tố gây bệnh là căn nguyên
siêu nhỏ có khả năng qua lọc (Fillter agent). Qua một thời gian rất dài, đến
năm 1955 Achafer mới xác định được chính xác nguyên nhân gây bệnh cúm
gia cầm là do virus cúm typ A thông qua kháng nguyên bề mặt H7N7 và
H7N1. Năm 1963 virus cúm typ A đã được phân lập từ gà tây ở Bắc Mỹ do
loại thủy cầm di trú dẫn nhập vào.
Bệnh cũng được Beard. C.W mô tả tương đối kỹ vào năm 1971 qua đợt
dịch cúm khá lớn trên gà tây ở Mỹ. Các năm tiếp theo bệnh tiếp tục được
phát hiện ở Nam Mỹ, Bắc Mỹ, Nam Phi, Trung Cận Đông, Châu Âu, Châu
Úc và Châu Á.
Đã có rất nhiều báo cáo về các đợt dịch cúm trầm trọng có liên quan đến
các virus cúm typ A trong 20 năm qua nhưng đã không được quan tâm một
cách đầy đủ. Theo thống kê của Alexander có thể kể đến các ổ dịch lớn: ở
Australia (1975 – 1985), Anh (1979), Mỹ (1983 – 1984), Ireland (1983 –
1984), Mexico (1994). Đặc biệt ở Hồng Kông (1997). Cúm gia cầm đã gây
nên đại dịch trong chăn nuôi gia cầm và gây thiệt hại to lớn về mọi mặt cho
đặc khu kinh tế này. Và đây cũng là lần đầu tiên người ta ghi nhận được
2
virus cúm gà gây bệnh trên gia cầm có thể lây nhiễm và gây tử vong cho
người.
Do tính chất nguy hiểm của bệnh, nên từ sau khi phát hiện ra virus cúm
typ A – Căn nguyên của bệnh, các nhà khoa học đã đi sâu ngiên cứu toàn
diện về loài virus này. Các công trình nghiên cứu có hệ thống về bệnh đã lần
lượt được công bố ở Úc – 1975, Anh – 1979, Mỹ 1983 – 1984, Ailen 1983 –
1984. Và đặc biệt sau lần hội thảo đầu tiên về cúm gia cầm vào năm 1981
của hiệp hội các nhà chăn nuôi gia cầm trên thế giới và 2 lần liên tiếp vào
các năm 1987, 1992 đến nay thì cúm gia cầm luôn là nội dung quan trọng
trong các hội nghị về dịch tễ thú y trên thế giới và các nghiên cứu về bệnh

nói chung càng chở nên phong phú và đa dạng hơn.[1]
1.1. Tình hình cúm gia cầm trên thế giới
Cúm A/H5N1 là một virus có độc lực cao, và gây bệnh trên người, trong
các vụ dịch cúm gà những năm 1996 - 2008, đặc biệt ác liệt là do virus cúm
A/H5N1 thể độc lực cao (HPAI, highly pathogenic avian influenza) gây ra
kể từ năm 2003 cho đến nay và phát sinh nhiều dưới dòng (sublineage) và
nhóm/phân nhóm (clade) có độc lực rất cao (Hình 1.1.).
3
Hình 1.1. Bản đồ các quốc gia xảy ra dịch cúm A/H5N1 ( WTO tính đến
15/09/2008). Phần bôi đậm là vùng dịch cúm xảy ra trên gia cầm. Phần bôi
nhạt là vùng dịch cúm chỉ xảy ra trên chim hoang dã.
Chủng virus cúm A/H5N1 được phát hiện lần đầu tiên gây bệnh dịch trên
gà tại Scotland vào năm 1959. Có thể gọi cúm A/H5N1 phân lập năm 1959
tại Scotland là virus cúm A/H5N1 cổ điển (danh pháp: A-Ck-Scotland-(59)
(H5N1) (số đăng ký: X07869). Từ đó cho đến nay, H5 và N1 đã có thay đổi
lớn xét về cấu trúc thành phần gen và kháng nguyên miễn dịch. Sau gần 40
năm không phát hiện, cúm A/H5N1 xuất hiện tại Quảng Đông (1996), và
Hồng Kông (1997) với biến đổi sâu sắc, không những gây chết gia cầm mà
còn thích ứng và gây chết người bệnh. Có thể coi dòng virus cúm A/H5N1
từ 1996 đến nay là cúm A/H5N1 hiện đại mới xuất hiện (de Jong, Hien,
2006). Đặc biệt, từ 2003 đến nay, virus H5N1 gây ra dịch cúm trên gia cầm
tại Hồng Kông, Trung Quốc và lây lan sang hàng chục quốc gia trên thế giới
ở châu Á, châu Âu và châu Phi. Cúm A/H5N1 giai đoạn 2003 đến nay, cơ
bản về cấu trúc vẫn như trước đó, nhưng xét về độc lực (tính gây bệnh), loài
4
vật chủ nhiễm bệnh, tính kháng nguyên - miễn dịch và mức độ truyền lây có
nhiều nét đặc trưng hơn và khác với nhiều biến chủng H5N1 trước đây.
Từ cuối 2005, cúm A/H5N1, chủ yếu là các chủng virus thuộc phân dòng
Thanh Hải (nguồn gốc vùng Bắc Trung Quốc) bắt đầu lan sang một số nước
vùng Trung Á, trong đó có Nga, rồi tràn ngập Đông Âu và xâm nhập vào các

