Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.11 KB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHỊNG

TIỂU LUẬN
Đề tài:
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa
ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Giảng viên: Tiến sĩ Lương Thị Huyền Trang
Sinh viên : Chung Mạnh Cường
Lớp

: Quản trị kinh doanh B khóa 15

Hải Phịng, 2023


1


MỤC LỤC
I. Mở đầu..................................................................................................................3
II. Nội dung..............................................................................................................4
1. Khái niệm.............................................................................................................. 4
1.1. Tăng trưởng kinh tế là gì?....................................................................................4
1.2. Phát triển kinh tế là gì?........................................................................................6
1.3. Phát triển văn hóa là gì?......................................................................................8
1.4. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa..............................11
1.5. Thời kì đổi mới ở Việt Nam.................................................................................13

2. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam trong
thời kì đổi mới......................................................................................................... 19


2.1. Kết quả, thành tựu việc thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa
ở Việt Nam.................................................................................................................19

2.1.1. Tăng trưởng kinh tế tạo nền tảng vật chất, trở thành động lực cho sự
phát triển văn hóa trong cơng cuộc đổi mới...................................................19
2.1.2. Phát triển văn hóa giữ vai trị nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực,
nhân tố điều tiết cho tăng trưởng kinh tế.......................................................27
2.2. Hạn chế trong thực hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hóa trong thời kì đổi mới...........................................................................................32

2.1.1. Mơ hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam chủ yếu theo chiều rộng, chưa
bền vững, chưa tương xứng với vai trò là cơ sở vật chất, động lực cho phát
triển văn hóa...................................................................................................32
2.2.2. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, xuống cấp về đạo đức và bất
cập trong giáo dục trên lĩnh vực văn hóa kìm hãm tăng trưởng kinh tế........36
2.3. Ngun nhân của những hạn chế và kiến nghị....................................................44

2.3.1 Nguyên nhân hạn chế............................................................................44
2.3.2. Kiến nghị..............................................................................................52
III. Kết luận............................................................................................................55
IV. Danh mục tham khảo......................................................................................57
2


I. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ định hướng khi học môn triết học của TS. Lương Thị Huyền
Trang cùng với mong muốn nâng cao kiến thức của bạn thân, tôi quyết định chọn
vấn đề: “ Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển
văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới “ làm đề tài tiểu luận.

2. Nội dung triển khai


Khái niệm



Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam

3


II. Nội dung
1. Khái niệm
1.1. Tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng kinh tế là vấn đề quan tâm hàng đầu của các quốc gia, đó là một
trong những thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn phát triển của một
đất nước. Việc nghiên cứu tăng trưởng kinh tế ngày càng có hệ thống và hồn thiện
hơn. Các nhà khoa học đều cho rằng, tăng trưởng kinh tế trước hết là một vấn đề
kinh tế, song nó mang tính chất chính trị, xã hội sâu sắc.
Từ thế kỉ XVIII, rất nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra lý thuyết cổ
điển về tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, tăng trưởng kinh tế được hiểu theo một số
quan điểm sau:
Theo cách định nghĩa của Ngân hàng Thế giới (WB) trong “Báo cáo về phát
triển thế giới năm 1991” thì tăng trưởng kinh tế là chỉ sự gia tăng về lượng của
những đại lượng chính đặc trưng cho một trạng thái kinh tế, trước hết là tổng sản
phẩm trung xã hội, có tính đến mối liên quan với dân số. Trong tác phẩm Kinh tế
học của các nước đang phát triển, nhà kinh tế học E. Wayne Nafziger cho rằng,
tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về sản lượng hoặc sự tăng lên về thu nhập bình
quân đầu người của một nước.

Nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế, tác giả Nguyễn Phú Trọng cho rằng: Tăng
trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy
mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Các chỉ tiêu để đo tăng
trưởng kinh tế thường được sử dụng là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP),
tổng sản phẩm quốc dân (GNP), GDP và GNP bình quân đầu người cùng một số
chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác. Ở một tài liệu khác, khái niệm tăng trưởng kinh tế
được hiểu như sau: Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm phản ánh quy mô tăng
4


lên hay giảm đi của nền kinh tế ở năm này so với năm trước đó hay ở thời kỳ này
so với thời kỳ trước đó. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GDP
bình quân đầu người trong một thời gian nhất định, sự thay đổi về lượng của nền
kinh tế. Sự gia tăng này thể hiện sự thay đổi cả về quy mô và tốc độ, quy mơ thể
hiện sự tăng nhiều hay ít cịn tốc độ thể hiện sự tăng nhanh hay chậm”.
Như vậy, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tăng trưởng kinh tế được đưa
ra, song có thể hiểu một cách ngắn gọn: Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy
mô sản lượng nền kinh tế, gia tăng thu nhập của người dân trong một thời gian
nhất định của một quốc gia, một vùng hay một ngành kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là một mặt của phát triển kinh tế. Có hai mơ hình tăng
trưởng kinh tế, đó là:
Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng là sự gia tăng các nhân tố về lượng của sự
tăng truởng kinh tế. Nó được biểu thị trong sự tăng trưởng về số lượng của nguồn
tài nguyên, như sự gia tăng diện tích trồng trọt, gia tăng số lượng công nhân và
thiết bị máy móc… Tương ứng với sự tăng trưởng này là nhân tố đặc trưng, bao
gồm việc nâng cao trình độ nền sản xuất bằng việc tăng số lượng nhân công, đất
đai và tài chính.
Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu là sự hiện diện các nhân tố về chất, được
thể hiện trong chất lượng quản lý, lưu thông, áp dụng cơng nghệ, các phát minh, bí
quyết sử dụng cơng nghệ, lựa chọn thiết bị cho việc chiếm lĩnh ưu thế cạnh tranh,

cho việc hiện đại hóa nền sản xuất thơng qua chất lượng của nguồn lực con người.
Nhân tố tác động của loại tăng trưởng kinh tế này là sự hiện đại hóa tối đa quy mơ
nền sản xuất khơng đổi.
Nội dung của tăng trưởng kinh tế được thể hiện qua các tiêu chí, thước đo để
đánh giá tăng trưởng kinh tế như: tổng giá trị sản xuất (GO), tổng thu nhập quốc
5


dân (GNI), thu nhập quốc dân (NI), thu nhập quốc dân sử dụng (NDI). Các nhân tố
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế bao gồm:
Vốn: Là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp tới tăng
trưởng kinh tế.
Lao động: Là yếu tố quan trọng nhất và có tính chất quyết định trong lực lượng
sản xuất.
Tài nguyên thiên nhiên: Là yếu tố thuộc về đối tượng lao động như tài ngun
đất đai, khơng khí, rừng, biển… có thể chia làm tài ngun vơ hạn khơng thể thay
thế, tài ngun có thể tái tạo, tài ngun khơng thể tái tạo.
Khoa học và công nghệ: là nguồn lực quan trọng, được coi là “lực lượng sản
xuất trực tiếp” để tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ngoài các yếu tố trên, tăng trưởng kinh tế còn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố
gián tiếp như: Đặc điểm văn hóa xã hội, nhân tố thể chế chính trị - kinh tế - xã hội,
cơ cấu dân tộc, cơ cấu tôn giáo. Cùng với đó là vai trị của nhà nước đối với tăng
trưởng kinh tế. Nhà nước và khuôn khổ pháp lý khơng chỉ là yếu tố đầu vào mà
cịn là yếu tố của cả đầu ra trong quá trình sản xuất. Cơ chế, chính sách của nhà
nước đúng có thể huy động vốn tạo nguồn lực cho tăng trưởng. Ngược lại, cơ chế,
chính sách sai, điều hành kém sẽ gây tổn tại cho nền kinh tế, kìm hãm tăng trưởng
cả về mặt số lượng và chất lượng. Như vậy, có thể nhận thấy tăng trưởng kinh tế
cịn phụ thuộc nhiều vào năng lực của bộ máy nhà nước, trước hết là trong việc
thực hiện vai trò quản lý của nhà nước
1.2. Phát triển kinh tế là gì?

