Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Thực Trạng Triển Khai Nghiệp Vụ Bảo Hiểm Hàng Hoá Xuất Nhập Khẩu Vận Chuyển Bằng Đường Biển Ở Công Ty Cổ Phần Bảo Hiểm Petrolimex Pjico.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.15 KB, 44 trang )

Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển ở công ty cổ phần bảo hiểm petrolimex (pjico)

1. Công tác khai thác bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển ở PJICO.
Hoạt động khai thác là một khâu quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm nói chung và lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển nói riêng. Tuy cịn nhiều hạn chế so với các cơng ty bảo hiểm nước
ngồi và một số doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam rất lớn mạnh như Bảo Việt, Bảo
Minh nhưng công ty bảo hiểm PJICO trong thời gian qua đã nỗ lực cố gắng vượt qua
những khó khăn trong điều kiện hầu hết các mối quan hệ với khách hàng mới được
thiết lập và cịn ít ngồi sự ủng hộ nhiệt tình của các khách hàng trong cổ đông. Các
khách hàng lớn và lâu năm cịn chưa có hoặc nếu có thì chỉ nhận được bảo hiểm phần
nào trong tổng giá trị hàng hoá trong ngoại thương. Việc xây dựng và phát triển một
thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ổn định, lâu dài chính là mục tiêu được
đặt ra trong hoạt động khai thác của PJICO. Hoạt động khai thác phải có kế hoạch,
chiến lược hết sức cụ thể và chặt chẽ. Nó phải được dựa trên cơ sở các số liệu, chỉ tiêu
về kim ngạch xuất nhập khẩu của các mặt hàng cũng như kế hoạch xuất nhập khẩu của
từng đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Đối với khách hàng cũ, công ty luôn
luôn phải đảm bảo giữ uy tín, thuyết phục tái tục hợp đồng hướng dẫn mua bảo hiểm
đúng thời hạn và bảo hiểm hàng nhập theo gía FOB, CF hay kim ngạch hàng xuất theo
giá CIF. Các khách hàng cũ mà có ít rủi ro xảy ra tổn thất, tăng cường các biện pháp
đề phịng và hạn chế tổn thất thì PJICO có thể điều chỉnh lại tỷ lệ phí cho phù hợp
nhằm thiết lập mối quan hệ lâu dài với họ. Đối với khách hàng tiềm năng PJICO sẽ có
các phương pháp chào phí riêng dưới nhiều hình thức nhằm khuyến khích, thu hút họ
tham gia bảo hiểm tại cơng ty. Ngồi ra chất lượng phục vụ khách hàng và chất lượng
quản lý cũng được PJICO không ngừng nâng cao làm tăng thêm uy tín của mình với
thị trường bảo hiểm trong nước. Công tác nghiên cứu thị trường, mở rộng và phát triển
đại lý, cộng tác viên cũng được chú trọng nhằm nắm bắt đựơc các thông tin từ khách
hàng, từ thị trường, từ đó có kế hoạch khai thác một cách hiệu quả và triệt để.
Quy trình khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của PJICO - ban hành


kèm theo quyết định của Tổng giám đốc PJICO số 113/BH-HH/95 ngày 15/07/1995
bao gồm 2 khâu cơ bản.
- Một là : Quá trình khai thác bảo hiểm.
- Hai là : Quá trình cấp đơn bảo hiểm.


1.1. Quá trình khai thác bảo hiểm: Quá trình khai thác được chia ra làm 2 bước:
 Bước 1: Xây dựng kế hoạch thu phí và ký kết hợp đồng với khách hàng:
Trước hết là phải nắm vững kim ngạch các mặt hàng và số lượng hàng hoá nhập khẩu
hàng năm từ các nguồn vốn xuất nhập khẩu của các đơn vị xuất nhập khẩu (nguồn vốn
trung ương, địa phương, viện trợ, tự có, vay nợ ...) để xây dựng kế hoạch thu phí trong
năm, cụ thể là đầu năm thông qua các đơn vị xuất nhập khẩu để nắm số liệu kế hoạch
xuất nhập khẩu của từng đơn vị. Trên cơ sở đó xác định số kim ngạch sẽ qua bảo hiểm
để xây dựng kế hoach thu phí bảo hiểm trong năm đó của từng kkhách hàng theo mặt
hàng. Trong số kim ngạch xuất khẩu của khách hàng cần tách riêng kim ngạch của
từng khu vực theo giá CIF, CF và FOB để lập kế hoạch thu phí sát với thực tế. Sau đó
chuẩn bị hợp đồng bảo hiểm để ký kết với khách hàng hàng năm.
 Bước 2: Theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch: Từng quý có số liệu hàng
nhập về của từng khách hàng qua đó đối chiếu kim ngạch qua bảo hiểm để nắm được
khối lượng hàng về thực tế nhằm kịp thời điều chỉnh kế hoạch thu phí đầu năm đã xây
dựng. Đơn đốc khách hàng mua bảo hiểm theo đúng thời hạn đã quy định và mua bảo
hiểm hết phần kim ngạch hàng nhập về theo giá FOB và CF hay kim ngạch hàng xuất
đi theo giá CIF. Thường xuyên quan hệ với khách hàng để khai thác những nguồn
hàng nhập hoặc kế hoạch nhập bổ xung hoặc ngoài kế hoạch nhằm tranh thủ bảo hiểm
và chuẩn bị tài liệu để chào phí. Phải đi sâu tìm hiểu rõ tính chất và quy cách đóng gói
thích hợp của các lơ hàng xuất nhập khẩu để áp dụng các điều kiện bảo hiểm thích hợp
theo tập quán và quy định, Nắm vững các mặt hàng có tỷ trọng lớn trong kim ngạch
nhập qua đó phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đối với số phí thu. Thu thập đầy đủ
và nghiên cứu các thông tin về bảo hiểm như các quy tắc, tỷ lệ phí, điều khoản bảo
hiểm của thị trường nước ngồi để khi cần có thể đề nghị các văn bản của ta hoặc giải

thích và sử dụng chính những điều khoản đó khi có yêu cầu của khách hàng. Kết hợp
với bộ phận bồi thường để tính được kết quả bảo hiểm đối với từng khách hàng theo
năm nghiệp vụ để kịp thời đề xuất ý kiến điều chỉnh tỷ lệ phí cho thích hợp nhằm đáp
ứng yêu cầu của công tác kinh doanh và phù hợp với từng đối tượng bảo hiểm. Cuối
năm chuẩn bị đầy đủ số liệu để họp khách hàng thơng báo tình hình tham gia bảo
hiểm, nêu những ưu nhược điểm trong năm qua và những vấn đề cần khắc phục cho
năm tới của từng khách hàng nhằm hạn chế được nhầm lẫn, sai sót và tổn thất cho
hàng hố, qua đó giúp PJICO làm tốt cơng tác giám định, đề phịng và hạn chế tổn
thất, bồi thường đối với hàng hoá được bảo hiểm và đòi người thứ ba. Phối hợp chặt
chẽ với các phòng liên quan như Tài vụ, Tái bảo hiểm, phối hợp để giải quyết kịp thời