nước vùng Tiểu Á, bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ, các nước Bắc- Trung Phi, đặc biệt
Ai Cập và Nigeria là các nước chịu thiệt hại nhiều nhất. Nhằm ngăn chặn
dịch bệnh lây lan, trong hơn mười năm qua, trên thế giới đã có hàng trăm
triệu gia cầm đã bị tiêu hủy, gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi và
kinh tế. Đặc biệt, số người nhiễm và tử vong do virus cúm A/H5N1, mỗi
năm một cao hơn, theo thống kê số người bị nhiễm cúm gia cầm H5N1 báo
cáo với Tổ chức Y tế thế giới (WHO), từ năm 2003 đến tháng 6/2008, đã có
tới 385 trường hợp mắc cúm A/H5N1, trong đó, 243 trường hợp đã tử vong
chiếm tới 63,11%. Việt Nam và Indonesia là các 2 quốc gia có số người
nhiễm và tử vong cao nhất do virus cúm A/H5N1 trên thế giới.Trong số 16
nước có người chết do cúm gia cầm, Inonesia và Việt Nam được WHO xác
định là quốc gia “điểm nóng” có thể cúm A/H5N1 có được các điều kiện
thuận lợi để tiến hóa thích nghi lây nhiễm và trở thành virus của người.[5]
1.2. Tóm tắt dịch cúm gia cầm ở Việt Nam
Dịch cúm gia cầm A/H5N1 bùng phát tại Việt Nam vào cuối tháng
12/2003 ở các tỉnh phía Bắc, sau đó đã nhanh chóng lan tới hầu hết các
tỉnh/thành trong cả nước chỉ trong một thời gian ngắn. Đây là lần đầu tiên
dịch cúm gia cầm A/H5N1 xảy ra tại Việt Nam, có tới hàng chục triệu gia
cầm bị tiêu hủy, gây thiệt hại nặng nền tới nền kinh tế quốc dân. Tính đến
tháng 10/2008, dịch cúm gia cầm liên tục tái bùng phát hàng năm tại nhiều
địa phương trong cả nước, có thể phân chia thành các đợt dịch lớn như sau:
5
- Đợt dịch thứ nhất từ tháng 12/2003 và 30/03/2004, dịch cúm xảy ra ở
các tỉnh Hà Tây, Long An và Tiền Giang. Dịch bệnh lây lan rất nhanh, chỉ
trong vòng hai tháng đã xuất hiện ở 57/64 thành trong cả nước. Tổng số gà
và thủy cầm mắc bệnh, chết và thiêu hủy hơn 43,9 triệu con, chiếm 17%
tổng đàn gia cầm. Trong đó, gà chiếm 30,4 triệu con, thuỷ cầm 13,5 triệu
con. Ngoài ra, có ít nhất 14,8 triệu chim cút và các loại khác bị chết hoặc
thiêu huỷ. Đặc biệt, có 3 người được xác định nhiễm virus cúm A/H5N1 và
cả 3 đã tử vong trong đợt dịch này.

- Đợt dịch thứ 2 từ tháng 4 đến tháng 11/2004: dịch bệnh tái phát tại 17
tỉnh, thời gian cao điểm nhất là trong tháng 7, sau đó giảm dần đến tháng
11/2004 chỉ còn một điểm phát dịch. Tổng số gia cầm tiêu hủy được thống
kê trong vụ dịch này là 84.078 con. Trong đó, có gần 56.000 gà; 8.132 vịt;
và 19.950 con chim cút. Và đã có tới 27 người mắc bệnh virus cúm
A/H5N1, trong đó có 9 ca tử vong.
- Đợt 3 từ tháng 12/2004 cho đến tháng 15/12/2005: dịch cúm gà xảy ra
trên 36 tỉnh thành trong cả nước. Số gia cầm bị tiêu hủy được Cục Thú y
thống kê là 1,846 triệu con (gồm 470.000 gà, 825.000 thủy cầm và 551.000
chim cút). Vào những tháng cuối năm 2005, dịch cúm gà xảy ra trong tháng
10/2005 lan nhanh trong gần 40 tỉnh thành và giảm dần trong tháng 12/2005.
- Sau một năm (2006), do áp dụng chương trình tiêm chủng rộng rãi cho
các đàn gia cầm trong cả nước, cùng với các biện pháp phòng chống dịch
quyết liệt, dịch cúm A/H5N1 không xảy ra ở Việt Nam. Mặc dù vậy, đến
06/12/2006 dịch cúm gia cầm A/H5N1 đã tái bùng phát ở Cà Mau, sau đó
lan sang các tỉnh Bạc Liêu, Hậu Giang, Vĩnh Long và Cần Thơ.
- Trong năm 2007, dịch bệnh tái phát tại Hải Dương vào ngày 17/02/2007
và được khống chế sau 1 tháng. Tuy nhiên, đến ngày 01/05/2007 dịch bệnh
tiếp tục tái phát tại Nghệ An, sau đó lan sang nhiều tỉnh, thành phố trong cả
6
nước. Theo Báo cáo của Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn) đến ngày 10/06/2007 dịch đã xảy ra trên 16 tỉnh, thành phố (Nghệ An,
Quảng Ninh, Cần Thơ, Sơn La, Nam Định, Đồng Tháp, Hải Phòng, Bắc
Giang, Ninh Bình, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Quảng Nam, Hưng Yên,
Thái Bình và Phú Thọ), và chỉ được khống chế hoàn toàn vào 8/2007.
- Gần đây, dịch bệnh lại tiếp tục tái bùng phát ở một số tỉnh phía Bắc vào
tháng 3/2008. Cho đến tháng 6/2008, dịch cúm gia cầm A/H5N1 về cơ bản
đã được khống chế trên toàn quốc.[5]
1.3. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh cúm gia cầm là một bệnh truyền nhiễm cấp tính của mọi loại chim

do các Subtype khác nhau của virus cúm typ A họ Orthomyxoviridea gây ra.
Tùy theo độc lực chủng virus gây bệnh và các điều kiện ngoại cảnh mà biểu
hiện bệnh lí ở gia cầm mắc bệnh có sự thay đổi tương đối lớn. Với chủng có
độc lực cao HPAI (Highly Pathgenic Avian Influenza) thường gây biển hiện
bệnh lí trầm trọng với tỉ lệ chết có thể lên tới 100% gia cầm nhiễm bệnh sau
vài giờ đến vài ngày lây nhiễm. Vì thế tổ chức dịch tễ thế giới (OIE) đã xếp
Cúm gia cầm vào nhóm A – nhóm những bệnh nguy hiểm nhất. Bên cạnh đó
đã xác định được căn nguyên gây cúm gia cầm cũng có thể gây bệnh cúm ở
người và một số động vật có vú khác, vì thế hơn bao giờ hết bệnh cúm gia
cầm đang ngày càng trở nên nguy hiểm hơn cho sức khỏe con người và sản
xuất chăn nuôi nói chung.[1]
7
2. VIRUS CÚM H5N1
2.1. Đặc điểm hình thái và cấu trúc chung của virus
2.1.1. Đặc điểm hình thái
Virus cúm typ A thuộc họ Orthomyxoviridae, gây bệnh cho mọi loài
chim, một số động vật có vú và có thể lây sang người. Cùng với virus cúm A
thuộc họ Orthomyxoviridae còn có 3 nhóm (typ) virus khác là:
 Virus cúm typ B chỉ gây bệnh cho người
 Virus cúm typ C gây bệnh cho người và lợn
 Virus nhóm Thogotovirus [1]
Các hạt virus cúm A (virion) có hình cầu hoặc hình khối đa diện, đường
kính 80 -120 nm, đôi khi cũng có dạng hình sợi, khối lượng phân tử khoảng
250 triệu Da. Phân tích thành phần hóa học một virion có chứa khoảng 0,8 -
1,1% RNA; 70 - 75% là protein; 20 - 24% lipid và 5 - 8% là carbonhydrate
(Murphy, 1996). Hạt virus có cấu tạo đơn giản gồm vỏ (capsid), vỏ bọc
ngoài (envelope) và lõi là RNA sợi đơn âm - negative single strand.
8
Hình 1.2. Ảnh chụp kính hiển vi điện tử (A), mô hình (B), và phức hợp
ribonucleoprotein RNP (C) của virus cúm A.

