LUẬN VĂN: LỐI VIẾT NỮ QUYỀN TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN HẢI YẾN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học sau 1986 đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của cái tôi cá
nhân. Xu hướng dân chủ hóa khơi nguồn cho sự xác lập ý thức cá nhân
được biểu hiện một cách đầy đủ và toàn diện. Một trong những biểu hiện
của ý thức nữ quyền trong văn học thể hiện ở việc bắt đầu chú ý đến các
khái niệm về giới và bình đẳng giới trên mọi bình diện. Theo đó là sự lên
ngôi của các cây bút nữ, đặc biệt là ở mảng văn xuôi sau 1986. Qua văn
chương, họ ḿn xác lập một cáchínhìn riêng, một giọng điệu riêng thể
hiện một lối viết mang đậm chất nữ quyền. Là một trong số những người
phụ nữ cầm bút và là những cây bút hiện đại, Nguyễn Hải Yến viết tinh tế
và khá sâu sắc về thôn quê và giới nữ. Dĩ nhiên, ý thức về giới nữ không
chỉ là vấn đề riêng trong sáng tác Nguyễn Hải Yến hay của văn học Việt
Nam mà đó là vấn đề chung của văn học thế giới hiện nay.
Trước khi văn học Việt Nam hình thành dòng văn học nữ thì thế giới đã
chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của phong trào nữ quyền – một phong
trào đấu tranh vì quyền bình đẳng cho phái nữ, có ảnh hưởng mạnh mẽ và
ăn sâu vào đời sống văn học, hình thành “chủ nghĩa nữ quyền trong văn
học”. Bên cạnh đó, lý thuyết nữ quyền, phê bình văn học nữ quyền ra đời
tạo nên một khuynh hướng nghiên cứu văn học hiện đại, song hành cùng
hoạt động sáng tác văn chương của nữ giới. Khuynh hướng nghiên cứu nữ
quyền đang dần trở thành một trào lưu phê bình văn học mới có sức hấp
dẫn với nhiều nhà phê bình.
Chúng tôi chọn và thực hiện nghiên cứu đề tài: “Lối viết nữ quyền trong
truyện ngắn của Nguyễn Hải Yến” nhằm khẳng định giá trị nhân văn
trong những trang văn của Nguyễn Hải Yến nói riêng và văn xuôi nữ nói
1
chung; làm rõ những đóng góp của Nguyễn Hải Yến trong thành tựu đa
dạng của văn học, qua đó khẳng định những điều mới mẻ có ý nghĩa thời
đại trong văn học đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu về nữ quyền trong văn xuôi các nhà văn nữ
Việt Nam sau 1986
Nhà văn Lý Lan, trong bài viết Phê bình văn học nữ quyền, đã khẳng định:
“Sự phát triển lực lượng nhà văn nữ ... và những thành tựu họ đạt được đã
khẳng định sự tồn tại và khởi sắc của một nền văn học nữ Việt Nam đương
đại đòi hỏi những lý thuyết văn học tương thích để phân tích phê bình và
đánh giá”.
Nguyễn Đăng Điệp với bài viết Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền
trong văn học Việt Nam đương đại đã chỉ ra: “Âm hưởng nữ quyền đã
ngấm sâu vào văn học, tạo thành một tiếng nói, một bản sắc độc đáo trong
văn học Việt Nam hiện đại và hậu hiện đại”.
Trong bài báo Về tinh thần nữ quyền trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt
Nam sau 1986, Nguyễn Mạnh Hà cho rằng: “Tinh thần nữ quyền (...) biểu
hiện nổi bật ở những điểm sau: đả phá trật tự nam quyền, tìm lại chính
mình, khẳng định những ưu việt”.
Châm Khanh chủ yếu lý giải sự xuất hiện mạnh mẽ, đông đảo của các tác
giả nữ từ sau năm 1975 và tìm những cơ sở để xác định lối viết văn đặc
trưng của phụ nữ trong tiểu luận Phụ nữ và văn chương.