các vướng mắc trong khâu thu phí bảo hiểm, phân tán rủi ro liên quan đến nghiệp vụ
gốc và điều chỉnh kế hoạch thu phí bảo hiểm trong năm đó. Xây dựng văn bản, thể lệ
giám định bảo hiểm, khuyến mại và bồi thường tổn thất.
1.2. Quá trình cấp đơn bảo hiểm: quá trình cấp đơn bảo hiểm ở PJICO có sự khác
nhau đối với hàng hố nhập khẩu và hàng hoá xuất khẩu.
1.2.1. Đối với hàng hoá nhập khẩu, bao gồm 4 bước sau:
Bước 1: Kiểm tra chứng từ liên quan.
Khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm của khách hàng (giấy này làm theo hình
thức một đơn bảo hiểm) phải được kiểm tra xem chứng từ có hợp lệ không? Một giấy
yêu cầu bảo hiểm được coi là hợp lệ phải có đủ những yêu cầu sau:
 Trên giấy yêu cầu phải kê khai rõ ràng tất cả các đề mục đã in sẵn trên đơn.
Trong trường hợp khai thiếu những đề mục như: số B/L, ký mã hiệu, trọng lượng, số
kiện (do chưa được thông báo đầy đủ) thì vẫn chấp nhận cấp đơn nhưng yêu cầu khách
hàng phải bổ sung ngay khi nhận được thông báo.
 Nếu thiếu một trong những đề mục cơ bản như: số tiền bảo hiểm (trị giá hàng
FOB hoặc C&F), tên tàu vận chuyển, ngày khởi hành, cảng đi và điều kiện bảo hiểm
thì giấy u cầu đó coi như chưa hợp lệ cần trả lại cho khách hàng đồng thời giải thích
rõ yêu cầu của bảo hiểm để họ kê khai đầy đủ mới cấp đơn bảo hiểm.

Phải xem xét kỹ tính chất và phương thức xếp dỡ của từng mặt hàng có phù hợp
với điều kiện bảo hiểm mà khách hàng lựa chọn khơng để giải thích và u cầu khách
hàng điều chỉnh lại cho thích hợp với mặt hàng đó. Trên giấy u cầu bảo hiểm phải
địi hỏi khách hàng trả lời được các nội dung yêu cầu của phịng Kế tốn- tài vụ quy
định nhằm giúp phịng làm đủ các thủ tục thu phí một cách nhanh chóng.
Lưu ý: Giấy yêu cầu bảo hiểm phải có đẩy đủ tên, dấu và chữ ký của khách hàng.
Giấy chứng nhận bảo hiểm phải đánh máy đủ 08 bản. cần xem kỹ tên tàu vận chuyển
(nếu là tàu vận chuyển), phải yêu cầu khách hàng kê khai quốc tịch tàu, tuổi tàu. Nếu
là tàu già phải thu thêm phí như đã quy định trong biểu phí bảo hiểm. Trường hợp trị
giá hàng bảo hiểm cao trên mức quy định phân cấp của công ty, trước khi cấp đơn cần
thông báo và trao đổi ý kiến với phòng tái bảo hiểm để có kế hoạch phân tán rủi ro.
Bước 2 : Vào sổ cấp đơn, lấy số đơn và xếp chuyến tàu:
Sau khi kiểm tra xong các chứng từ liên quan nếu hợp lệ thì vào sổ cấp đơn theo
từng danh mục ghi trong sổ. Sổ đơn bảo hiểm lấy theo sổ thứ tự trong sổ cấp đơn. Xếp
chuyến tàu theo số thứ tự trong sổ đăng ký số tàu.


Lưu ý:  Thông thường luồng Châu á đi trong khoảng 20-30 ngày làm một chuyến.
 Luồng Châu âu tàu đi trong khoảng 2-4 tháng làm 1 chuyến.
 Số đơn bảo hiểm và số chuyến tàu ghi rõ trong đơn, số chuyến ghi trước và số
đơn bảo hiểm ghi sau.
Ví dụ: Số đơn bảo hiểm là 100, số tàu là 8 thì ghi: 8/100
Bước ba: Tính phí bảo hiểm sửa đổi và huỷ đơn bảo hiểm.
Trước khi tính phí bảo hiểm phải xác định số tiền bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm được tính theo cơng thức:
C+F
1-R
Trong đó: C- là giá trị hàng hố theo giá FOB
CIF


=

F- là cước phí vận chuyển
R- là tỷ lệ phí bảo hiểm
Trong trường hợp khách hàng nhập theo giá FOB, nếu họ không xác định rõ
được phí vận tải thì bảo hiểm ước tính như sau: đối với luồng Châu á cước phí vận tải
F=5% giá FOB và luồng Châu âu là F=10% giá FOB. R áp dụng cho từng mặt hàng
tuỳ theo từng điều kiện bảo hiểm. R=R 1+R2 trong đó R1 bao gồm tỷ lệ phí chính + tỷ lệ
phí theo luồng. R2 là tỷ lệ phí phụ - tỷ lệ phí phụ được cộng thêm khi khách hàng mua
thêm các điều kiện bảo hiểm phụ như bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình cơng, thiếu
ngun kiện, thiếu hụt trọng lượng...
Lưu ý: Mỗi một mặt hàng có tỷ lệ phí bảo hiểm khác nhau tuỳ theo từng điều
kiện bảo hiểm. Do đó, khi tính phí phải xem xét kỹ tính chất của từng mặt hàng, điều
kiện bảo hiểm mà khách hàng lựa chọn có phù hợp với quy định của bảo hiểm đối với
mặt hàng đó khơng, trên cơ sở đó để xác định tỷ lệ phí cho chính xác. Phí bảo hiểm
được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm: I = CIF * R
Trong trường tàu già khi tính phí bảo hiểm sẽ tính như sau:
CIF

C+F
1-R
I = CIF * R/
=

R=R1+R2
R/=R1+R2+R3
Trong đó R3 là tỷ lệ phí tàu già.