A: Các dạng hình thái khác nhau của virus cúm A dưới kính hiển vi điện tử;
B: Mô hình cấu tạo hạt virus cúm A (Hemagglutinin: phân tử kháng nguyên
HA, Neuraminidase: phân tử kháng nguyên NA; PB2, PB1, PA: ba dưới
đơn vị phức hợp enzyme polymerase của virus).
C: Cấu trúc của phức hợp ribonucleoprotein RNP
Vỏ virus có chức năng bao bọc và bảo vệ vật chất di truyền RNA của
virus, bản chất cấu tạo là màng lipid kép, có nguồn gốc từ màng tế bào
nhiễm được đặc hiệu hóa gắn các protein màng của virus. Trên bề mặt có
khoảng 500 “gai mấu” nhô ra và phân bố dày đặc, mỗi gai mấu dài khoảng
10 - 14 nm có đường kính 4 - 6 nm, đó là những kháng nguyên bề mặt vỏ
virus, bản chất cấu tạo là glycoprotein gồm: HA, NA, MA (matrix) và các
dấu ấn khác của virus. Có sự phân bố không đồng đều giữa các phân tử NA
và HA (tỉ lệ khoảng 1NA/4HA), đây là hai loại protein kháng nguyên có vai
trò quan trọng trong quá trình xâm nhiễm của virus ở tế bào cảm nhiễm. Vật
chất di truyền (còn gọi là hệ gen) của virus cúm A là RNA sợi đơn âm (viết
tắt là (-) ssRNA), gồm 8 phân đoạn riêng biệt (HA, NA, M, NS, NP, PA,
PB1 và PB2) nối với nhau thành một sợi duy nhất bên trong vỏ virus, mã
9
hóa cho 11 protein tương ứng của virus, trong đó phân đoạn M mã hóa cho 2
protein là M1 và M2; phân đoạn NS mã hóa cho 2 protein là NS và NEP,
phân đoạn PB1 mã hóa cho 2 protein là PB1 và PB1-F2.
Về danh pháp, nhóm virus cúm A được phân chia thành nhiều phân type
(subtype), các phân type này được phân biệt bởi sự khác nhau ở các đặc tính
kháng nguyên bề mặt (NA và HA), cho đáp ứng miễn dịch khác nhau giữa
các chủng virus ở cơ thể bị nhiễm. Có 16 phân type HA và 9 phân type NA
đã được phát hiện, sự tổ hợp giữa các phân type này, về lí thuyết, có thể tạo
ra hơn 254 biến chủng khác nhau, trừ chủng ban đầu. Hiện nay, dữ liệu gen
và hệ gen của virus cúm A có thể được tìm thấy trong Ngân hàng gen, tại
Mạng lưới chuyên gia cúm gia cầm của Tố chức Nông lương thế giới (FAO)
và Tổ chức Thú y thế giới (OIE) và tại trang web của Trung tâm dữ liệu các

gen virus cúm . Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã quy định thống nhất danh
pháp theo thứ tự kí hiệu: Tên serotype - Loài động vật bị nhiễm - Vùng địa lí
phân lập-Số hiệu đăng kí chủng virus - Thời gian phân lập - Loại hình phân
type [HA(H) và NA(N)]; ví dụ: A/Chicken/Vietnam/ HG4/2005(H5N1). Đối
với các virus được phân lập trên người bệnh, thì không cần ghi loài mắc
trong danh pháp, ví dụ: A/Vietnam/1194/2004(H5N1). [3]
2.1.2 Cấu trúc
Cấu trúc của virus chỉ gồm có 2 phần:
- Lớp vỏ bên ngoài gồm các glycoprotein, được gọi là các kháng nguyên
(như HIV có kháng nguyên GP 120, hay virus cúm A chứa kháng nguyên H
và N và loại rất độc lưu hành hiện nay được định danh H5N1).
- Phần nhân bên trong (còn gọi là capsid) chỉ chứa protein và bộ gen là
DNA hoặc RNA (như virus cúm có bộ gen là RNA gồm 8 mảnh rời nhau,
HIV có bộ gen là 2 chuỗi RNA).[7]
10
Khi nghiên cứu sâu hơn về cấu trúc hệ gene virus cúm typ A, Murphy và
webster (1996) cho thấy, tất cả các thành viên của nhóm virus cúm A đều có
hệ gene là RNA một sợi có độ dài 13.500 nucleotid chứa 8 phân đoạn kế tiếp
nhau mang mật mã cho 10 loại protein khác nhau của virus, 8 phân đoạn của
sợi RNA có thể tách và phân biệt rõ ràng nhờ phương pháp điện di.
Hình 1.3. Cấu trúc bộ gen (hình trái) gồm 8 gen là 8 đoạn RNA sợi
đơn âm (-ssRNA) và mô hình (hình phải) thể virus cúm H5N1 gồm các
protein và các đoạn –ssRNA
- Phân đoạn gene từ 1 - 3 mã hóa cho protein PB1, PB2 và PA là các
protein có chức năng của enzyme polymerase, có vai trò bảo vệ sự sao chép
và biên dịch RNA của virion (Biswas và Nayak, 1996).
- Phân đoạn 4 mã hóa cho protein Hemagglutinin (HA) có chức năng bám
dính vào thụ thể tế bào.
Theo Bosch và cộng sự (1979), Very và cộng sự (1992), HA là một
polypeptide gồm hai chuỗi HA1 và HA2 nối với nhau bằng đoạn oligopeptid