Trong bài viết Tản mạn dục tính và nữ quyền , bằng cách khảo sát từ văn
học cổ, Nguyễn Vy Khanh cảnh báo nếu người viết nữ cứ mãi miết đấu
tranh đòi bình đẳng tuyệt đối, mải mê với văn chương dục tính thì “nữ
2
quyền đến một lúc nào đó sẽ rơi vào chán nản, tình dục cũng thành buồn
thiu”.
Nguyễn Thị Thanh Xuân với tham luận “Xét lại thế giới đàn ông bằng cái
nhìn đàn bà”, tham dự tọa đàm khoa học “Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn
học Việt Nam đương đại”, đã khái quát những nét cơ bản về âm hưởng nữ
quyền trong văn học từ năm 1986 trở đi.
Bùi Thị Thủy trong bài Dấu hiệu nữ quyền trong văn nữ Việt Nam đương
đại nhìn nhận “vấn đề nữ quyền trong văn chương không mới trên thế giới
nhưng khá mới đối với Việt Nam”.
2.2. Những bài báo, công trình nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Hải
Yến
Trong bài báo Nguyễn Hải Yến huyền ảo với ‘Hoa gạo đáy hồ’ của Nguyễn
Khắc Phê đăng ngày 08/08/2020 trên Báo Thanh Niên đã cho rằng Nguyễn
Hải Yến xứng đáng là “hiện tượng” văn chương của năm 2019 - 2020.
Trước khi đoạt ngôi “Trạng nguyên” cuộc thi trên, cuối năm 2019, chỉ với
tập truyện ngắn đầu tay Quán Thủy Thần, Nguyễn Hải Yến đã đoạt Giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam và được kết nạp ngay vào Hội. Đây là một
trường hợp hiếm có đối với người cầm bút trong nhiều thập kỷ qua.
Tiểu luận Ma trong truyện ngắn Nguyễn Hải Yến của Nguyễn Thị Việt Nga
đăng trên Văn học Sài Gòn ngày 07/04/2021 cho rằng: “Tôi cứ có cảm giác
khi Yến viết văn, cụ thể là viết về những nhân vật ma, là khi Yến vừa trải
qua một dấu mốc đáng nhớ của cuộc đời. Mà ở dấu mốc ấy, ắt hẳn Yến đã
phải đối mặt rất gần với cái chết, buộc phải suy ngẫm về cái chết rất nhiều.
Và những trang văn được viết ra từ sự suy ngẫm ấy. Những trang văn được
viết ra để Yến rút ruột ký thác tất cả tình yêu với cuộc đời này. Rất có thể,
đó chỉ là những võ đoán của tôi. Nhưng từ những trang văn của Yến, từ
3
những nhân vật ma của Yến, thông điệp gửi đến cuộc sống rất rõ ràng: hãy
yêu thương nhau khi còn có thể! Tình yêu luôn bất tử! Tình yêu dài lâu hơn
sự sống! Và tình yêu có thể kéo gần mọi khoảng cách, xóa bỏ hết mọi hận
thù, buồn khổ!”
Bài báo Cây bút truyện ngắn tài năng của Thế Anh đăng trên Báo Hải
Dương ngày 26/04/2020 đã phê bình rằng đọc Quán thủy thần của Nguyễn
Hải Yến, người đọc bắt gặp những hình ảnh rất đỗi thân thương của làng
quê như giếng nước, sân đình, ngôi miếu, con đường lát gạch nghiêng,
những ngôi nhà đã mủn tường, nhà tranh vách đất. Ngôn ngữ các truyện
đậm chất đời thường.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tác phẩm đầu tay Quán thuỷ
thần của Nguyễn Hải Yến.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở lý thuyết nữ quyền, luận văn khảo sát biểu hiện của ý thức nữ
quyền trong truyện ngắn của Nguyễn Hải Yến nhìn từ phương diện đề tài,
hệ thống nhân vật và những phương thức biểu hiện cơ bản như nghệ thuật
kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích – Tổng hợp: Tập hợp và phân tích những cơng
trình liên quan đến vấn đề lối viết nữ quyền và truyện ngắn
Nguyễn Hải Yến, nhằm tìm hiểu cặn kẽ vấn đề rồi tổng hợp,
rút ra kết luận vấn đề.