Trường hợp khách hàng xin điều chỉnh trị giá bảo hiểm như điều chỉnh giá

FOB, CF, cước phí vận tải và điều kiện bảo hiểm thì phải tính lại giá CIF và phí bảo
hiểm bằng hình thức cấp cho khách hàng 4 giấy sửa đổi bổ sung và thu lệ phí sửa đổi
đơn. Phần chênh lệch tăng đề nghị khách hàng thanh tốn thêm phí, phần chênh lệch
giảm bảo hiểm sẽ hồn lại phí cho khách hàng. Trừ trường hợp điều chỉnh số B/L,
trọng lượng.
Lưu ý: Trước khi làm sửa đổi bổ sung phải yêu cầu khách hàng gửi lại toàn bộ đơn
bảo hiểm đã cấp để điều chỉnh. Sau khi làm xong giấy sửa đổi bổ sung phải ghi rõ trên
đơn các giấy tờ sửa đổi để bộ phận bồi thường dễ xem xét. Sau đó gửi trả lại đơn của
khách hàng kèm theo giấy sửa đổi.
Nếu khách hàng yêu cầu huỷ đơn phải xem xét rõ lý do, sau đó cấp cho khách hàng
giấy sửađổi: Huỷ đơn, hồn trả lại cho khách hàng tồn bộ số phí đã thu và trừ lệ phí
huỷ đơn đồng thời thu hồi lại toàn bộ đơn gốc đã cấp để huỷ bỏ đi. Đơn thu lại phải
huỷ ngay để tránh nhầm lẫn. Giấy sửa đổi bổ sung in ra thành 06 bản (1 bản lưu kèm
theo công văn yêu cầu sửa đổi của khách hàng, 1 bản gửi cho Tái bảo hiểm, 1 bản trả
khách hàng). Trường hợp:
- Yêu cầu khách hàng thanh tốn thêm phí: đưa Tài vụ 3 bản
- Hồn phí và huỷ đơn: đưa Tài vụ 2 bản
- Điều chỉnh tên tàu: đưa Tài vụ một bản
Sau khi lập đơn, kiểm tra lại và đóng dấu “thu phí bảo hiểm bằng ngoại tệ” hoặc
“thu phí bảo hiểm bằng đồng Việt Nam” lên đơn theo u cầu thanh tốn phí của
khách hàng.
Bước 4: Giao chứng từ cho các bộ phận liên quan:
Sau khi thực hiện 3 bước trên, đánh máy, trình ký và đóng dấu xong chứng từ
được phân ra như sau: bản gốc viết tay (bản đầu tiên) lưu phòng Nghiệp vụ, 3 bản lưu
phòng Tài vụ, 1 bản gửi Tái bảo hiểm, nếu chi nhánh cấp đơn thì gửi 1 bản cho cơng
ty cịn lại trả cho khách hàng.
Đối với hàng hoá xuất khẩu: bao gồm 4 bước sau:
Bước 1: Kiểm tra chứng từ- tương tự như bước 1 đối với hàng hoá nhập khẩu.



Lưu ý: - Đối với hàng hoá xuất khẩu chỉ bảo hiểm bằng ngoại tệ không bảo hiểm
bằng đồng Việt Nam.
- Đơn bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu và giấy sửa đổi bổ sung phải đánh máy bằng
tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
- Phải chú ý đến “điều kiện bảo hiểm” do khách hàng đề nghị. Nếu theo tín dụng
thư (L/C- Letter of credits) thì phải làm đúng tín dụng thư đã mở, nhưng nếu điều kiện
đề nghị có những điểm bất hợp lý hoặc vượt quá phạm vi trách nhiệm thơng thường
của cơng ty thì phải sửa lại (nếu việc sửa lại đó khơng mâu thuẫn với thư tín dụng về
cơ bản) hoặc hỏi lại người mua hàng ở nước ngoài.
- Đối với hàng xuất tư nhân của các đại sứ quán phải yêu cầu khách hàng cung
cấp “bản kê chi tiết hàng hoá” và trị giá tiền của mỗi loại. Chỉ bảo hiểm theo điều kiện
“mọi rủi ro” cho các loại hàng hoá mới, đối với hàng cũ bảo hiểm theo điều kiện C.
Trước khi chấp nhận bảo hiểm phải yêu cầu khách hàng cho xem cụ thể hàng hố và
bao bì để xác định trị giá hàng hố và điều kiện bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm
chỉ cần in 06 bản là đủ.
Bước 2: Vào sổ cấp đơn
Sau khi kiểm tra các chứng từ có liên quan, nếu hợp lệ thì vào sổ cấp đơn theo
từng danh mục ghi trong sổ. Số đơn bảo hiểm đã được in sẵn trên đơn nếu chỉ cần
đánh máy thêm ký hiệu của địa phương đó để nghiệp vụ tiện theo dõi.
Ví dụ: Đơn do chi nhánh TP. HCM cấp, số đơn bảo hiểm là 1580 thì ghi như
sau:1580-HX/HCM/95
Bước 3: Tính phí bảo hiểm và huỷ bỏ đơn bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm hàng hố xuất khẩu chính là giá CIF mà khách hàng kê khai
trên giấy yêu cầu bảo hiểm cộng thêm 10% lãi dự tính hay 10%CIF. Vì vậy phí bảo
hiểm được tính theo cơng thức (CIF + 10%CIF)* R trong đó R là tỷ lệ phí bảo hiểm
được tính theo từng luồng, theo từng điều kiện bảo hiểm và chủng loại hàng hoá.
Lưu ý:- Đối với hàng xuất của đại sứ quán các nước đóng tại Việt Nam, số tiền bảo
hiểm chính là giá trị hàng hố mà khách hàng kê khai cộng thêm 10%.
- Trường hợp khách hàng xin điều chỉnh giá trị bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm thì phải
tính lại giá CIF và phí bảo hiểm bằng hình thức cấp cho khách hàng 1 giấy sửa đổi bổ

sung.


- Điều chỉnh số B/L, trọng lượng và huỷ đơn cách thức tương tự như hàng nhập ở
bước 3.
Bước 4: Giao chứng từ cho các bộ phận liên quan
Sau khi thực hiện 3 bước trên, nộp đơn trình ký và khơng cần đóng dấu trịn,
chứng từ được phân ra như sau: 3 bản đầu giao cho khách hàng, 1 bản lưu Nghiệp vụ,
3 bản giao cho Tài vụ, 1 bản giao cho Tái bảo hiểm.
Lưu ý: - Đối với hàng xuất của đại sứ quán các nước đặt tại Việt Nam thì chứng từ đưa
sang Tài vụ chỉ cần 1 bản để theo dõi tiền về.
- Khi giao chứng từ cho các bộ phận liên quan phải ghi vào sổ giao chứng từ và có ký
nhận.
- Đối với hàng xuất 3 bản đầu giao cho khách hàng không được ghi tỷ lệ phí bảo hiểm
và phí bảo hiểm chỉ cần ghi giá CIF là đủ.
- Đơn giao cho tái bảo hiểm đưa qua bộ phận thống kê của phòng vào sổ thống kê sau
đó mới đưa sang tái bảo hiểm.
- Bản nghiệp vụ giữ để lưu theo từng chi nhánh và phân theo từng tàu. Mỗi cán bộ
nghiệp vụ cuối tháng/quý/năm phải nắm được sổ phí thu của từng khách hàng mà
mình phụ trách và tổng kim ngạch hàng nhập và xuất qua bảo hiểm trong tháng đó của
khách hàng để phân tích, đánh giá được tình hình kinh doanh.
Là công ty cổ phần đầu tiên trong ngành bảo hiểm, PJICO có thế mạnh là các cổ
đơng có lượng hàng hố xuất nhập khẩu hàng năm khá lớn (Tổng cơng ty xăng dầu
Việt Nam - Petrolimex, Tổng công ty thép Việt Nam - VSC). Vì vậy ngay từ năm đầu
tiên hoạt động (tháng 06/1995) nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển đã chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu hoạt động kinh
doanh của PJICO và từ đó tới nay nghiệp vụ này đã không ngừng tăng trưởng và phát
triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Nhờ có sự ủng hộ, trợ giúp của các Bộ, Ngành liên
quan, các tổ chức kinh tế, sự chỉ đạo đúng đắn kịp thời của các cấp lãnh đạo PJICO và
đặc biệt là sự cố gắng phấn đấu nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên công ty, sau hơn