ngắn, đặc trưng cho các subtyp H (H1 đến H15) trong tái tổ hợp tạo nên biến
chủng.
11
Mô típ của chuỗi nối oligopeptid chứa một số acid amin cơ bản làm
khung, thay đổi đặc hiệu theo từng loại subtyp H. Sự biến đổi thành phần
của chuỗi nối sẽ quyết định độc lực của biến chủng virus mới.
- Phân đoạn 5 mã hóa cho protein Nucleoprotein (NP) (Buckler White và
Murphy.
- Phân đoạn 6 là đoạn chịu trách nhiệm tổng hợp protein có vai trò như
enzyme là Neuraminidase (NA), có chức năng acid sialic, giúp giải phóng
RNA virus từ endosome và tạo virion mới.
- Phân đoạn 7 mã hóa cho 2 tiểu phần protein đệm (Matrix protein) M1 và
M2, trong đó M2 là một tetramer có chức năng tạo khe H
+
, giúp cởi bỏ vỏ
protein virus sau khi xâm nhập vào tế bào cảm nhiễm, M1 có chức năng
tham gia vào quá trình tổng hợp và nảy mầm của virus.
- Phân đoạn 8, với độ dài tương đối ổn định sẽ mã hóa cho 2 tiểu phần
protein không cấu trúc NS1 và NS2 có các chức năng: chuyển RNA từ nhân
ra kết hợp với M1, kích thích phiên mã, chống Interferon.[1]
3. SỨC ĐỀ KHÁNG CỦA VIRUS
3.1. Đặc tính kháng nguyên của virus cúm typ A
Kháng nguyên của virus cúm diễn biến hết sức phức tạp do hiện tượng tái
tổ hợp các thành phần cấu trúc của chủng này với chủng khác hoặc biến đổi
từ chủng vô độc thành chủng có đọc lực cao hơn và gây bệnh. Sự đột biến
của từng thành phần và loại hình kháng nguyên trong từng chủng virus cúm
cũng góp phần tạo nên cấu trúc kháng nguyên mới, tạo các loại biến chủng
mới với các đặc tính gây bệnh mới.
Các loại protein kháng nguyên: Protein nhân (Nucleoprotein-NP), Protein
đệm (matrix protein – M1), Protein hemagglutimin – HA, Protein enzyme

12
cắt thụ thể (Neutraminidase – NA) là những protein kháng nguyên được
nghiên cứu nhiều nhất.
Một trong đặc tính kháng nguyên quan trọng của virus cúm là khả năng
gây ngưng kết hồng cầu của nhiều loài động vật mà thực chất là sự kết hợp
giữa mấu lồi kháng nguyên HA trên bề mặt của virus với thụ thể có trên bền
mặt hồng cầu làm cho hồng cầu ngưng kết với nhau tạo mạng ngưng kết qua
các cầu nối virus. Từ đặc tính kháng nguyên này có thể sử dụng các phản
ứng ngưng kết hòng cầu HA và ngăn trở ngưng kết hồng cầu HI
(Hemagglutination inhibitory test) trong chẩn đoán cúm gia cầm.
Theo Ito và Kawaoka (1998), sự phức tạp trong diến biến kháng nguyên
mà virus cúm có được là do sự biến đổi và trao đổi kháng nguyên trong nội
bộ gene và giữa gene hemagglutinin (HA) và gene neutraminidase (NA).
Sự biến đổi chính nội bộ gene hay biến dị ngẫu nhiên (drift) mà bản chất
là sự thay đổi nucleotid trong đoạn gene là biến dị xảy ra liên tục thường
xuyên trong quá trình tồn tại của virus cúm. Chính nhờ sự biến đổi này cho
phép virus cúm A tạo nên 15 biến thể gene HA (H1 đến H15) và 9 biến thể
gene NA (N1 đến N9).
Cũng nhờ hiện tượng Drift của virus cúm có thể lí giải được không phải
mọi H1, H5 hay H
X
hoặc N1, N2, hay N
X
đều giống nhau. Sự khác nhau
trong chính các Hx hay Nx do biến dị ngẫu nhiên tạo nên tính thích ứng với
từng loài vật chủ khác nhau và mức độ độc lực gây bệnh khác nhau ở chính
mỗi loại hình tái tổ hợp HA và NA.
Bên cạnh hiện tượng Drift, sự biến đổi hệ gene của virus cúm A còn được
diễn ra nhờ hiện tượng tái tổ hợp gene – hiện tượng thay ca (Shift) ít xảy ra
hơn, hiện tượng này chỉ xảy ra khi hai hay nhiều virus cúm cùng nhiễm vào

tế bào. Tuy nhiên chỉ xuất hiện với tần xuất rất thấp nhưng khi hiện tượng tái
tổ hợp gene (thay ca) xảy ra sẽ gây ra dịch lớn cho người và động vật, với
13
mức độ nguy hiểm không thể lường trước được. Hiện tượng Shift ở virus
cúm A cho thấy nguy cơ của sự lưu hành đồng thời nhiều loại virus cúm với
số lượng lớn trong cùng một không gian và thời gian kéo dài.
Một điều không thể không nói đến trong nghiên cứu về đặc tính khang
nguyên của virus cúm là giữa các biến thể tái tổ hợp và biến chủng subtyp về
huyết thanh học không hoặc rất ít có phản ứng chéo. Vì thế đực điểm này sẽ
gây một trở ngại lớn cho các nghiên cứu nhằm tạo ra vaccine cúm cho người
và động vật.
Về mặt lý thuyết, khi xâm nhập vào cơ thể động vật, virus cúm A sẽ tạo
nên sự hình thành của các kháng thể đặc hiệu, trong đó quan trọng hơn cả là
kháng thể kháng HA, chỉ có loại kháng thể này mới có thể trung hòa virus
cho bảo hộ miễn dịch. Một số kháng thể khác có tác dụng kìm hãm sự nhân
lên của virus: Kháng thể kháng NA có tác dụng ngăn cản giải phóng virus,
kháng thể kháng M2 có tác dụng ngăn cản chức năng protein M2 không cho
quá trình bao gói virus xảy ra.[1]
3.2. Thành phần hóa học và sức kháng của virus.
Bên cạnh các đặc tính về cấu trúc và đực tính kháng nguyên thành phần
hóa học của virus cúm gia cầm cũng được nghiên cứu khá kĩ: RNA của virus
chiếm 0,8 – 1,1%; protein chiếm 70 – 75%; lipid chiếm 20 – 24%và
hydratcacbon chiếm 5 – 8% khối lượng của hạt virus.
Protein cấu tạo virus chủ yếu là glycoprotein, còn lipid tập chung chủ yếu
ở màng virus là loại lipid có gốc phospho, số còn lại là cholesterol và
glucolipid.
Về sức kháng của virus, các kết quả khảo sát cho thấy rằng, nhìn chung
sức kháng của virus tương đối yếu. Virus cúm rất mẫn cảm với nhiệt độ, ở
50 – 60
0