Phát triển kinh tế là thuật ngữ để chỉ quá trình chuyển đổi kinh tế, có liên quan
tới việc chuyển biến cơ cấu nền kinh tế nhờ q trình cơng nghiệp hóa. Mục đích

6


làm tăng thu nhập đầu người và tổng sản phẩm trong nước. Theo đó, các yếu tố
gây ảnh hưởng tới phát triển kinh tế gồm:
Lực lượng sản xuất: Chất lượng và số lượng của yếu tố đầu vào quyết định tới
chất lượng, số lượng của dịch vụ và hàng hóa. Từ đó ảnh hưởng đến phát triển kinh
tế.
Ngồi các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thì yếu tố khoa học
công nghệ và con người giữ một vai trị vơ cùng quan trọng.
Cơng nghệ tiên tiến được ứng dụng phù hợp vào yếu tố đầu vào, khiến năng
suất lao động tăng và tạo ra hàng hóa chất lượng cao. Thế nhưng để sáng tạo và sử
dụng công nghệ mới thì con người vẫn là nhân tố quyết định.
Quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất sẽ tác động tới phát triển kinh tế theo hai
hướng:
Thúc đẩy phát triển kinh tế khi tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế nếu khơng phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất sẽ phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất nếu:
Chế độ và hình thức sở hữu tư liệu sản xuất phù hợp.
Hình thức tổ chức kinh tế hiệu quả, năng động.
Hình thức phân phối thu nhập hợp lý, cơng bằng, kích thích sự sáng tạo của
người lao động…
Kiến trúc thượng tầng


7


Kiến trúc thượng tầng có nhiều tác động đối với sự phát triển kinh tế. Trong
đó:
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng sẽ gây nên mức độ tác động không giống
nhau đối với phát triển kinh tế.
Kiến trúc thượng tầng tác động tới phát triển kinh tế theo hai hướng, đó là:
Thúc đẩy phát triển kinh tế nếu nó phù hợp.
Kìm hãm phát triển kinh tế nếu nó khơng phù hợp với yêu cầu khách quan và
cơ sở hạ tầng.
Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cụ
thể: Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần có để phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh
tế cao và dài hạn sẽ làm tăng năng lực nội định của nền kinh tế. ên cạnh đó, tăng
trưởng kinh tế cịn làm tăng thu ngân sách qua lệ phí, phí và thuế. Phát triển kinh tế
tác động đến tăng trưởng kinh tế qua việc tạo cơ sở kinh tế xã hội vững chắc nhằm
đạt kết quả tăng trưởng kinh tế trong tương lai và muốn phát triển kinh tế bền
vững, trước đó cần thực hiện nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế.
1.3. Phát triển văn hóa là gì?
Văn hóa một thuật ngữ xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử ngơn ngữ. Hồ Chí
Minh đã nhận thức về văn hóa từ rất sớm trên con đường hoạt động cách mạng.
Người nêu lên quan niệm về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra những ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh
hoạt hằng ngày về ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn”. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
8



hội do con người sáng tạo ra và tích lũy trong quá trình lao động và hoạt động thực
tiễn nhằm đáp ứng nhu cầu và phục vụ cuộc sống của con người, hướng đến mục
đích phát triển bản thân con người và xã hội theo hệ chuẩn giá trị Chân – Thiện –
Mỹ trong điều kiện kinh tế - xã hội xác định. Văn hóa là một trong những tiêu chí
để đánh giá sự phát triển của xã hội.
Phát triển văn hóa, theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, là một nền văn hóa thấm
sâu phẩm chất nhân văn, dân chủ, mà trước hết là sự trân trọng và yêu thương con
người, góp phần cho sự phát triển tồn diện của con người, đặc biệt là bồi dưỡng
và nâng cao đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm phong phú, cao đẹp của con
người. Đây chính là sức mạnh, chức năng chủ yếu của phát triển văn hóa. Trong
cơng cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cùng với sự đổi mới trong tư duy kinh tế,
chính trị, Đảng ta đã có những đổi mới quan trọng các nghị quyết như: Nghị quyết
số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VI (1987); Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993); Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương 5 khóa VIII được xem như bản đề cương văn hóa Việt Nam thứ hai
trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Văn kiện Hội nghị
Trung ương 9 khóa XI.
Qua các văn kiện, có thể thấy những quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng là:
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, văn hóa
là sức mạnh nội sinh thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội; nền văn hóa mà chúng ta
xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nền văn hóa Việt Nam
là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; xây
dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó
đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng; văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát
triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách mạng
và sự kiên trì, thận trọng. Điều đó thể hiện tầm nhìn khái quát và sâu rộng của
9