6 năm hoạt động trong thị trường cạnh tranh, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển của PJICO đã đạt được lượng doanh thu phí khá
lớn. Tỷ trọng trung bình chiếm từ 15%-20% trong tổng doanh thu phí bảo hiểm của


tồn cơng ty và chiếm khoảng hơn 2% tổng doanh thu phí bảo hiểm của tồn thị
trường. Cụ thể ta có:


Để phân tích một cách cụ thể và chi tiết, ta tính một số chỉ tiêu sau:
Bảng 7: Bảng chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động khai thác bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO từ 1995-2000.
Chỉ tiêu
1.Số tiền BH bình quân
một đơn cấp(Triệu:VND)
2.Tốc độ tăng DT phí BH
(%)
3.Tốc độ tăng KNHH
tham gia BH (%)
4.Tốc độ tăng (giảm) tỷ
lệ phí BH bình qn (%)

1995

1996

1997

1998


1999

2000

1.146

1.159

1.588

1.546

1.586

2.296

-

204,2

55,7

66,0

26,1

15,3

-


180

70,8

49,8

22,7

54,6

-

8,7

(8,9)

10,7

2,7

(25,5)

Qua bảng số liệu trên ta có thể nhận xét rằng hoạt động khai thác bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO đạt kết quả tương đối cao.
Trước hết là số đơn cấp hàng năm tăng nhanh, nếu như 6 tháng năm 1995 chỉ khai thác
được 427 đơn cấp thì đến năm 2000 con số này đã đạt tới 2.896 đơn. Cùng với sự biến
động về tỷ lệ phí bảo hiểm trên tồn thị trường nói chung và của cơng ty nói riêng thì
số tiền bảo hiểm bình qn một đơn cấp có xu hướng tăng dần qua các năm, điều này
được thể hiện: năm 1995 số tiền bảo hiểm bình quân một đơn cấp là 1.146 triệu nhưng
đến năm 2000 số tiền bảo hiểm trong một đơn cấp đạt tới 2.296 triệu lớn gấp 2 lần

năm 1995, điều đó chứng tỏ PJICO ngày càng thu hút được nhiều hợp đồng bảo hiểm
có giá trị cao của các khách hàng lớn. Mặt khác ta thấy tốc độ tăng doanh thu phí bảo
hiểm và tốc độ tăng kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm đều có xu hướng giảm dần
và tốc độ tăng doanh thu phí bảo hiểm bình qn 1995/2000 (1) lại nhỏ hơn tốc độ tăng
kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm bình quân trong cùng thời kỳ (2)nhưng sự
chênh lệch này là tương đối nhỏ. Nguyên nhân của sự chênh lệch này là do PJICO đã
(1)(1)
(2)(2

trong đó :73,46%
) là 75,58%


điều chỉnh tỷ lệ phí bảo hiểm phù hợp với sự biến động của thị trường. Quá trình điều
chỉnh tỷ lệ phí làm cho tỷ lệ phí có xu hướng chung là giảm xuống từ 1995/2000 (từ
0,3795% xuống còn 0,3187%). Nhìn vào bảng chỉ tiêu đánh giá ta có thể thấy rằng
chiến lược khai thác của PJICO là hết sức linh hoạt và có hiệu quả đặc biệt là việc điều
chỉnh tỷ lệ phí bảo hiểm qua các năm cho phù hợp với tình hình chung của tồn thị
trường bảo hiểm. Điều chỉnh tỷ lệ phí lần 1 năm 1997 giảm 8,9% so với năm 1996 do
nhiều nguyên nhân, cơ bản là do hai nguyên nhân sau: chủ quan là do chiến lược phát
triển của công ty và khách quan là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu
á. ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế trong nước, khu vực và trên thế giới. Mặc dù tỷ
lệ phí giảm song doanh thu phí bảo hiểm khơng những khơng giảm xuống mà cịn tăng
55,7% so với năm 1996. Có sự tăng lên của tổng doanh thu phí trong khi tỷ lệ phí
giảm xuống là do tổng kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm tăng lên (70,8%) và do
tốc độ tăng này lớn hơn nên có thể bù đắp được phần doanh thu giảm đi do giảm tỷ lệ
phí bảo hiểm. Điều chỉnh giảm tỷ lệ phí lần hai năm 2000 so với năm 1999 xuống còn
0,3187 năm 2000 do có sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty bảo hiểm trên thị
trường và do tỷ lệ tổn thất năm 1998, 1999 đã giảm xuống dẫn đến tỷ lệ bồi thường
giảm theo. Và cũng tương tự lần 1 mặc dầu tỷ lệ phí bảo hiểm bình quân giảm mạnh

song tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng lên 15,3% tức là tăng thêm 2.750 triệu đồng.
Có sự tăng lên của doanh thu phí bảo hiểm này là do sự điều chỉnh tỷ lệ phí bảo hiểm
đã thu hút thêm được đông đảo khách hàng tham gia bảo hiểm tại cơng ty làm cho kim
ngạch hàng hố tham gia bảo hiểm tăng 54,6% bù đắp được phần doanh thu phí giảm
do tỷ lệ phí bảo hiểm giảm do tỷ lệ phí giảm. Lại lấy ví dụ q trình điều chỉnh tỷ lệ
phí bảo hiểm năm 1998 tăng 10,7% so với năm 1998, tỷ lệ thu phí tăng lên do rất
nhiều nguyên nhân nhưng trong đó chủ yếu do tình hình tổn thất năm 1996, 1997 là rất
lớn dẫn đến tỷ lệ bồi thường rất cao. Mặc dù tỷ lệ phí bảo hiểm tăng nhưng kim ngạch
tham gia bảo hiểm khơng những khơng giảm mà cịn tăng 49,8%, kéo theo tổng doanh
thu phí bảo hiểm tăng tới 66% bù đắp được các khoản chi phí kinh doanh trong đó có
khoản chi chính là bồi thường tổn thất, ngồi ra cịn có các khoản chi khác như chi quỹ
dự phịng, đề phòng và hạn chế tổn thất, chi quản lý... điều đáng nói ở đây là tổng
doanh thu phí bảo hiểm năm 1998 tăng lên khơng hồn tồn là vì tỷ lệ phí bảo hiểm
tăng mà chủ yếu là do kim ngạch hàng hoá trong bảo hiểm tăng rất nhanh 49,48% cao
hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của tỷ lệ phí 10,7%.