C chỉ trong vài phút virus mất độc tính. Các dung môi hòa tan lipid,
14
các chất sát trùng, các chất oxy hóa mạnh, fomaldehyt đều có khả năng bất
hoạt virus. Điểm đẳng điện virus tương ứng với pH = 5,3. Ở vùng pH thấp
(có tính acid) độc tính virus giảm nhanh hơn khu vực kiềm. Ngoài ra các tia
phóng xạ cũng là tác nhân có khả năng diệt virus rất mạnh.[1]
4. ĐỘNG LỰC VÀ PHÂN LOẠI VIRUS
Độc lực của virus cúm gia cầm có sự dao động lớn, phụ thuộc vào nhiều
yếu tố mà trước hết là protein HA. Các nghiên cứu ở mức độ phân tử cho
thấy khả năng lây nhiễm virus bị ảnh hưởng cởi tác động của men protease
của vật chủ đến sự phá vỡ liên kết hóa học sau khi dịch mã của phân tử
ngưng kết. Mà thực chất là sự cắt đôi protein HA thành hai tiểu phần HA1
và HA2 và nhờ thế virus có thể xâm nhập vào tế bào. Tính thụ cảm của
ngưng kết tố và sự phá vỡ liên kết của enzyme protease lại phụ thuộc vào
các acid amin cơ bản tại điểm bắt đầu phá vỡ liên kết. Các enzyme giống
như trypsine chỉ có khả năng phá vỡ liên kết khi chỉ có một phân tử Arginin,
trong đó khi enzyme protease lại có thể phá vỡ nhiều acid amin của liên kết.
[1]
Để giám định độc lực của virus bên cạnh một số phân tích khác, việc
phân tích được trình tự nucleotid của gene HA có vai trò cực kì quan
trọng.Tính gây bệnh hay độc lực của virus cúm A được chia làm hai loại:
Loại độc lực cao (HPAI - Highly pathogenic avian influenza), và loại độc
lực thấp (LPAI - Low pathogenic avian influenza), cả hai loại đều cùng tồn
tại trong tự nhiên.
HPAI: là loại virus cúm A có khả năng gây tổn thương nhiều cơ quan nội
tạng trong cơ thể nhiễm, trên gia cầm chúng thường gây chết 100% số gia
cầm bị nhiễm trong vòng 48h sau nhiễm. Loại này rất nguy hiểm gây lo ngại
15
cho cộng đồng. Virus loại HPAI phát triển tốt trên tế bào phôi gà và tế bào
thận chó trong môi trường nuôi cấy không có trypsin.[2]

Với những chủng virus có độc lực cao, phân loại độc lực của virus về mặt
lâm sàng dựa trên những thông báo ban đầu của Bankowki và cộng sự tại
Hội nghị thế giới lần đầu tiên về cúm gia cầm tổ chức tại Genève năm 2005,
khi cho rằng những virus cúm có kháng nguyên bề mặt H7 thuộc loại có độc
lực cao. Tuy nhiên người ta lại thấy rằng có những trận dịch gây chết tới
75% gà nhưng khi phân lập lại lại không thấy kháng nguyên H7 mà lại là
H5. Vì thế để giải quyết vấn đề có cơ sở khoa học, các nhà nghiên cứu đã
thống nhất các chỉ số đánh giá virus cúm có độc lực cao:
 Sau 10 ngày tiêm tĩnh mạch 0,2 ml nước trứng gà đã gây nhiễm virus
được pha loãng 1/10 cho gà mẫn cảm từ 4-6 tuần tuổi, phải làm chết 75-
100% gà thực nghiệm.
 Virus gây bệnh cúm gà (có thể là typ phụ) phải làm chết 20% số gà mẫn
cẩm thực nghiệm và phát triển tốt trên tế bào xơ phôi gà trong môi trường
nuôi cấy không có trypsin
Trong thực tế những chủng HPAI có thể gây chết 100% gia cầm nhiễm
bệnh. Từ năm 1959 đến năm 2001, trên thế giới đã ghi nhận 19 chủng virus
cúm của loài lông vũ được phân lập thuộc loại HPAI, trong đó một số chủng
lây nhiễm và gây bệnh trên người.
Tuy nhiên theo Horimoto và Kawaoka (2001), cho đến nay người ta cũng
chỉ thừa nhận có hai biến chủng virus có cấu trúc kháng nguyên H5 và H7
được coi là loại có độc lực cao và gây bệnh ở gia cầm, nhưng không phải tất
cả các chủng mang gene H5 và H7 đều gây bệnh.[1]
LPAI: là loại virus khi phát triển trong cơ thể nhiễm, có thể gây bệnh
cúm nhẹ không có triệu chứng lâm sàng điển hình và không làm chết vật
16
chủ. Đây là loại virus lây truyền rộng rãi và tạo nên các ổ bệnh trong tự
nhiên của virus cúm A, loại này có thể trao đổi gen với các chủng virus có
độc lực cao đồng nhiễm trên cùng một tế bào, và trở thành loại virus HPAI
nguy hiểm.[2]
Với những chủng virus có độc lực thấp (LPAI) thường gây nhiễm ở gia

