Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Mối quan hệ biện chứng giữa hội nhập kinh tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.61 KB, 22 trang )

MỤC LỤC:
TT Trang
I Mở đầu 1
II Nội dung 3
Chương 1: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy
vật
3
1.1 Các định nghĩa 3
1.2 Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế 6
Chương 2: Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế
6
2.1 Một số đặc trưng của nền kinh tế độc lập tự chủ 6
2.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế 8
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế
8
2.4 Những lợi ích và hạn chế của việc hội nhập kinh tế quốc tế 11
2.5 Vấn đề hội nhập kinh tế ở Việt Nam 12
2.5.1 Đường lối quan điểm của Đảng ta trong quá trình hội nhập 12
2.5.2 Quá trình hội nhập ở Việt Nam 14
2.5.3 Những lợi ích và hạn chế của Việt Nam trong quá trình hội nhập 15
2.5.4 Một số ý kiến và giải pháp cho quá trình hội nhập ở Việt Nam 16
III. Kết luận
Trang 1
I. Mở Đầu
Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang trở thành một xu thế
khách quan và tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, không kể các nước đang
phát triển hay phát triển, các nước giàu hay nghèo. Trong xu thế đó quốc gia nào có
chiến lược, chính sách, biện pháp và công cụ quản lí hợp lí sẽ mang lại lợi ích, sự
phát triển về kinh tế cho quốc gia đó, ngược lại sẽ mang lại kết quả xấu. Để có thể


tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài đặc biệt là nguồn vốn, tiến bộ khoa học công
nghệ... đòi hỏi các nước phải có sự mở cửa, sự giao lưu, buôn bán hợp tác với các
nước trên thế giới mà đặc biệt là các nước tư bản phát triển. Tuy vậy đi song song
với việc hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta cần phải có sự thống nhất nhận thức về
việc giữ độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập. Đây là một mối lo ngại lớn với các
nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển. Mối lo này phần nào cũng có
lí do chính đáng bởi hầu hết các nước đang phát triển đều có xuất phát điểm từ một
nền kinh tế ``nghèo nàn, lạc hậu, khoa học công nghệ còn thấp kém, năng suất lao
động còn chưa cao, sức cạnh tranh về các loại hàng hoá trên thị trường thế giới thấp
trong khi đó các nước đi trước có lợi thế hơn hẳn về mọi mặt, việc mở rộng quan hệ
với các nước đó sẽ dẫn đến tình trạng các nước kém phát triển khó tránh khỏi bị lệ
thuộc về kinh tế và từ chỗ bị lệ thuộc về kinh tế có thể bị lệ thuộc về chính trị dẫn
tới không giữ vững được chủ quyền. Thực tế ngày nay cho thấy có rất nhiều nước
trên thế giới đã bị lệ thuộc quá nhiều vào các nước tư bản nên mọi đường lối, chính
sách phát triển kinh tế đều bị các nước tư bản này chi phối và nắm giữ. Điển hình
như nước Cuba có một thời gian đã bi phụ thuộc quá nhiều vào Mĩ. Vốn là một
nước trồng rất nhiếu mía song khoa học kĩ thuật của nước này lại thấp kém cho nên
để sản xuất đường Cuba phải nhập khẩu trang thiết bị của Mĩ. Lợi dụng thời cơ này
Mĩ đã tìm mọi cách để gây áp lực về kinh tế đối với Cuba và buộc Cuba phải lệ
thuộc vào Mĩ. Dựa vào đó Mĩ đã nắm được quyền chi phối về kinh tế cũng như
chính trị ở Cuba.
Hiện nay nước Việt Nam ta cũng đang tham gia vào các tổ chức, hiệp hội trên
thế giới. Nước ta cũng là một nước nghèo nàn, lạc hậu hơn rất nhiều so với các
nước khác vì vậy chúng ta phải chủ động tham gia hội nhập kinh tế gắn liền với việc
Trang 2
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đảng và nhà nước ta đã xác định độc lập tự
chủ kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản bảo đảm sự bền vững của đất nước ta về
chính trị .
Chính vì việc hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một vấn đề nóng bỏng,
cấp bách và cần thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có cả nước ta.

Vì vậy đề tài này có một ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng đối với các nước trên
thế giới trong việc đề ra các đường lối, chính sách trong quan hệ giao lưu, buôn bán
với nước ngoài. Vì lí do nay tôi đã quyết định chọn đề tài "Mối quan hệ biện
chứng giữa hội nhập kinh tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ" với hy
vọng bài tiểu luận này sẽ góp một phần nhỏ vào công việc xây dựng nền kinh tế nước
ta ngày càng giàu mạnh .
Trong quá trình viết bài tiểu luận tôi đã nhận được sự chỉ dẫn nhiệt tình của TS Mai
Xuân Hợi. Tôi xin chân thành cảm ơn.