4
So sánh – đối chiếu: Trong quá trình tập hợp tài liệu, tôi đã
đối chiếu tác phẩm Quán thuỷ thần của Nguyễn Hải Yến với
những tác phẩm khác của cô. Nên với phương pháp so sánh
– đối chiếu, tôi sẽ xác định được văn bản tốt nhất để phục
vụ cho việc nghiên cứu. So sánh điểm chung trong phong
cách văn chương của tác giả và những đặc thù trong tác
phẩm mới. Đồng thời so sánh với một số văn phong kể
chuyện của nền văn học đương thời.
Tiếp cận thi pháp học tự sự: tức là phương pháp “trần thuật
học,” nghiên cứu cấu trúc của văn bản trần thuật và các
vấn đề hữu quan. Đây là phương pháp nghiên cứu cả hệ
thống sự kiện và tổ chức sự kiện, và mặt khác bao hàm cả
việc nghiên cứu các cấu trúc tự sự cụ thể hoặc lịch sử tự sự
của tác giả Nguyễn Hải Yến hay một giai đoạn văn học –
giai đoạn 2019 – 2020.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn chủ yếu gồm 3
chương:
Chương Một: Cơ sở lý luận về lối viết nữ quyền và tác phẩm nhà văn
Nguyễn Hải Yến
Chương Hai: Vấn đề lối viết nữ quyền nhìn từ bình diện tư tưởng chủ đề và
nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Hải Yến
Chương Ba: Một số phương diện của nghệ thuật biểu hiện trong truyện
ngắn Nguyễn Hải Yến
5
Chương Một: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỐI VIẾT NỮ QUYỀN VÀ TÁC
PHẨM NHÀ VĂN NGUYỄN HẢI YẾN
1.1. Lý thuyết Lối viết nữ quyền và sáng tác của Nhà văn Nguyễn Hải
Yến trong dịng văn xi nữ Việt Nam hiện đại
1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết nữ quyền
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu lối viết nữ quyền trên thế giới
Hélène Cixous sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Oran, Algeria và
lớn lên dưới chế độ thực dân Pháp. Nhờ di sản gia đình phong phú và cuộc
sống bán du mục bắt đầu từ những năm 1940, Cixous đã học tiếng
TâNguyễn Hải Yến Nha, Đức, Do Thái, Ả Rập, Pháp và Anh. Với một nền
tảng ngôn ngữ học sâu sắc như vậy, không có gì lạ khi ngôn ngữ là nền
tảng cho công việc của Siksos. Sự trưởng thành trong học tập của Six diễn
ra vào cuối những năm 1960-một giai đoạn của những thay đổi và thách
thức trong học viện. Giọng điệu trong các tác phẩm của cô lặp lại những
căng thẳng chính trị và học thuật vào thời điểm đó. Cuộc nổi dậy vào tháng
5 năm 1968 đã biến thành một cuộc đối đầu bạo lực giữa sinh viên và các
trường đại học, công nhân và chính phủ. Trong cuốn sách Hélène Cixous:
Những người phụ nữ viết lách (Hélène Cixous: Writing the Feminine),
Verena Conley đã ghi lại sự hỗn loạn trí tuệ song song với sự hỗn loạn
chính trị như thế nào. Lúc đó là: “Sự xuất hiện của khoa học nhân văn,
cũng như việc đọc triết học, phân tâm học, nhân học và ngôn ngữ học. Đây
là thời kỳ tin tưởng vào sức mạnh của cuộc cách mạng ngôn ngữ, và cũng
là thời kỳ hy vọng phá vỡ cấu trúc áp bức hàng nghìn năm. Phụ nữ muốn
phần của họ. […] Họ đọc các tác phẩm lý thút mới về diễn ngôn chính
thớng trong xã hội để xác định phụ nữ bị loại trừ như thế nào và ở đâu, và
làm thế nào để chất vấn và gột khỏi sự loại trừ này.” [1, tr. 3] Các cấu trúc
6
áp bức được Conley nhấn mạnh là những cấu trúc có quyền lực chính trị và
giáo dục độc quyền, do đó, chức năng của chúng là tái đàn áp những người
bị coi là bị gạt ra ngoài lề xã hội. Những cấu trúc này mang tính gia trưởng
và chứa đựng kiến thức và quyền lực theo cách trở về văn hóa với nam
giới. Sự truyền tải kiến thức/sức mạnh này là cái mà Hélène Cixous và
Catherine Clement gọi là sự làm chủ.