Đảng về sự phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện
đại hóa. Đảng đã xác lập vị trí của văn hóa là một trong ba bộ phận hợp thành sự
phát triển bền vững và toàn diện của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
phát triển văn hóa cần gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng
chỉnh đốn Đảng là then chốt là điều kiện để Việt Nam tiến vững chắc trên con
đường chủ nghĩa xã hội.
Về vấn đề phát triển văn hóa, tác giả Nguyễn Phú Trọng cho rằng: Phát triển
văn hóa là khái niệm dùng để chỉ sự thay đổi về đời sống văn hóa bao gồm văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần của xã hội, đặc biệt là tư tưởng, đạo đức, nếp sống,
lối sống, văn học, nghệ thuật, thông tin đại chúng, giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ... theo chiều hướng tiến bộ và nhân văn nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần
ngày càng cao của xã hội. Có thể khẳng định phát triển văn hóa là quá trình vận
động theo chiều hướng đi lên của các giá trị nền tảng tinh thần của xã hội do con
người sáng tạo ra nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của con người và xã hội, hoàn
thiện, nâng cao xác lập các giá trị Chân - Thiện - Mỹ, hướng tới phát triển tồn
diện con người.
Phát triển văn hóa bao gồm các khía cạnh sau: Phát triển con người là trung
tâm và là chủ thể của chiến lược phát triển văn hóa; Phát triển và xây dựng mơi
trường văn hóa; Phát triển giáo dục – đào tạo cần được quan tâm trong chiến lược
phát triển văn hóa.
Có thể khẳng định, phát triển văn hóa được đánh giá dựa trên tiêu chí là các giá
trị và chuẩn mực của xã hội nhằm phát triển toàn diện con người về thể lực, trí lực,
phẩm chất, nhân cách..., xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh, phát triển giáo
dục đào tạo, hồn thiện các mối quan hệ xã hội hướng tới những tiêu chuẩn chung
về Chân - Thiện - Mỹ. Phát triển văn hóa là yêu cầu và là quy luật khách quan
trong lịch sử phát triển nhân loại nói chung và mỗi quốc gia dân tộc nói riêng.
10


Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển văn hóa, đó là:

Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của văn hóa và là mục đích hướng
tới cuối cùng của sự phát triển văn hóa. Hoạt động văn hóa là hoạt động của con
người, mọi hiện tượng và quan hệ văn hóa đều do chính con người tạo ra và phát
triển văn hóa thực chất là phát triển con người.
Lao động, hoạt động và phương thức tổ chức đời sống xã hội, thể chế, chính
sách phát triển kinh tế xã hội là môi trường và phương thức tạo thành văn hóa, là
con đường để hình thành nhân cách trong con người.
Điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sống và hoạt động, các quan hệ dân cư,
dân tộc, tôn giáo trong vùng lãnh thổ.
Tăng trưởng kinh tế là một nhân tố có vai trị to lớn trong sự phát triển văn hóa.
Một số yếu tố của văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội thuộc kiến
trúc thượng tầng thì kinh tế là bộ phận hợp thành cơ sở hạ tầng.
Các giá trị văn hóa truyền thống như đạo đức, phong tục, tập quán, lối sống
ảnh hưởng tới sự phát triển văn hóa. Một nền văn hóa bao giờ cũng được kế thừa
các giá trị truyền thống trong sự phát triển của cộng đồng.
Sự hợp tác, giao lưu văn hóa quốc tế tạo ra sự ảnh hưởng từ bên ngồi của các
nền văn hóa khác nhau tới sự phát triển văn hóa của dân tộc. Sự hợp tác giao lưu
văn hóa quốc tế là một yếu tố có vị trí quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát
triển văn hóa, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hiện nay.
Sự phát triển của khoa học, công nghệ, thông tin đã tạo ra những bước tiến mới
trong sự phát triển văn minh loài người và ảnh hưởng mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực
của xã hội, trong đó có sự tác động tới phát triển văn hóa.
1.4. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa

11


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa đã được các nhà
khoa học đề cập tới trong rất nhiều cơng trình nghiên cứu. Trong đó, tác giả Hà
Đăng cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa đều có cùng mục đích

phục vụ con người và vì sự phát triển của con người. Mối quan hệ giữa hai lĩnh
vực đó là mối quan hệ tương tác hữu cơ. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề và điều
kiện hàng đầu để phát triển văn hóa, phát triển văn hóa lại là mục tiêu, động lực,
tạo điều kiện cho kinh tế các nước phát triển nhanh, và những thay đổi trong phát
triển kinh tế có tác dụng lớn đến văn hóa. Mặt khác, những thay đổi trong văn hóa
theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực, đều có tác động ngược lại đến nhịp độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế”. Tác giả Hà Minh Đức đưa ra quan niệm rằng: “Mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là vấn đề lớn, quốc sách đặt
ra cho các thời đại, các dân tộc. Có những mặt thuận chiều, nhưng cũng có những
mặt đối nghịch vì phát triển kinh tế khơng phải bao giờ cũng nhằm vào mục đích
xây dựng văn hóa và phát triển văn hóa khơng thể và khơng dễ thực hiện được trên
nền tảng kinh tế nghèo nàn, kiệt quệ”. Trần Luân Kim nhận xét: “Tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa tồn tại trong mối quan hệ cộng sinh biện chứng và khách
quan. Điều đó được khẳng định trong lý thuyết cũng như hiện thực đời sống, rằng
trong kinh tế ln có văn hóa và trong văn hóa ln có kinh tế. Trong khi tăng
trưởng kinh tế là trung tâm thì phát triển văn hóa phải là nhiệm vụ hàng đầu. Sự
tiến triển, nảy nở hài hòa, đồng bộ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là
điều kiện tiên quyết cơ bản đảm bảo cơ chế phát triển toàn diện - tiền đề của phát
triển bền vững, cũng là tiền đề tạo sinh văn minh vật chất và văn minh tinh thần”.
Tổng hợp từ các quan điểm trên, có thể hiểu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa là mối quan hệ nội tại, tất yếu mang tính quy định, ràng
buộc, tác động dẫn tới biến đổi lẫn nhau giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hóa. Trong sự tương tác ấy có các yếu tố văn hóa trong kinh tế và các yếu tố kinh
12


tế trong văn hóa tạo nên sự hài hịa, đồng bộ, làm tiền đề cho sự phát triển toàn
diện, bền vững đất nước.
Ở Việt Nam, thời gian gần đây, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa được chú trọng, quan tâm nghiên cứu và thực hiện. Chủ thể của tăng

trưởng kinh tế và phát triển văn hóa đều là con người và có mục tiêu vì con người.
Chủ thể nhận thức và giải quyết mối quan hệ này ở nước ta là Đảng Cộng sản Việt
Nam với vai trò đề ra chủ trương, đường lối, chính sách phát triển; Nhà nước Việt
Nam với vai trị lãnh đạo, quản lý, điều hành; là toàn bộ nhân dân Việt Nam trong
việc thực hiện mối hệ này, cụ thể là các chủ thể doanh nghiệp và chủ thể văn hóa
dưới góc độ từng cá nhân, tổ chức xã hội hay cả một cộng đồng.
Việc thực hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở
Việt Nam trong thời kì đổi mới chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và
chủ quan. Trong đó, các yếu tố khách quan bao gồm: Mơi trường tự nhiên; Xu thế
tồn cầu hóa; Các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước; Sự
phát triển của cách mạng khoa học – công nghệ trên thế giới. Các yếu tố chủ quan
bao gồm: Tâm lý dân tộc; Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà
nước và vai trò của tồn dân trong q trình thực hiện mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa; Các hình thức, phương thức tổ chức đời sống
xã hội từ gia đình, nhóm, tập thể, cộng đồng, đồn thể xã hội cho tới các tổ chức
thiết chế xã hội, chính trị, văn hóa như: nhà nước, đảng phái…
1.5. Thời kì đổi mới ở Việt Nam
Quá trình đổi mới ở Việt Nam đã diễn ra 35 năm, tính từ khi Đảng khởi xướng
đường lối đổi mới tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) cho đến nay.
Đại hội VI của Đảng là một sự kiện trọng đại trong đời sống chính trị của tồn
Đảng, tồn dân ta. Có thể khẳng định, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là một
bước ngoặt, đánh dấu sự đổi mới toàn diện của Đảng, từ đổi mới kinh tế là chủ yếu
13