Trang 3
II. Nội dung

Chương 1:
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
trong phép biện chứng duy vật
1.1. Các định nghĩa:
Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến, nó chẳng qua là bộ môn
khoa học nghiên cứu những quy luật vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư
duy. Như vậy phép biện chứng đã thừa nhận sự vật, hiện tượng của thế giới khách
quan tồn tại theo mối quan hệ phổ biến, chúng vận động, phát triển theo quy luật
nhất định. Phép biện chứng có nhiệm vụ phải chỉ ra những quy luật đó để định
hướng cho con người trong nhiệm vụ thực tiễn. Phép biện chứng có ba hình thức cơ
bản trong quá trình phát triển của triết học đó là: Phép biện chứng chất phác, phép
biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật .
Thời cổ đại, do trình độ tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa phát triển
nên các nhà triết học chỉ dựa vào cảm giác, vào cái nhìn trực tiếp để xem xét mọi
vật. Phép biện chứng này còn thiếu nhiều căn cứ khoa học do vậy mà nó đã bị phép
siêu hình, xuất hiện từ nửa cuối thế kỉ XV thay thế. Phép biện chứng duy tâm xuất
hiện trong triết học Cantơ và hoàn thiện trong triết học của Hêghen. Tính chất duy

tâm trong phép biện chứng của Hêghen được thể hiện ở chỗ: Ông coi ý niệm tuyệt
đối có trước và trong quá trình vận động phát triển cuối cùng nó lại trở về với chính
mình trong tinh thần. Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà triết học
trước đó Mác và Anghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện
chứng. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những
nguyên lí, những phạm trù cơ sở, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện
thực. Trong hệ thống đó nguyên lí về mối liên hệ phổ biến là một trong những
Trang 4
nguyên lí khái quát nhất. Mối liên hệ phổ biến là khái niệm đúng để chỉ sự ràng
buộc, nương tựa, tác động qui định lẫn nhau của các sự vật hiện tượng trong thế giới
khách quan. Trong thực tế người ta luôn đặt ra các câu hỏi các sự vật hiện tượng có
mối quan hệ tác động qua lại với nhau hay không? Những người theo quan điểm
siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại trong trạng thái độc lập, tách rời
nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Nếu giữa chúng có mối quan hệ thì cũng chỉ
là mối liên hệ bên ngoài. Còn những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng
các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập vừa qui định tác
động qua lại chuyển hoá lẫn nhau. Phép duy vật biện chứng khẳng định mọi sự vật
hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến. Sự vật là tiền đề, là điều kiện tồn
tại và phát triển của nhau. Chúng thường xuyên thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau
làm cho ranh giới giữa các lớp sự vật không phải là tuyệt đối mà bao giờ cũng có
lớp trung gian chuyển tiếp. Mối liên hệ phổ biến không chỉ diễn ra giữa các sự vật
khác nhau mà còn diễn ra trong bản thân từng sự vật và đều là khách quan. Mặc dù
sự vật tồn tại trong những mối liên hệ phổ biến với nhiều mối liên hệ khác nhau
nhưng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ không giống nhau trong tổng số mối liên
hệ về sự vật, trong đó có mối liên hệ giữ vai trò quyết định đén sự tồn tại, vận động
biến đổi của sự vật như mối liên hệ bên trong, bản chất .... Còn những mối liên hệ
khác chỉ có những ảnh hưởng nhất định.
Tuy vậy mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, là vốn có
của mọi sự vật, hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri vô giác cũng đang hàng ngày
chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác như: ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm.....

và đôi khi cũng chịu sự tác động của con người. Con người - một sinh vật phát triển
cao nhất trong tự nhiên luôn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng trong giới
tự nhiên và ngay cả các yếu tố trong chính bản thân nó. Ngoài sự tác động của tự
nhiên như các sự vật khác còn tiếp nhận sự tác động của xã hội và của những người
khác. Chính con người và chỉ có con người mới có thể tiếp nhận vô vàn mối quan hệ
đó. Vấn đề là con người phải hiểu biết các mối liên hệ, vận dụng chúng vào hoạt
động của mình giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của
xã hội và của bản thân. Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang
tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: thứ nhất bất cứ sự
Trang 5
vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện
tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào
không có quan hệ, liên hệ với quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính
vì thế hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực
hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu
như: đói nghèo, bệnh tật ....
Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ
theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới những hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu
hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Nghiên cứu mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng trên thế giới ta còn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Dựa vào
tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: Mối
liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu.... Chính
tính đa dạng trong quá trình tồn tại và phát triển bản thân sự vật, hiện tượng qui định
tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều mối
liên hệ chứ không phải chỉ có một mối liên hệ xác định. Song mỗi cặp mối liên hệ
có những đặc trưng riêng tuy theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể các mối liên hệ
tương ứng sẽ giữ vai trò quyết định. Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang
tính tương đối vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận của mối
liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ
theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả của sự vận động và phát triển