Nhà phê bình người Mỹ Elaine Shovalt đã ghi lại các yếu tố quyết
định văn hóa có thể có đối với lối viết nữ và tin rằng các nhà văn nữ Anh
có truyền thống văn học riêng của họ. Các học giả Mỹ đã giải thích lý do
tại sao các sáng tạo lối viết nữ khác nhau và thường gặp khó khăn từ các
khía cạnh giáo dục không đầy đủ, yêu cầu của các phương tiện truyền
thông do nam giới thống trị, điều kiện xã hội dày đặc và kinh nghiệm sống
khác nhau của phụ nữ. Tuy nhiên, với những hạn chế về trích dẫn, sự phát
triển của một giọng nữ trong lịch sử văn học đã trở nên rõ ràng. Một nền
văn học của riêng bạn: Nữ tiểu thuyết gia người Anh từ Bronte đến Lessing
của Elaine Showalt là một công trình nghiên cứu lịch sử và văn hóa quan
trọng. Với việc xuất bản cuốn Người phụ nữ điên rồ trên gác xép: Nhà văn
nữ và trí tưởng tượng của văn học thế kỷ XIX, do Sandra Gilbert và Susan
Gubal đồng tác giả, tâm lý động lực của sáng tạo lối viết nữ cũng trở thành
một vấn đề quan trọng trong giới học thuật Mỹ. Mặc dù đã có mười lăm
năm nghiên cứu về nữ quyền, các nhà phê bình Mỹ vẫn chưa thiết lập được
một hệ thống lý thuyết mạch lạc về sự khác biệt của phụ nữ.
Ở một bờ vực khác, một diễn ngôn nữ quyền phù hợp với lý thuyết xã
hội cấp tiến của văn học và phê bình hậu cấu trúc luận. Lý thuyết nữ quyền
của Pháp về sự đặc biệt của phụ nữ trong văn bản và ngôn ngữ, được gọi là
l'écriture féminine (lới viết nữ qùn), khám phá trí tưởng tượng của phụ
nữ và nhằm thay thế các cơ chế vô thức hạn chế quan niệm về bản thân của
7
phụ nữ. Một điểm khác biệt quan trọng của Freedom, như Elaine Marks đã
gợi ý, là nó nhấn mạnh sự đàn áp phụ nữ hơn là sự áp bức, và tích cực cam
kết thực hành một loại xoắn để giải phóng tiềm thức ở đây và bây giờ.