đến đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; từ đổi mới tư duy, nhận thức, tư tưởng đến
đổi mới hoạt động thực tiễn... Công cuộc đổi mới ở nước ta diễn ra trong bối cảnh
quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và rất phức tạp, chịu ảnh hưởng, tác động
của các yếu tố sau:
Thứ nhất, sự khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và

Đông Âu là biến cố lớn làm thay đổi hẳn cục diện chính trị thế giới. Từ năm 1989
đến năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô lần lượt
sụp đổ, tạo nên chấn động chính trị lớn trong phong trào cách mạng thế giới. Chủ
nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, tương quan lực lượng và trật tự quốc tế
thay đổi theo hướng bất lợi cho cách mạng. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống
lại các thế lực thù địch bảo vệ Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội càng thêm gay go, phức
tạp. Trong các nước tư bản phát triển, bất bình đẳng ngày càng gia tăng, phân hóa
giàu nghèo ngày càng sâu sắc làm cho các mâu thuẫn vốn có trong chủ nghĩa tư
bản phát triển nhanh và mạnh hơn.
Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, kỳ diệu,
tác động sâu sắc đến tất cả các lĩnh vực của các quốc gia và quan hệ quốc tế. Cuộc
cách mạng khoa học - cơng nghệ có bước nhảy vọt về cả tính chất, trình độ, cơ cấu.
Cuộc cách mạng này đã làm biến đổi sâu sắc cơ cấu xã hội, tính chất và cơ cấu giai
cấp, buộc các quốc gia phải thay đổi cách quản lý kinh tế - xã hội. Đồng thời, cuộc
cách mạng này cũng đặt ra nhiều thách thức lớn, phải đối phó với nguy cơ phụ
thuộc vào bên ngoài, các nước lớn và nguy cơ tụt hậu về khoa học - công nghệ,
vốn đầu tư đều do các nước phát triển chi phối.
Ba là, tác động của tồn cầu hóa và khu vực hóa. Tồn cầu hóa kinh tế là một
xu thế khách quan vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, tác động ngày càng
mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia và quan hệ quốc tế. Tồn cầu hóa vừa là kết quả
của sự phát triển lực lượng sản xuất, vừa tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất
14


phát triển, có tác dụng nhất định trong việc thúc đẩy xu thế hịa bình, hợp tác, đưa
lại cho các quốc gia đang phát triển cơ hội tranh thủ nguồn vốn, khoa học - công
nghệ tiên tiến từ các nước phát triển, mở rộng thị trường để cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Và cũng chính tồn cầu hóa đẩy nhanh sự phân hóa giàu nghèo, đẩy nhanh
sự phát triển các mâu thuẫn của thời đại, mở rộng cơ sở của đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc, tạo tiền đề cho chủ nghĩa xã hội.