của chính các sự vật. Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính
tương đối nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí
và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm
bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao
nhất trong hoạt động của mình. Từ nội dung của mối liên hệ phổ biến bất cứ sự vật,
hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện
tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú do đó trong hoạt động nhận thức
cũng như trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải có quan điểm toàn diện tránh quan
điểm phiến diện, chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận
về bản chất hay về tính qui luật của chúng. Quan điểm toàn diện đòi hỏi khi ngiên
cứu phải xem xét sự vật, phải xem xét tất cả các mối quan hệ vốn có của nó nhưng
Trang 6
không được đặt các mối quan hệ có vị trí vai trò như nhau. Cần phải phân biệt được
đâu là những mối quan hệ bản chất tất yếu của sự vật, đâu là những mối quan hệ
khác để từ đó có kết luận đúng về sự vật. Trong thực tế theo quan điểm toàn diện
khi tác động vào sự vật chúng ta không những phải chú ý đến những mối liên hệ nội
tại của chúng mà còn phải lưu ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác
và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng trong từng điều kiện. Đồng thời chúng ta phải
biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm
đem lại hiệu quả cao nhất. Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận quan
điểm toàn diện góp phần định hướng chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn cải
tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Thực hiện đúng quan điểm đó chính
là chúng ta đã nắm được và vận dụng tốt phương pháp biện chứng trong nhận thức
về hoạt động thực tiễn.
1.2 Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một tất yếu khách quan vừa là yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia trên thế giới không
thể tự mình xây dựng được một nền kịnh tế phát triển bất kể nước ấy giầu hay
nghèo đặc biệt là đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển. Nền kinh tế
của các nước này còn thấp kém, chậm phát triển, khoa học học kỹ thuật còn thua xa

các nước tư bản thì việc mở rộng giao lưu, buôn bán với các nước trên thế giới là một
vấn đề cần thiết và mang tính tất yếu trong giai đoạn hiện nay.
Vịêt Nam cũng nằm trong các nước đang phát triển, xuất phát điểm của nước
ta là một nước nông nghiệp nghèo, do vậy chúng ta cần phải mở rộng quan hệ với
các nước khác nhằm tạo thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế. Trong Đại hội
Đảng 9 của ta vừa qua, Đảng đã nêu ra "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo
đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và bảo vệ môi trường".
Trang 7
Chương 2:
Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế
2.1 Một số đặc trưng của nền kinh tế độc lập tự chủ:
Khác với trước đây khi nói tới độc lập tự chủ về kinh tế, nhiều người thường
hình dung tới một nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp. Trong điều kiện hiện nay
đọc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập, tự chủ trong phát triển kinh tế thị trường và
tự chủ mở cửa, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào
sự giao lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nội lực, lợi
thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu quả trên thương trường quốc tế. Do
vậy độc lập tự chủ trong điều kiện hiện nay có các đặc trưng sau: trước hết và quan
trọng nhất là phải đảm bảo lợi ích phát triển của quốc gia ở mức cao nhất có thể
được. Có thể có một nền kinh tế không phụ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài, tự đảm
bảo được các nhu cầu chủ yếu trong nước. Các mối quan hệ giữa nước đó với các
nước trên thế giới phải được xem xét đánh giá trên tiêu chuẩn có đảm bảo được lợi
ích phát triển của đất nước không? Đó mới là mục tiêu cho mọi chiến lược phát trển.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế tiến triển như hiện nay mọi nền kinh tế ngày càng
có sự ràng buộc, phụ thuộc vào các nước khác. Nếu sự ràng buộc đó đảm bảo tốt
hơn cho lợi ích phát triển quốc gia thì đó là một điều nên làm. Nền kinh tế nước ta
trong thời kỳ đổi mới đã ngày càng mở rộng, giao lưu với các nước khác; kim ngạch

xuất khẩu của ta năm 1999 chiếm tới trên 90% GDP, vốn đầu tư nước ngoài chiếm
28% tổng đầu tư xã hội. Đặc trưng thứ hai của nền kinh tế độc lập tự chủ đó là sức
cạnh tranh của nền kinh tế phải được cải thiện và tăng dần. Sức cạnh tranh này được
thể hiện ở các mặt. Thể chế chính trị, kinh tế xã hội phải đủ mạnh đủ tạo ra một môi
trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí và rủi ro thấp; khả năng sinh lợi lớn. Cơ
cấu kinh tế gồm những ngành có khả năng cạnh tranh cao, có khả năng tự điều
chỉnh, tự rút khỏi những ngành kém khả năng cạnh tranh. Cơ cấu doanh nghiệp cũng
Trang 8

×