cầm nhưng không có triệu trứng lâm sàng, không có bệnh tích đại thể và tỉ lệ
chết rất thấp. Tuy nhiên sự bội nhiễm vi khuẩn đặc biệt là Steptococcus,
Staphylococcus…hoặc các bệnh khác cùng với cúm có thể làm cho bệnh gây
ra do các virus cúm có độc lực thấp trở nên độc hơn và gây bệnh nghiêm
trọng hơn. Nguyên nhân là do các vi khuẩn bội nhiễm sản sinh enzyme
protesae phá vỡ các liên kết của ngưng kết tố ngay cả khi không có acid
amin cơ bản.
Thực tế chứng minh rằng các chủng có độc lực thấp trong quá trình lưu
hành trong thiên nhiên và đàn thủy cầm sẽ có đột biến gene hoặc các đột
biến tái tổ hợp để trở thành các chủng HPAI.[1]
5. QUÁ TRÌNH XÂM NHIỄM VÀ SAO CHÉP CỦA VIRUS
Virus cúm A/H5N1 kí sinh nội bào bắt buộc, quá trình xâm nhiễm và
nhân lên của virus xảy ra chủ yếu ở các tế bào biểu mô đường hô hấp, đường
tiêu hóa của cơ thể nhiễm, có những nét đặc trưng như sau:
Quá trình xâm nhiễm của virus cúm A được mở đầu bằng sự kết hợp của
HA và thụ thể thích ứng của nó trên bề mặt các tế bào này, và cuối cùng là
giải phóng hệ gen của virus vào trong bào tương của tế bào nhiễm (Hình 4).
Quá trình nhân lên của RNA virus cúm A chỉ xảy ra trong nhân của tế
bào, đây là đặc điểm khác biệt so với các virus khác (quá trình này xảy ra
trong nguyên sinh chất), và cuối cùng là giải phóng các hạt virus ra khỏi tế
bào nhiễm nhờ vai trò của enzyme neuraminidase. Thời gian một chu trình
xâm nhiễm và giải phóng các hạt virus mới của virus cúm chỉ khoảng vài giờ
17
(trung bình 6 giờ). Sự tạo thành các hạt virus mới không phá tan tế bào
nhiễm, nhưng các tế bào này bị rối loạn hệ thống tổng hợp các đại phân tử,
và rơi vào quá trình chết theo chương trình (apoptosis) làm tổn thương mô
của cơ thể vật chủ.
Sau khi được giải phóng vào trong bào tương tế bào nhiễm, hệ gen của
virus sử dụng bộ máy sinh học của tế bào tổng hợp các protein của virus và
các RNA vận chuyển phụ thuộc RNA (RNA-dependent RNA transcription).

Phức hợp protein – RNA của virus được vận chuyển vào trong nhân tế bào.
Trong nhân tế bào các RNA hệ gen của virus tổng hợp nên các sợi dương
từ khuôn là sợi âm của hệ gen virus, từ các sợi dương này chúng tổng hợp
nên RNA hệ gen của virus mới nhờ RNA-polymerase. Các sợi này không
được Adenine hóa (gắn thêm các Adenine - gắn mũ) ở đầu 5’- và 3’-, chúng
kết hợp với nucleoprotein (NP) tạo thành phức hợp ribonucleoprotein (RNP)
hoàn chỉnh và được vận chuyển ra bào tương tế bào. Đồng thời, các RNA
thông tin của virus cũng sao chép nhờ hệ thống enzyme ở từng phân đoạn
gen của virus, và được enzyme PB2 gắn thêm 10 - 12 nucleotide Adenin ở
đầu 5’-, sau đó được vận chuyển ra bào tương và dịch mã tại lưới nội bào có
hạt để tổng hợp nên các protein của virus.
Các phân tử NA và HA của virus sau khi tổng hợp được vận chuyển gắn
lên mặt ngoài của màng tế bào nhiễm nhờ bộ máy Golgi, gọi là hiện tượng
“nảy chồi” của virus. NP sau khi tổng hợp được vận chuyển trở lại nhân tế
bào để kết hợp với RNA thành RNP của virus. Sau cùng các RNP của virus
được hợp nhất với vùng “nảy chồi”, tạo thành các “chồi” virus gắn chặt vào
màng tế bào chủ bởi liên kết giữa HA với thụ thể chứa sialic acid. Các NA
phân cắt các liên kết này và giải phóng các hạt virus trưởng thành tiếp tục
xâm nhiễm các tế bào khác.[2]
18
Hình 1.4. Cơ chế xâm nhiễm và nhân lên của virus cúm A/H5N1 trong tế
bào chủ
6. DỊCH TỄ BỆNH CÚM GIA CẦM
6.1. Ký chủ của virus
Vật chủ tự nhiên của tất cả các chủng virus cúm A/H5N1 là chim hoang
dã (chủ yếu là vịt trời), đây là nguyên nhân lan truyền virus trong tự nhiên
rất khó kiểm soát. Virus cúm A có khả năng gia tăng biên độ vật chủ của
chúng trong quá trình lây truyền ở tự nhiên.
19
Hình 1.5. Mối quan hệ lây nhiễm và thích ứng các loài vật chủ của