Từ sự phân tích ở trên ta có thể nhận định rằng biểu phí mà PJICO tính tốn đưa
ra là rất linh hoạt, phù hợp với nhu cầu của khách hàng cũng như sự biến động đa dạng
của thị trường bảo hiểm và của toàn bộ nền kinh tế. Do đó đã góp phần làm tăng doanh
thu từ phí bảo hiểm hay nói cách khác số lượng hàng hố xuất nhập khẩu được bảo
hiểm tại PJICO ngày càng nhiều, uy tín của cơng ty đối với khách hàng ngày càng
cao.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, PJICO còn rất nhiều tồn tại và
khó khăn trong q trình thực hiện chiến lược khai thác của mình. Trước hết ta thấy
rằng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đang tăng dần qua các năm, hoạt
động ngoại thương đang có xu hướng phát triển mạnh, đẩy nhanh tiến trình hội nhập
nền kinh tế vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới trong xu thế khu vực hố, tồn
cầu hố đang diễn ra hết sức mạnh mẽ và sôi động như hiện nay. Mặc dù nghiệp vụ
bảo hiểm hàng hố xuất nhập khẩu của PJICO có tăng trưởng và phát triển song tỷ lệ

kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá tham giam bảo hiểm ở PJICO so với tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá lại rất thấp chỉ khoảng 2%. Điều này không chỉ đặt ra
đối với riêng PJICO mà đang là vấn đề chung của toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam
hiện nay, ngoài số lượng khách hàng trong cổ đông là những khách hàng truyền thống
chủ yếu quen thuộc đối với PJICO là các tổng công ty, một số đơn vị nhà nước kinh
doanh xuất nhập khẩu hàng hố, trong đó cơ cấu mặt hàng được bảo hiểm chưa đa
dạng chủ yếu là hàng lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng... vì vậy giá trị bảo hiểm
không cao và rủi ro tổn thất rất lớn. PJICO chưa thực sự hấp dẫn đối với các doanh
nghiệp, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu có vốn đầu tư nước ngồi vì vậy họ chủ yếu
tham gia bảo hiểm ở các cơng ty nước ngồi có khả năng tài chính lớn uy tín và chất
lượng cao. Mặt khác PJICO chưa thực sự tuyên truyền bám sát khách hàng chưa thâm
nhập được vào quá trình đàm phán các hợp đồng vay nợ, liên doanh đầu tư với nước
ngoài để đấu tranh giành lại quyền lợi cho phía mình. Sự phối hợp giữa PJICO với các
doanh nghiệp bảo hiểm khác để khai thác mở rộng thị trường, thu hút khách hàng còn
hạn chế chưa thống nhất đánh giá được các tồn tại cần khắc phục và cần phải cải thiện
hơn nữa của ngành bảo hiểm. Chưa nghiên cưú để tham mưu cho các cơ quan quản lý
có những chủ trương, giải pháp giúp đỡ hoặc tổ chức hội nghị phối kết hợp với các
chủ hàng, chủ doanh nghiệp đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu (có những trận địa còn


bỏ trống như mặt hàng dầu thô kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD hàng năm vẫn bảo
hiểm 100% ở nước ngồi).
Những khó khăn tồn tại trên ở PJICO một phần cũng là khó khăn của tồn bộ
thị trường bảo hiểm và toàn bộ nền kinh tế do vị thế nền kinh tế nước ta trên thương
trường quốc tế chưa cao nên trong quan hệ ngoại thương ta thường phải chịu sức ép
nhập khẩu theo giá CIF và xuất khẩu theo giá FOB hay CF, hàng hoá của Việt Nam
đang trong quá trình xâm nhập thị trường, sức cạnh tranh hạn chế nên thế của ta chưa
đủ để ép đối tác nước ngoài dành quyền mua bảo hiểm cho phía Việt Nam. Ngồi ra
do lượng hàng hố nhập theo chương trình ODA (đã giải ngân) chiểm khoảng 3-5%
tổng kim ngạch nhập khẩu không khai thác được do bên viện trợ đầu tư thu xếp bảo

hiểm và hàng hoá nhập khẩu từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài chiếm 23%, mặt khác
trình độ nghiệp vụ của các khai thác viên bảo hiểm đòi hỏi thực tế về bảo hiểm của
khách hàng trong nền kinh tế đang phát triển như hiện nay của nước ta. Công tác
thống kê nghiệp vụ, quản lý và đánh giá rủi ro, xác định tỷ lệ phí, điều kiện, điều
khoản áp dụng cịn có những hạn chế, do vậy mà nó chính là một trong những nguyên
nhân làm cho công tác khai thác của PJICO hiện nay chưa đạt được kết quả cao. Chính
vì vậy trong những năm tới PJICO cần phải đưa ra các biện pháp chiến lược khai thác
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu phù hợp mới mẻ và thực hiện một cách tích cực
triệt để nhằm đạt được kết quả cao hơn vưà góp phần vào sự phát triển của cơng ty nói
riêng và thị trường bảo hiểm nói chung dự kiến phí bảo hiểm xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển của PJICO năm 2001 tăng khoảng 15%-20% so với năm
2000.
2. Quy trình giám định hàng hố xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở
PJICO.
Giám định tổn thất là việc làm của các chuyên viên giám định của người bảo hiểm
hoặc công ty giám định được người bảo hiểm uỷ quyền nhằm xác định mức độ và
nguyên nhân của tổn thất làm cơ sở cho việc bồi thường đồng thời qua việc giám định
đó kịp thời đề xuất các biện pháp bảo quản và phòng ngừa thiệt hại cho hàng hố.
Q trình giám định tổn thất được tất cả các công ty bảo hiểm Việt Nam quy
định rất chặt chẽ theo một quy trình giám định nhằm tiến hành đánh giá, giám định tổn
thất xảy ra cho hàng hoá một cách chính xác ít tốn kém nhất, đồng thời đảm bảo quyền
lợi cho cả hai bên: khách hàng và công ty bảo hiểm. Khi có tổn thất xảy ra, các công ty


bảo hiểm phải xem xét tổn thất đó có thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm của mình
hay khơng và nếu có thì mức độ tổn thất là bao nhiêu? thông thường các nguyên tắc
chung của các công ty bảo hiểm khi tiến hành giám định là:
- Bảo đảm giám định kịp thời, đầy đủ, trung thực, khách quan đảm bảo tốt cho
việc xét bồi thường sau này.
- Công ty bảo hiểm có thể trực tiếp giám định hoặc có thể chỉ định đại lý giám

định của mình ở trong nước hay quốc tế hoặc thuê các công ty giám định trong và
nước ngoài như: Vinacontrol, Davidcontrol, FCC, Craw Ford (cơng ty tính tốn tổn
thất lớn nhất Châu á của Mỹ)...Đây là xu hướng phổ biến của các công ty bảo hiểm
hiện nay.
- Trừ trường hợp đặc biệt nhiệm vụ chính của giám định hàng hố là giám định
và thực hiện cơng tác đề phịng và hạn chế tổn thất hàng hố được bảo hiểm.
ở PJICO, quy trình giám định hàng hoá xuất nhập khẩu bị tổn thất đã được ban
hành kèm theo quyết định số 113/BH-HH ngày 15/07/1995 của Tổng giám đốc PJICO.
Nhìn chung, khi tiến hành một vụ giám định hàng hoá vận chuyển bị tổn thất giám
định viên cần thực hiện cơng việc theo trình tự sau:
- Chấp nhận yêu cầu giám định
- Tiến hành giám định
- Lập biên bản giám định
- Cung cấp biên bản giám định và thu phí giám định
2.1. Chấp nhận yêu cầu giám định
Khi xảy ra tổn thất người được bảo hiểm phải gửi ngay yêu cầu giám định đến
công ty bảo hiểm bằng bất kỳ hình thức nào nhưng sau đó buộc phải bằng văn bản để
lưu trữ hồ sơ giám định. Giấy yêu cầu giám định này là thủ tục cơ bản và cần thiết cho
việc thực hiện một vụ giám định và là căn cứ để đề nghị người u cầu giám định
thanh tốn phí giám định. Thơng thường giấy yêu cầu giám định bao gồm các nội
dung sau:
- Tên, địa chỉ người hoặc tổ chức yêu cầu giám định
- Tên hàng
- Số lượng, khối lượng hàng hoá cần giám định
- Nội dung yêu cầu giám định
- Thời gian, địa điểm yêu cầu giám định