Cùng với bối cảnh quốc tế, công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra trong điểu
kiện tình hình đất nước có những thuận lợi căn bản đi đơi với các thử thách và khó
khăn khơng nhỏ.
Sau khi giành được thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến trường kì của dân
tộc, thế và lực của cách mạng Việt Nam ngày càng lớn mạnh. Đại hội lần thứ VI
của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã đánh dấu một bước ngoặt trong
sự nghiệp đổi mới tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là một cuộc
cách mạng sâu sắc, tiến hành đồng thời trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội văn hóa của đất nước. Trên lĩnh vực kinh tế, nước ta tiến hành chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tế phát triển của đất nước 35 năm qua đã chứng minh việc chuyển từ cơ
chế tập trung bao cấp để chuyển sang cơ chế thị trường là sự lựa chọn mang tính
lịch sử, là con đường hợp quy luật trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm của riêng chủ nghĩa tư bản. Nó có một
q trình hình thành và phát triển lâu dài. Đó là thành tựu của văn minh nhân loại
và đang phát triển cao trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Việt Nam đã tiếp thu và vận
dụng xây dựng kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là chủ trương
đúng đắn của Đảng nhằm hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa, phát huy ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn mục tiêu và tính ưu việt của chủ
15


nghĩa xã hội, hướng phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội, nâng cao
tiềm lực và vị thế của Việt Nam trong thời đại mới.
Trên lĩnh vực văn hóa, từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, do các quy luật thị
trường đã trở nên sôi động, thông tin nhanh hơn, giao thông vận tải tấp nập hơn,
q trình đơ thị hóa nhanh hơn đã dẫn tới những biến đổi lớn lao trong sự phát
triển văn hóa của đất nước. Sự chuyển đổi từ nền văn hóa cũ nền văn hóa mới
khơng đơn thuần là sự chuyển đổi về khoa học, công nghệ, kỹ thuật mà là sự

chuyển đổi sâu sắc mọi quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa người với người,
sự phát triển trình độ người với tất cả những biến dạng có thể xảy ra trong quá
trình chuyển đổi. Sự chuyển đổi này tất yếu làm xuất hiện những giá trị văn hóa
mới của xã hội, nhân cách mới của con người.
Trong 35 năm đổi mới, đất nước ta xây dựng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên các chuẩn mực của nền văn hóa này chưa được
phát triển đồng bộ. Kinh tế thị trường nước ta chưa hoàn thiện, mất cân đối dẫn
đến những biểu hiện phản văn hóa trong sự phát triển kinh tế và hạn chế sự phát
triển kinh tế như: làm hàng giả, cạnh tranh không lành mạnh, phi pháp, hối lộ, ăn
cắp, trốn thuế, khai thác kiệt quệ tài nguyên, phá hoại mơi trường,... là những hành
vi phản văn hóa, làm cản trở phát triển kinh tế. Đồng thời, trên thực tế, trong hơn
ba thập kỉ đổi mới vừa qua, văn hóa Việt Nam vẫn chưa phát triển tồn diện, chưa
gắn bó chặt chẽ với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế với thị
trường tự do trên thế giới đang diễn ra tấp nập, song cơ chế định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện nay chưa đủ mạnh để khắc phục những tiêu cực, rủi ro, những khủng
hoảng do cơ chế thị trường đem lại. Đây là một trong những nguyên nhân quan
trọng phá hoại thuần phong mỹ tục, sản sinh ra các tệ nạn xã hội.

16


Có thể nhận thấy, một thực tế khắc nghiệt diễn ra cùng với sự tăng trưởng kinh
tế là sự suy thoái về đời sống tinh thần, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối
sống. Đó là chưa kể đến những bất cập đang diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế và xã
hội: sự tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, môi trường bị ô nhiễm, chênh lệch giàu
nghèo, tội phạm xã hội có chiều hướng gia tăng, an sinh xã hội chưa đảm bảo.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là hai lĩnh vực cơ bản, quan trọng