Nhà phê bình người Pháp Béatrice Didier cho rằng sự tác động của
bối cảnh lịch sử, xã hội đến quá trình sáng tác vô cùng lớn lao nên không
thể nhìn nhận một cách tổng quan toàn bộ tác phẩn của các tác giả nữ thuộc
những gian đoạn lịch sử, những bối cảnh xã hội khác nhau. Chính vì vậy,
Béatrice Didier không quan niệm văn học nữ như một nền văn học chiều
dài lịch sử riêng biệt. Tuy nhiên, nữ phê bình gia chuyên nghiên cứu về
Stendhal và George Sand này lại thừa nhận có sự tồn tại của cái gọi là “văn
viết nữ” (L’écriture-femme) và lấy khái niệm này làm tựa đề cho tập tiểu
luận của mình. Béatrice Didier đã phân tíchínhững đặc trưng riêng biệt
trong sáng tác của nữ giới trên các phương diện: thể loại (thường thiên về
tự truyện), hệ đề tài (thời thơ ấu, người mẹ), phương thức sáng tác (gắn liền
với thế giới cảm xúc phong phú) và cấu trúc tác phẩm (cấu trúc thời gian
gẫy khúc, đứt đoạn và đan xen theo chu kỳ)…
Đối với Luce Irigaray, niềm vui tình dục của phụ nữ không thể được
thể hiện bằng ngôn ngữ nam giới thống trị, có trật tự, “hợp lý”, bởi vì theo
Kristeva, lối viết nữ xuất phát từ sự hợp nhất giữa mẹ và con trong thời kỳ
tiền Oedipus, mà bà gọi là ký hiệu học. Ngôn ngữ phụ nữ liên quan đến
tình mẫu tử (Irigaray gọi là parler femme, người phụ nữ) không chỉ là mối
đe dọa đối với văn hóa gia trưởng, mà còn là phương tiện để phụ nữ có thể
sáng tạo theo những cách mới. Irigaray thể hiện mối liên hệ này giữa tính
dục của phụ nữ và ngôn ngữ của phụ nữ thông qua phép loại suy sau: niềm
vui của phụ nữ nhiều hơn niềm vui của một dương vật đơn lẻ của nam giới,
bởi vì: “Phụ nữ có cơ quan sinh dục ở hầu hết mọi nơi... ngôn ngữ của phụ
nữ phân tán hơn so với 'đối tác nam giới' của nó. Không nghi ngờ gì nữa,
8
đó là lý do... ngôn ngữ của cô ấy... theo mọi hướng... và anh ta không thể
phân biệt được sự mạch lạc.” [2] Irigaray và Cixous cũng nhấn mạnh rằng
phụ nữ trong lịch sử bị hạn chế là đối tượng tình dục của nam giới (trinh nữ
hoặc gái mại dâm, vợ hoặc mẹ), và do đó bị cấm thể hiện bản thân hoặc
cung cấp cho xu hướng tình dục của họ. Nếu họ có thể làm điều này, nếu
họ có thể nói về nó bằng ngôn ngữ mới mà nó yêu cầu, họ sẽ thiết lập một
quan điểm (một địa điểm khác) từ đó các khái niệm và sự kiểm soát tập
trung vào ma có thể được nhìn thấu và phân biệt không chỉ trên lý thuyết
mà còn trên thực tế.
Bracha L. Ettinger đã phát minh ra một lĩnh vực quan niệm và khái
niệm để giải quyết và nhận ra ảnh hưởng, và Ettinger tin rằng thông qua
giới tính của phụ nữ, trải nghiệm trước khi làm mẹ và tiềm năng của tình
mẫu tử, cảm giác và mối liên hệ xuyên chủ quan nảy sinh từ chủ đề và nhân
hóa cô ấy với anh ta. Ngôn ngữ của Eitinger bắt đầu phát triển chậm từ năm
1985, Viết thơ trong sách nghệ sĩ và viết học thuật cho đến bây giờ bao
gồm các khái niệm ban đầu của bà như: Ma trận không-thời gian, Ma trận
không gian, Biến hình, Đồng cảm, Cộng sinh, Cộng sinh, Đờng cảm, Trí
tuệ, Sự mê hoặc, Cỗ xe, Mang thai tâm lý, Gần gũi, Ranh giới, Khoảng
cách ranh giới, Gần gũi, Ma trận Phụ nữ/Sự kiện Gặp gỡ trước khi sinh và
Sự cám dỗ đạo đức. Nhiều nhà văn trong lĩnh vực lý luận điện ảnh, phân
tâm học, đạo đức học, mỹ học, nghiên cứu văn học, nghệ thuật đương đại
và Lịch sử nghệ thuật đã sử dụng phạm vi cơ tầng Etinger (Matricial
sphere) trong việc phân tích các tài liệu đương đại và lịch sử [3].