Giám định bảo hiểm chỉ được chấp nhận yêu cầu giám định trong những trường
hợp xảy ra tai nạn, có tổn thất, thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Vì vậy, đối với

những trường hợp phát hiện không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm cần có ý kiến
ngay để người nhận hàng có thể nhanh chóng yêu cầu cơ quan giám định ngoại thương
giám định, bảo đảm việc đòi bồi thường người bán hàng hoặc người thứ ba có trách
nhiệm trực tiếp. Với những trường hợp thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm có thể
yêu cầu giám định khi xét thấy có đủ điều kiện sau đây:
 Các chứng từ người yêu cầu giám định phải xuất trình:
- Vận tải đơn đường biển (B/L)
- Giấy chứng nhận bảo hiểm (đặc biệt đối với trường hợp hàng do người nước
ngoài bảo hiểm )
- Hoá đơn thương mai
- Giấy kê chi tiết hàng hoá (Packing list, Specification)
- Các chứng từ giao nhận hàng hoá giữa tàu và cảng, COR, hoặc biên bản giao
nhận người chuyên chở.
Tuỳ từng trường hợp, cần yêu cầu cung cấp hoặc tìm kiếm các giấy tờ liên quan
như sau:
- Giấy chứng nhận hàng hoá hư hỏng
- Thư dự kháng (thư từ khiếu nại người thứ ba)
- Báo cáo hải sự hoặc trích sao nhật ký hàng hải (Sea-protest).
Khi sử dụng các giấy tờ cần cân nhắc đối chiếu các giấy tờ với thực hàng, đối
chiếu giữa các loài giấy tờ để tránh nhầm lẫn trong mọi vụ giám định và cũng là để có
thêm điều kiện xác định nguyên nhân được chính xác hơn (về số lượng, loại hàng,
trách nhiệm người bán, trách nhiệm người vận tải, tìm kiếm những ghi chú trên vận tải
đơn)
 Cơng tác chuẩn bị hiện trường cần xét tới:
- Thời gian và địa điểm yêu cầu giám định.
- Yêu cầu sẵn sàng giám định (hàng xấu hỏng để riêng hay còn lẫn với hàng tốt)
- Sự có mặt của các bên liên quan
Tuỳ tình hình đặc điểm của mỗi cảng trong nước, tuỳ từng cơng ty bảo hiểm sẽ
có những quy định cụ thể để làm việc được thuận lợi đối với đại diện người được bảo
hiểm, nhưng nhất thiết không được trái với những nguyên tắc sau đây:



- Chỉ giám định những trường hợp tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm và
trong khi hợp đồng bảo hiểm đang còn hiệu lực.
- Hàng bị hư hỏng, mất mát cần được giám định ngay mà không dựa vào thời
hiệu bảo hiểm để chậm trễ yêu cầu giám định.
- Hàng có tổn thất sau khi dỡ khỏi tàu phải được giám định ngay tại cảng dỡ
hàng, hoặc tại kho cuối cùng nếu trước khi di chuyển từ tàu về kho cuối cùng đã có
biên bản ký kết với tàu, với cảng, ghi rõ số lượng và trạng thái hàng hoá bị tổn thất.
- Định nghĩa về kho cuối cùng không được trái với quy tắc chung về bảo hiểm
hàng hố vận chuyển bằng đường biển của cơng ty bảo hiểm hoặc điêù kiện trong đơn
bảo hiểm của nước ngoài trong trường hợp làm việc với danh nghĩa đại lý giám định
cho cơng ty bảo hiểm nước ngồi.
- Đối tượng giám định là hàng hố được bảo hiểm có tổn thất rõ rệt hoặc có hiện
tượng nghi vấn tổn thất chứ khơng phải là hàng hố ngun đai, ngun kiện, có nghi
vấn về số lượng hoặc phẩm chất khơng do ảnh hưởng của những rủi ro từ bên ngoài
tác động vào.
- Giám định bảo hiểm là giám định đối địch giữa người bảo hiểm và người được
bảo hiểm hoặc tuỳ trường hợp có thể có mặt của người thứ ba có trách nhiệm đối với
tổn thất (đại diện cho người chuyên chở). Người mua hàng của ngoại thương (chủ
hàng nội địa) khơng có quyền cản trở hoặc tranh chấp những vấn đề có liên quan tới
cơng việc giám định bảo hiểm.
2.2. Tiến hành giám định:
Sau khi nhận yêu cầu giám định và nghiên cứu kỹ các giấy tờ có liên quan, đúng
ngày đã hẹn giám định viên cần có mặt tại địa điểm như đã nêu trên để thực hiện công
việc giám định. Giám định viên cần mang theo các dụng cụ cần thiết phục vụ cho việc
giám định (cân, thước do, máy ảnh, máy tính, nhiệt kế) Cơng việc giám định cần được
tiến hành khẩn trương, ý kiến của giám định viên đưa ra phải đảm bảo tính chất chính
xác, hợp lý và nhất quán. Với những trường hợp phải giám định kéo dài ngày, giám
định viên phải bám sát hiện trường.

Do khơng thể có mặt thường xun trong khi theo dõi giám định những lơ hàng
hố lớn tại các kho hàng hoặc trên tàu biển, giám định viên cần phải biết chia và chọn
thời gían thích hợp nhất để kiểm tra đúng lúc bảo đảm đuợc tình hình và mức độ tổn


thất tiêu biểu cho mỗi vụ. Muốn làm tốt được việc này, tại mỗi cảng có hàng nhập về,
các chi nhánh cần đề ra những nguyên tắc cụ thể và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
liên quan như: cảng, đại diện cho người được bảo hiểm , các chủ hàng nội địa, đại lý
tàu biển để ổn định q trình tiến hành giám định và đảm bảo tính chất trung thực
trong các khâu giao nhận, kiểm đếm và bảo quản hàng hố được bảo hiểm. Phải có
biện pháp giải quyết dứt điểm. Trong mỗi vụ giám định cần chú ý tới các mặt sau đây
trong mỗi bước kiểm tra:
* Kiểm tra bao bì cần chú ý:
- Xem lại bao bì và các mã hiệu ngồi để xác định được đúng đối tượng giám
định.
- Ký hiệu đề phòng tổn thất ngồi bao bì (phát hiện khả năng tổn thất có nguyên
nhân do thiếu loại ký hiệu này)
- Quy cách và chất lượng bao bì phù hợp với yêu cầu vận chuyển bằng đường
biển (hàng hỏng do khuyết tật của bao bì khơng)
- Bao bì cũ/ mới (có phù hợp với tập quán và điều kiện mua bán, vận chuyện
không)
- Vật liệu làm bao bì (hàng hỏng có phải do khuyết điểm của ngun liệu bao bì
khơng).
- Và các chất liệu khác cần phát hiện để tìm ra khả năng tổn thất là do bao bì
hàng hố hay cịn do những ngun nhân nào khác.
- Nếu bao bì có niêm phong kẹp chì thì cần kiểm tra kỹ xem có khác gì với sự
miêu tả trong chứng từ vận chuyển không.
* Kiểm tra bên trong kiện hàng cần chú ý:
- Cách sắp xếp và bao bì hàng hố bên trong kiện hàng cũng như vật chèn, lót
(có phù hợp với tính chất hàng hố khơng).