virus cúm A
Nhờ đặc tính luôn thay đổi kháng nguyên trong tự nhiên, virus cúm A có
khả năng xâm nhiễm ở nhiều loài vật chủ trung gian khác nhau như gia cầm,
một số loài động vật có vú (hải cẩu, cá voi, ngựa, lợn) và cả ở người, tạo nên
tính thích ứng lan truyền “nội loài” như gà - gà, hay “ngoại loài” như gà -
lợn; gà - lợn - người. Vịt (vịt trời) và một số loài thuỷ cầm khác (ngỗng)
luôn luôn là vật chủ tàng trữ nguồn virus gây nhiễm. Đặc điểm thích ứng vật
chủ này là điều kiện thuận lợi cho virus cúm A trao đổi, tái tổ hợp các phân
đoạn gen, đặc biệt là các phân đoạn gen kháng nguyên (gen “độc” HA và
NA) giữa các chủng, tạo ra một chủng virus cúm mới có khả năng thích ứng
xâm nhiễm ở loài vật chủ mới của chúng đặc biệt khi chúng vượt qua được
“rào cản loài” dễ dàng thích ứng lây nhiễm gây bệnh từ gia cầm sang người
và giữa người với người.[2]
20
6.2 Sự lây truyền
Virus cúm gia cầm phân bố khắp thế giới trong các loại gia cầm, dã
cầm và động vật có vú. Nhìn chung sự lưu hành và phân bố của virus cúm
rất khó xác định chính xác và bị ảnh hưởng bởi các loài vật nuôi hoang dã,
tập quán chăn nuôi gia cầm, đường di trú của dã cầm, mùa vụ và ngay cả
chủ quan của con người như hệ thống báo cáo, nghiên cứu, giám sát dịch
bệnh.
Virus được phân lập ở hầu hết các loài chim hoang dã: vịt trời, thiên nga,
hải âu, mong biển và các loại vẹt, diều hâu v.v….Tuy nhiên tần xuất và số
lượng phân lập được ở các loài thủy cầm trong đó phải đặc biệt kể đến vịt
trời đều cao hơn các loài khác. Một số nghiên cứu cho thấy vịt từ khi nhiễm
cho đến khi bắt đầu thải virus trong vòng 30 ngày và tiếp tục tồn tại trong số
đông vịt trời cho đến mùa sinh sản tiếp theo để truyền cho con non qua
đường tiêu hóa do virus bài thải qua phân gây ô nhiễm ao hồ. Những virus
này không độc với vật chủ, được nhân lên ở đường ruột và trở thành nguồn
reo rắc virus cho loài khác đặc biệt là gia cầm.

Về loài mắc bệnh: gà, vịt, ngan, chim cút, vẹt, bồ câu và chim hoang đều
có nguy cơ mắc cúm. Ngoài ra nhiều loài động vật có vú như lợn, ngựa,
chồn, hải cẩu, và thú hoang dã khác cũng có thể bị mắc bệnh do một số
subtyp của cúm typ A gây nên.
Trong chăn nuôi, theo Lê Văn Nam (2004), bệnh thường xảy ra ở gia
cầm 4 – 66 tuần tuổi. Gia cầm dễ mắc bệnh và có tỉ lệ chết cao ở những nơi
bệnh phát ra đầu tiên ở gia cầm có độ tuổi sắp đẻ hoặc đang trong thời kì đẻ
trứng cao nhất. Gia cầm có khả năng sản xuất càng cao thì càng mẫn cảm
với bệnh, gia cầm cái mẫn cảm hơn so với con trống.
21
Nhiều thông báo cho rằng vịt nuôi mặc dù nhiễm virus nhưng ít phát
bệnh hơn, tuy nhiên thực tế diễn biến dịch cúm gia cầm ở Việt Nam trong vụ
dịch đầu năm 2004 lại cho kết quả khác biệt với nhận xét trên.
Nghiên cứu về sự truyền lây của virus cúm A cho thấy, khi gia cầm
nhiễm virus cúm, virus sẽ được nhân lên trong đường hô hấp và tiêu hóa. Sự
truyền lây của bệnh sẽ được thực hiện theo cả hai phương thức trực tiếp hoặc
gián tiếp.
Lây trực tiếp do con vật mẫn cảm tiếp xúc với con mắc bệnh qua các hạt
khí dung bài tiết từ đường hô hấp hoặc qua phân, thức ăn, nước uống bị ô
nhiễm.
Lây gián tiếp qua không khí, dụng cụ chứa virus do gia cầm bài thải qua
chim, thú, thức ăn, nước uống, xe vận chuyển, côn trùng v.v….
Với gia cầm nuôi, nguồn dịch đầu tiên thường thấy là từ các gia cầm nuôi
khác nhau trong cùng một trang trại hoặc trang trại liền kề, từ gia cầm nhập
khẩu, từ chim di trú, đặc biệt là thủy cầm từ chính hoạt động của con người
và động vật có vú khác. Phần lớn sự phát sinh các ổ dịch gần đây đều có sự
lây lan thứ cấp qua con người.
Nhìn chung bệnh chủ yếu qua truyền ngang (qua tiếp xúc), chưa có bằng
chứng cho thấy bệnh có thể truyền dọc qua trứng vì những phôi bị nhiễm
virus thường sẽ chết mà không phát sinh thành con non được.

Khi nghiên cứa khả năng tồn tại của virus ở ngoài môi trường cho thấy
virus có khả năng tồn tại đa dạng phong phú, phụ thuộc vào nhiệt độ môi
trường. Virus tồn tại khá lâu trong vật chất hữu cơ, ở nhiệt độ thấp (4
0
C)
virus có thể tồn tại trong phân đến 35 ngày và 7 ngày ở 20
0
C. Trong xác chết
virus tồn tại ở 23 ngày ở 4
0
C và vài ngày ở nhiệt độ thường.
Theo Webster và cộng sự (1992) , trong nước ao hồ virus có thể duy trì
đặc tính gây bệnh tới 4 ngày ở 22
0
C và trên 30 ngày ở 0
0
C.
22
Có thể phân lập được virus cúm gia cầm từ nước hồ nơi có thủy cầm
nhiễm bệnh.
Ở thể HPAI, các nghiên cứu cho thấy chỉ 1 gram phân gà nhiễm bệnh có
thể chứa một lượng virus đủ lây nhiễm cho 1 triệu gà. Như vậy từ các nguồn
thức ăn, nước uống, chất thải, vật dụng, dụng cụ bị ô nhiễm, virus cúm có
thể tồn tại một thời gian nhất định, tùy thuộc vào nhiệt độ môi trường và đây
chính là nhuồn bệnh nguy hiểm tiềm tàng để không những gia cầm mà các
động vật khác cũng có thể nhiễm bệnh.[1]
6.3. Mùa vụ phát bệnh
Về tính mùa vụ, bệnh cúm có thể xảy ra quanh năm nhưng cũng chịu sự
tác động thúc đẩy bởi nhiều yếu tố stress như thay đổi đột ngột về thời tiết,
thức ăn, nước uống, quản lí chăm sóc .v.v…