Có thể thấy, sự nghiên cứu về lối viết nữ quyền trên thế giới chủ yếu
nổi trội ở Pháp và Mỹ, ảnh hưởng nhiều từ chủ nghĩa nữ quyền và hậu cấu
trúc. Ảnh hưởng từ lối viết nữ của thế giới đã có tác động đến văn học hiện
đại Việt Nam trong thời kỳ mới.
9
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu lối viết nữ quyền ở Việt Nam
Trong một cuộc phỏng vấn, các nhà văn nữ của văn học hiện đại Việt
Nam cũng đã thể hiện những tuyến quan điểm khác nhau. Y Ban, Hoàng
Thị Bích Ti và Vũ Quỳnh Hương cho rằng không có khái niệm gọi là dòng
văn học nữ hay lối viết nữ và khi định danh như vậy thì cũng đồng nghĩa
với việc phân biệt giới tính trong văn học. Sự phân biệt này lại có khuynh
hướng tương đương với mọi phân biệt bất bình đẳng giới khác mà người
phụ nữ đã hứng chịu trong trạng thái bị khinh rẻ và chối bỏ xuyên suốt
hàng thế kỷ.
Ngược lại, Võ Thị Hảo, Lê Thị Huệ, Nguyễn Hải Yến, Trần Thị
Trường khẳng định có một lới viết riêng biệt của nữ giới, thậm chí rất đậm
nét ở cả mục đích viết, phương thức diễn đạt, nghệ thuật xây dựng tác
phẩm, quan niệm và cách cảm nhận về thế giới và con người… Nhà văn Lê
Thị Huệ khẳng định động lực sáng tác của mình như một sự kháng cự đối
với nền văn học nam giới áp đảo đã đặt ra những tiêu chuẩn mặc định để
phán quyết sản phẩm tinh thần của phụ nữ bằng những suy nghĩ bộc trực
của văn nói, chân thành và khá quyết liệt.
Ngô Thị Kim Cúc cho rằng: “mỗi nhà văn đều có cách viết, cách diễn
đạt mang dấu ấn riêng của mình, dù là nam hay nữ” và khi nhà văn nữ có ý
thức, có quan điểm riêng về giới thì “tự thân tác phẩm sẽ bộc lộ những gì
tác giả muốn gởi gắm. Điều này cộng với một số yếu tố như tâm lý, cái
nhìn khác biệt của phụ nữ có thể khiến dễ lộ những dấu hiệu riêng được
hiểu là ‘cách viết nữ’.” [4].
Nguyễn Thị Minh Ngọc đem trải nghiệm sáng của cá nhân để làm
điểm tựa cho cái nhìn không nhấn mạnh trọng tâm giới tính của mình: “Khi
viết, ít khi tôi phải tự nhắc mình rằng mình đang là một phụ nữ nên chẳng
phải dè chừng đến phái nam, và càng không cố tìm cho ra một “cách viết
10
nữ”. Theo tôi thì có những con người hay cách viết nhân hậu, độc ác, sắc
sảo, khờ khạo, lừa đảo, trung thực .... không phân biệt nữ, nam ...” [4].