không tách rời nhau của một xã hội phát triển bền vững, trong kinh tế có văn hóa
và ngược lại, trong văn hóa có kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa là mối quan hệ nội tại, mang tính bản chất, phải được giải quyết
một cách đúng đắn, hài hòa sao cho tăng trưởng kinh tế thật sự là tiền đề và điều
kiện để phát triển văn hóa, phát triển văn hóa thực sự là mục tiêu và động lực của
tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển hài hòa, đồng bộ giữa kinh tế với văn hóa là điều
kiện tiên quyết đảm bảo cho sự phát triển xã hội toàn diện, bền vững trên cả hai
nền tảng vật chất và tinh thần của xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là nền tảng vật chất, động lực có vai trị quyết định và
mạnh mẽ tới sự phát triển văn hóa. Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế giữ vai trò là cơ
sở, điều kiện vật chất cho phát triển văn hóa. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế tạo ra
nền sản xuất phát triển, đẩy mạnh quá trình giao lưu, hợp tác, hội nhập khu vực,
quốc tế tạo môi trường và là điều kiện để giao lưu, tiếp biến và phát triển văn hóa.
Thứ ba, tăng trưởng kinh tế là tiền đề hình thành những giá trị mới trong quá trình
định hướng và phát triển văn hóa.
Phát triển văn hóa giữ vai trị nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực, sức mạnh
nội sinh và là nhân tố điều tiết cho tăng trưởng kinh tế. Trong mối quan hệ biện
chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, xét đến cùng tăng trưởng
17


kinh tế có vai trị quyết định đối với phát triển văn hóa; Nhưng văn hóa ln có
tính độc lập tương đối, có sự phát triển kế thừa và có tác động trở lại đến tăng
trưởng kinh tế. Điều đó được thể hiện như sau:
Thứ nhất, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, phát triển văn hóa là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế luôn phải hướng tới mục tiêu nhằm phát triển văn hóa.
Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa gặp nhau ở đích đến cuối cùng là phục
vụ cuộc sống con người, thỏa mãn nhu cầu phát triển con người: từ nhu cấu tồn tại
người đến nhu cầu phát triển nhân tính, hồn thiện nhân cách, từ cá thể người đến

cộng đồng người và tồn nhân loại. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội... Xây dựng và
phát triển kinh tế phải nhằm văn hóa, vì xã hội cơng bằng, văn minh, con người
phát triển tồn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự
phát triển kinh tế, các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt
động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương...
biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
Thứ ba, phát triển văn hóa là động lực và trở thành nhân tố tham gia trực tiếp
vào tăng trưởng kinh tế.
Phát triển văn hóa là phát triển chính con người, phát triển nguồn năng lực
trong con người. Đó là sức mạnh nội sinh, nguồn lực vô tận cho sự phát triển kinh
tế, xã hội. Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế không chỉ là
tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu tố quyết định là nguồn lực con người
với sức sáng tạo và khả năng hoạt động vô tận.
Thứ tư, phát triển văn hóa là nhân tố điều tiết trong tăng trưởng kinh tế. Phát
triển văn hóa có chức năng xã hội, là nhân tố điều chỉnh, hướng dẫn hành vi, lối
18


sống của con người, liên kết cá nhân với cộng đồng, định hướng, điều tiết tăng
trưởng kinh tế và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Phát triển văn hóa đảm bảo tăng trưởng
kinh tế phải hướng vào các mục đích nhân văn và nhân đạo, đảm bảo tăng trưởng
kinh tế không trở thành nguyên nhân của việc chống lại lợi ích của cộng đồng, của
con người, không để xảy ra tình trạng tăng trưởng kinh tế trở thành nghịch lý phản
phát triển.
Tóm lại, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, từng bước chuyển
từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đi đôi với xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Ở đó, tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa khơng tách rời nhau, trong kinh

tế có văn hóa và trong văn hóa có kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là nền tảng vật chất,
là động lực có vai trò quyết định và mạnh mẽ tới sự phát triển văn hóa. Văn hóa,
với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội trở thành mục tiêu, động lực và điều
tiết đối với tăng trưởng kinh tế. Thực hiện tốt mối quan hệ này là điều kiện tiên
quyết để Việt Nam vững bước trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa đã chọn.
2. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam
trong thời kì đổi mới
2.1. Kết quả, thành tựu việc thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa ở Việt Nam
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế tạo nền tảng vật chất, trở thành động lực cho sự phát
triển văn hóa trong cơng cuộc đổi mới
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hóa và giải quyết các vấn
đề xã hội. Yêu cầu kết hợp tốt các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu văn hóa, xã
hội trong phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo phát triển một cách cân đối và
đồng đều đáp ứng nhu cầu phát triển ổn định, toàn diện và lâu dài đất nước. Thực
19



×