- Tính chất hàng hố.
- Phát hiện các vết ướt, mốc, chỗ trống, vật lạ.
- Và các hiện tượng khả nghi khác để tìm ra nguyên nhân tổn thất có thể do bao
bì, chèn lót bên trong, khả năng mất mát, đóng thiếu hoặc nhầm hàng.
* Phân loại tổn thất và xác định mức độ tổn thất:
Sau khi phát hiện các dấu vết khả nghi bên ngoài và trong kiện hàng, cần phân
loại và xác định mức độ tổn thất, khó phân loại và xác định có thể tham khảo ý kiến
của các chuyên viên mặt hàng được mời tham dự giám định.


Việc xác định mức độ tổn thất phải chính xác, hợp lý và thiết thực xác định
riêng số lượng từng loại hàng thiếu, xác định riêng hàng hỏng với mức độ thiệt hại
khác nhau tuỳ theo hiện trạng hàng hoá. Cân nhắc giá trị sử dụng và ước tính giá bán
hàng kém phẩm chất để tránh hiện tượng giảm giá không phù hợp. Cần xác định mức
độ tổn thất và mức độ giảm giá riêng kho hàng hoá hỏng do những nguyên nhân khác
nhau, thuộc các bên chịu trách nhiệm khác nhau và cần có sự thoả thuận của người yêu
cầu giám định. Trường hợp có tổn thất lớn và phức tạp dễ gây ra tranh chấp khi xác
định mức độ tổn thất cần lấy mẫu hàng hoá (mẫu hàng tốt, mẫu hàng hỏng các loại).
Tuỳ từng trường hợp có thể lấy mẫu một lần hoặc nhiều lần có khoảng cách về thời
gian thích hợp. Ngồi việc xác định mức độ thiệt hại các lọai hàng hố cịn phải xác
định các loại phí tổn của hàng, chỉnh lý, sửa chữa và thay thế nếu cần trên cơ sở tính
tốn hợp lý.
Khi phân loại và xác định mức độ tổn thất cần chú ý:
+ Với trường hợp thiếu số lượng:
- Xác định trên cơ sở (số liệu) ghi trong giấy đóng gói và hố đơn bán hàng.
- Chỉ rõ kích cỡ, thể loại mặt hàng thiếu hụt so với giấy đóng gói.
- Xét khả năng đóng thiếu hàng hoặc đóng nhầm hàng từ kiện này sang kiện kia.
- Với các mặt hàng như xe cộ, máy móc cần xét khả năng có những bộ phận
người khách hàng khơng gửi kèm theo hàng hố đó.
+ Với trường hợp thiếu trọng lượng:

- Xét tới hao hụt tự nhiên, thuỷ phân và hợp chất.
- Xác định thiếu hụt trên cơ sở giấy chứng nhận của người bán hoặc trọng lượng
trung bình của mỗi kiện hàng tính theo số liệu ghi trên hố đơn hay vận tải đơn.
- Hàng hố có trọng lượng đồng đều hay có chênh lệch giữa các bao, kiện.
- Bao bì có trọng lượng đồng đều hay có chênh lệch giữa các thùng, kiện hàng
của mỗi lô hàng.
- Kiểm tra cân và sử dụng được khi giám định.
+ Với trường hợp hàng bị hư hỏng:
- Xác định số lượng và trọng lượng của hàng hỏng.
- Xét tới giá trị sử dụng theo đúng thứ loại hàng và khả năng đưa vào sử dụng
việc khác.
- Hàng được thay thế bộ phận, chỉnh lý, sửa chữa theo yêu cầu của giám định
viên sẽ được tính giảm giá sau khi chỉnh lý, thay thế bộ phận hoặc sửa chữa.


- Khi mức độ rủi ro của hàng hoá trong cùng một lơ hàng có khác nhau thì định
mức riêng cho từng loại và nếu cần lấy mẫu riêng của từng loại.
- Với các mặt hàng thiết bị máy móc, cần xét tới ảnh hưởng của công suất và độ
bền của hàng hóa.
- Xét tới trường hợp của tổn thất bộ phận ảnh hưởng tới tồn bộ cố máy.
- Có biện pháp tích cực khắc phục tình trạng xác định tỷ lệ giảm giá mỗi lần một
khác ở các vụ có dạng tổn thất khác nhau.
- Phải có ý kiến tập thể lãnh đạo trước khi thừa nhận tổn thất toàn bộ.
- Tỷ lệ giảm giá được xác định trên cơ sở giá trị cịn lại của hàng hố đã bị tổn
thất (tỷ lệ giá bán hàng tổn thất và nguyên vẹn trên thị trường). Các mặt hàng máy
móc, thiết bị, ơ tơ thì chỉ xác định tổn thất thực tế.
* Xác định nguyên nhân tổn thất :
Xác định nguyên nhân tổn thất tức là xác định nguời chịu trách nhiệm gây ra tổn
thất cho hàng hoá. Để xác địng đúng nguyên nhân gây ra tổn thất cần tìm hiểu, xem
xét kĩ hiện trường, thu thập đầy đủ chứng từ và nghi nhận đầy đủ các vấn đề liên quan

ngay từ khi bắt đầu tới khi kết thúc giám định. Có thể xác định nguyên nhân tổn thất
trên cơ sở sau:
- Tính chất hàng hố và bao bì hàng hố.
- Đặc điểm phương tiện chuyên chở và hành trình của hàng hố.
- Dạng tổn thất.
- Tình hình bốc dỡ, chất xếp, lưu kho, chuyển tải.
- Tình hình giao nhận của các bên liên quan.
Khi kết luận không được vội vã, chủ quan và tuỳ tiện, thiếu cơ sở thực tiễn, thiếu
khoa học. Cần hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng những câu chữ chung chung,
không qui được ssố trách nhiệm riêng lẻ của từng trường hợp, gây khó khăn cho việc
xem xét giải quyết sau này. Cần thiết phải chỉ rõ hỏng, mất mát. Như vậy là do thiếu
sót về phần bao bì hàng hố, do kho tàng, bốc dỡ chuyên chở để có thể qui được phần
trách nhiệm là do: Người bán hàng, nguời vận tải, kho hàng hay do chính người được
bảo hiểm đã gây thiệt hại cho hàng hoá.
2.3. Lập biên bản giám định.
Sau khi đã giám định xong, giám định viên suy nghĩ và chắt lọc những chi tiết cơ
bản để phản ánh toàn bộ những điều đã được chứng kiến tại hiện trường vào một bản
gọi là "Biên bản giám định". Biên bản giám định này là tài liệu chính để xét duyệt bồi
thường cho người được bảo hiểm và sử dụng để khiếu nại đòi bồi thường đối với