Thực tế bệnh thường hay xảy ra vào mùa có khí hậu lạnh, độ ẩm cao, thời
tiết thay đổi đột ngột do làm ảnh hưởng đến hệ miễn dịch của cơ thể. Ở Việt
Nam, qua quan sát trong 3 năm 2003 – 2005 cho thấy bệnh xảy ra mạnh vào
vụ đông xuân vì đây là lúc thời tiết có nhiều bất lợi cho sức khỏe đàn gia
cầm và tạo điều kiện cho sự tồn tại của virus ngoài môi trường lạnh và ẩm.
Về mặt xã hội đây cũng là khoảng thời gian mà mật độ chăn nuôi, các hoạt
động buôn bán, giết mổ gia cầm diễn ra cao nhất trong năm.[1]
6.4. Một số nghiên cứu của viện thú y Việt Nam
Vì là lần đầu tiên xảy ra ở Việt Nam, cộng với những thiếu thốn về cơ sở
vật chất, trang thiết bị nên các nghiên cứu về cúm gia cầm gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên với mục tiêu nghiên cứu cúm gia cầm ở Việt Nam cũng như
nghiên cứu áp dụng các phương pháp chống cúm hiện đại trên thế giới để đề
ra các biện pháp khống chế cúm khoa học, phù hợp với hoàn cảnh dịch bệnh
ở nước ta, các nghiên cứu về cúm gia cầm bước đầu thu được kết quả:
23
* Kết quả nghiên cứu phân lập virus, tìm hiểu nguồn gốc dịch cúm
Virus cúm gia cầm đầu tiên được phân lập ở Việt Nam vào ngày
7/8/2003 từ các mẫu bệnh phẩm ngan mắc bệnh. Tiếp đó nhờ sự hợp tác
giúp đỡ của Trung tâm khống chế dịch bệnh CDC (Mỹ), vào tháng 9/2003
đã xác định được kháng nguyên H5 của virus cúm và đến 1/2004 đã xác
định được kháng nguyên N của virus cúm phân lập tại các ổ dịch gà N1.
Khi phân tích các mẫu virus cúm thông qua giải mã gene của virus,
Nguyễn Tiến Dũng, Malik Peiris, Robert Webster, Đào Thanh Vân (2004),
đã cho thấy dịch cúm gia cầm tại Việt Nam là do một loại virus duy nhất (cả
về không gian và thời gian) gây ra. Có nghĩa là dịch có nguồn gốc từ một ổ
dịch ban đầu sau đó lây lan ra khắp cả nước. Virus cúm gia cầm H5N1 Việt
Nam có nguồn gốc từ các virus cúm lưu hành ở Trung Quốc.
* Kết quả nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ học
Trong quá trình nghiên cứu đã xác định được các loại gia cầm mắc bệnh
là gà, gà tây, chim cút, đà điểu, bồ câu, vịt, ngan và ngỗng. Thực tế về loài

mắc bệnh ở Việt Nam có điểm khác so với loài mắc của cúm gia cầm trước
đây chỉ mắc ở gà, gà tây và chim cút (các loài chim cạn). Trong khi đó dịch
cúm gia cầm ở Việt Nam phát rất mạnh không chỉ các loài chim cạn mà cả ở
gia cầm, các loài trước đây được coi là vật mang virus mà không mắc bệnh.
Tỷ lệ mắc bệnh gần 100%, tỷ lệ tử vong trung bình 60%.
Các nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng, Đỗ Quý Phương (2005), khi
khảo sát dịch tễ của 3 đợt dịch đã chỉ ra rằng nguồn gốc các ổ dịch trong vụ
dịch đầu năm 2004 là do sự di chuyển của đàn gia cầm giống, còn đợt dịch
thứ 2 là từ ngan sau đó đến vịt gây ra và ở đợt dịch thứ 3 ở Tây Nam Bộ là
do dịch địa phương do bán gia cầm bệnh và vịt mang trùng.
Một nghiên cứu khác tại đồng bằng Bắc Bộ cho thấy tỷ lệ gà có huyết
thanh (+) ở hộ chăn nuôi gà là 9,4%, trong khi đó ở hộ chăn nuôi lẫn gà, vịt
24
là 69,5%. Điều đó đồng nghĩa với nguy cơ mắc cúm gia cầm của gà nuôi lẫn
thủy cầm cao gấp 8 lần so với nuôi riêng biệt.
Cũng nằm trong các nghiên cứu về sự lưu hành của virus cúm nguyễn
Tiến Dũng và cộng sự (2005), khi khảo sát 2.000 mẫu huyết thanh và mẫu
ngoáy dịch ổ nhớp ở một số tỉnh phía Bắc và Tây Nam Bộ cho kết quả trugn
bình cứ 1.000 vịt có 1,5 vịt mang virus cúm H5. Ngoài virus cúm H5 vịt còn
nhiễm H3, H4, H6, H9, và H11. Khi nghiên cứu sự nhiễm H5N1 trên vịt các
kết quả nghiên cứu của tác giả trên còn cho thấy: Virus H5N1 sau khi nhân
lên ở vịt sẽ biến đổi kháng nguyên HA.
Hai loại virus được thải ra từ vịt bệnh, một loại cường độc và một loại
không cường độc với vịt đều có khả năng gây bệnh cho gà. Vì thế vịt được
coi là nguồn dự trữ virus H5N1 để lây bệnh lâu dài do có thể vẫn nhiễm
virus mà không phát bệnh.
Thời gian tồn tại ngoài môi trường, thời gian thải virus cũng như số
lượng virus được thải ra từ vịt nhiễm H5N1 đều tăng hơn loại virus H5N1
Hồng Công năm 1997.
* Kết quả khảo sát virus cúm trong đàn chim di cư và sự nhiễm virus cúm

gia cầm trên lợn
Một trong những nghiên cứu khác về cúm gia cầm là khảo sát lưu hành
virus trong đàn chim di cư. Thông qua phân tích 320 mẫu phân chim tại một
số địa phương, bằng phương pháp RT-PCR và phân lập virus kết hợp với
điều tra tình hình dịch bệnh của đàn chim cho kết quả chưa phát hiện thấy
virus cúm.
Kết quả khảo sát 3.500 mẫu huyết thanh để tìm kháng thể H5N1 khi khảo
sát sự nhiễm virus cúm trên lợn đã cho thấy lợn có khả năng nhiễm H5N1
với tỷ lệ (+) rất thấp (8/3.500), khi nhiễm không phát bệnh như người và như
25

×