người thứ ba. Vì vậy, nội dung biên bản phải đảm bảo tính trung thực, chính xác, rõ
ràng, cụ thể. Các số liệu phải phù hợp với trạng thái và không mâu thuẫn khi đối chiếu
với các tài liệu do chính nội dung biên bản dẫn chứng.
Với một số mặt hàng xuất nhập khẩu thường xuyên và khi bị tổn thất thường hay
gặp ở những dạng giống nhau thì khơng cần thiết phải mơ tả dài dịng. Nhưng với
những trường hợp có tổn thất lớn, những trường hợp liên quan đến nhiều tình tiết
phức tạp thì cần được mơ tả một cách đầy đủ và thật cụ thể để người giải quyết khiếu
nại có thể thơng qua biên bản mà có thể hình dung được ngun nhân và mức độ tổn
thất, thuận lợi cho việc quyết định bồi thường hay từ chối trách nhiệm bồi thường.

Vì vậy, ngồi u cầu trả lời đầy đủ những mục in sẵn trong biên bản giám định
để có được số liệu và tình hình cụ thể về trạng thái hàng hoá, phương tiện vận chuyển
cũng như các chặng đường vận chuyển thì cần chú ý liên hệ tới các điểm sau đây:
- Tài liệu sử dụng để tham khảo, đối chiếu hoặc dẫn chứng
- Những phát hiện riêng của giám định viên trên cơ sở hiện vật ngoài hiện trường
để đi đến kết luận về mức độ thiệt hại và nguyên nhân gây ra tổn thất
- ý kiến của cán bộ chuyên môn về mặt hàng (chuyên viên, cán bộ kỹ thuật)
- Dẫn chứng bằng tài liệu kiểm nghiệm (chứng nhận, phân tích)
- Dẫn chứng bằng ảnh chụp ngoài hiện trường.
Với những trường hợp sử dụng kỹ thuật viên trong việc kiểm tra phẩm chất hàng
hố hư hỏng tại phịng thí nghiệm hoặc qua kiểm tra chi tiết máy để xác định tổn thất,
giám định viên có thể đưa kết quả giám định vào nội dung biên bản giám định. Nhưng
với trường hợp kiểm nghiệm hoặc kiểm tra quan trọng, cần có những phân tích tỉ mỉ
và phức tạp thì phải có riêng giấy chứng nhận kiểm nghiệm phẩm chất hoặc báo cáo
kiểm tra kỹ thuật kèm theo biên bản. Trong mọi trường hợp khi chỉ định cơ quan hoặc
cá nhân làm công việc kiểm tra kỹ thuật, giám định viên pải chịu trách nhiệm theo dõi
cho tới khi có đầy đủ những kết quả kiểm nghiệm hoặc kiểm tra hợp lý.
Trong quá trình giám định phải đề xuất ý kiến và hướng dẫn khách hàng thực
hiện mọi biện pháp nhămg ngăn ngừa và hạn chế tổn thất. Đồng thời theo yêu cầu
giám định, giám định viên có thể ghi thêm các chi phí và lao động đã thực hiện trong
quá trình phục vụ giám định vào biên bản. Tuy nhiên, những ý kiến và các chi phí nói
trên được thực hiện trong q trình giám định cũng khơng có nghĩa là ngưoừi bảo
hiểm được chấp nhận tổn thất xẩy ra thuộc trách nhiệm của bảo hiểm và chấp nhận
các chi phí phục vụ trên. Với những vụ tổn thất lớn, quan trọng và phức tạp cần phải
có ý kiến của tập thể và lãnh đạo trước khi lên biên bản giám định.


2.4. Cung cấp biên bản giám định và thu phí giám định.
Sau khi đã lập biên bản giám định, giám định viên cần tuân thủ những quy định
sau:

- Theo nguyên tắc, biên bản giám định làm ra chỉ cấp phát cho những người yêu
cầu giám định. Không tiết lộ một nội dung giám định nào cho các cơ quan hoặc cá
nhân khác ngoài cơ quan hay cá nhân yêu cầu giám định, từ trường hợp đã được
người yêu cầu giám định thoả thuận hoặc lãnh đạo công ty bảo hiểm cho phép.
- Những chứng từ tài liệu liên quan tới mọi vụ giám định phải được lưu trữ cùng
với biên bản giám định, trừ khi là tài liệu mượn phải trả sau khi hồn thành cơng tác
giám định. Với những tài liệu cần sử dụng làm bằng chứng thì trước khi trả cần sao
chép lại để lưu trữ.
- Việc cấp thêm biên bản giám định cho bất kỳ người nào khác phải được sự thoả
thuận hay uỷ quyền của người yêu cầu giám định bằng văn bản và sẽ tính thêm phí
nếu cần.
- Việc chỉnh lý biên bản giám định hoặc số liệu theo yêu cầu của người yêu cầu
giám định phải được xem xét cẩn thận. Nếu việc chỉnh lý này là do lỗi của bản thân
giám định viên tính tốn hoặc đánh máy sai trong biên bản giám định thì việc chỉnh lý
này là việc làm đương nhiên và giám định viên phải chỉnh lý lại cho khách hàng. Nếu
việc chỉnh lý này liên quan tới vấn đề kết luận nguyên nhân của tổn thất hoặc tỷ lệ
giảm giá thương mại thì giám định viên quyết đúng đắn. Trên cơ sở các chứng từ mà
giám định viên được cung cấp khi giám định công ty bảo hiểm và khách hàng có thể
gặp nhau để thương lượng những điểm cần chỉnh lý. Nếu hai bên không thống nhất ý
kiến với kết quả của biên bản giám định mới thì có thể cùng thuê cơ quan giám định
khác tiến hành giám định và bên không thoả mãn với kết quả giám định của công ty
bảo hiểm sẽ tự chịu chi phí. Kết quả giám định mới này có thể là chứng cứ để đưa vào
hồ sơ khiếu nại đòi bảo hiểm bồi thường sau này.
- Giám định viên phải tiến hành thu phí giám định theo quy định và hướng dẫn
của ngành.
- Định kỳ, giám định viên phải có báo cáo thống kê tình hình tổn thất và giám
định. Cố gắng tìm ra những ngun nhân chính và thường xun xẩy ra để từ đó đề
xuất các biện pháp đề phịng và hạn chế tổn thất cho các lơ hàng sau nhằm giảm chi
phí bồi thường.
Đặc trưng rủi ro gây ra tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận

chuyển bằng đường biển là thường xẩy ra hết sức phức tạp, trên một pham vị rộng



×