Bên cạnh đó, sự tồn tại của “lối viết nữ” ấy không chỉ phụ thuộc vào ý
thức của người sáng tác về nó, mà quan trọng hơn, phụ thuộc vào nội tại
thế giới tác phẩm mà các nhà văn nữ đã làm nên. Tác phẩm, đó là nơi mà
phương thức nghệ thuật sáng tạo của nhà văn được thể hiện, bộc lộ, chứng
minh sự hiện diện của mình. Do đó, để tìm hiểu về vấn đề này, ngoài việc
dựa vào quan niệm sáng tác của nhà văn – như một kênh thông tin, thì điều
quan trọng là phải thực hiện một cuộc nội soi vào hệ thống tác phẩm để tìm
ra các đặc điểm thi pháp riêng của văn học nữ. Như Cao Hạnh Thuý trong
công trình nghiên cứu của mình cũng đã có nhận xét tương tự khi tìm kiếm
một cách thức tiếp cận phù hợp với lý thuyết phê bình giới: “Bên cạnh sự
phân biệt hay và dở, trong văn chương còn có sự phân biệt về thể loại sáng
tác, giai đoạn sáng tác, thể tài. Những cách phân biệt này chủ yếu dựa vào
nội dung của tác phẩm để đánh giá tác phẩm trên hai phương diện giá trị
nội dung và giá trị nghệ thuật. Nghĩa là theo như cách phân biệt này nếu
phản ánh cùng một chủ đề như tả cảnh thiên nhiên hay miêu tả diễn biến
tâm trạng thì giữa tác phẩm của một tác giả là nam giới và nữ giới sẽ không
hề có nét đặc trưng cá biệt về giới.” [5] Như vậy, nhìn từ phía văn học nữ,
những nền tảng chung mà văn học truyền thống, văn học nói chung tạo ra
là thể, bao hàm những yếu tố, những phương diện, những khái niệm, những
dạng thức tồn tại của văn học, nghĩa là các thành tố tạo nên sự hình thành
và hiện hữu của tác phẩm. Trên cái thể ấy, văn học nữ bộc lộ tính riêng
biệt, đặc thù của mình.
Nhìn chung, các nhà văn dù thể hiện quan niệm nào, thậm chí cả quan
niệm cho rằng không có khái niệm gọi là văn học nữ hay lối viết nữ thì họ,
11
đứng từ phía người sáng tác, cũng bộc lộ sự tri nhận nhất định về đặc trưng
riêng của người phụ nữ khi cầm bút.
1.1.2. Khái niệm về lý thuyết lối viết nữ quyền và nhà văn Nguyễn Hải
Yến
1.1.2.1. Khái niệm về lý thuyết nữ quyền và lối viết nữ quyền
* Lý thuyết nữ quyền:
Người đề cập đến cụm từ “chủ nghĩa nữ quyền” chính là Charles
Fourier, một triết gia người Pháp chuyên về chủ nghĩa xã hội không tưởng.
Lần đầu tiên thuật ngữ “nữ quyền” (feminism) hay “nhà hoạt động nữ
quyền” (feminist) xuất hiện ở Pháp và Hà Lan năm 1872, ở vương quốc
Anh trong những năm 1890 và ở Hoa Kì vào năm 1910.
Nữ quyền là một loạt các phong trào và hệ tư tưởng chính trị-xã hội
nhằm xác định và thiết lập sự bình đẳng giữa hai giới về chính trị, kinh tế,
cá nhân và xã hội. [6, tr. 223] Nữ quyền bao gồm lập trường rằng xã hội ưu
tiên quan điểm của nam giới và phụ nữ bị đối xử bất công trong các xã hội
này. [7] Nỗ lực thay đổi bao gồm đấu tranh chống định kiến giới, tạo cơ hội
và kết quả giáo dục, nghề nghiệp và giao tiếp giữa các cá nhân cho phụ nữ
bình đẳng với nam giới.
Phong trào nữ quyền đã và sẽ tiếp tục đấu tranh cho các quyền của
phụ nữ, bao gồm quyền bầu cử, quyền giữ chức vụ công, quyền làm việc,
quyền được trả công bình đẳng cho công việc bình đẳng, quyền sở hữu tài
sản, quyền được giáo dục, quyền ký kết hợp đồng, quyền bình đẳng trong
hôn nhân và quyền nghỉ thai sản. Các nhà nữ quyền cũng cố gắng đảm bảo
khả năng tiếp cận các biện pháp tránh thai, phá thai hợp pháp và hòa nhập
xã hội, đồng thời bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái khỏi bị hãm hiếp, quấy rối
tình dục và bạo lực gia đình. Thay đổi tiêu chuẩn ăn mặc của phụ nữ và các
12
hoạt động thể thao được phụ nữ chấp nhận thường là một phần của phong
trào nữ quyền.
Một số học giả coi phong trào nữ quyền là lực lượng chính thúc đẩy
những thay đổi lớn về lịch sử và xã hội đối với quyền của phụ nữ, đặc biệt
là ở phương Tây, nơi họ đã nhận được sự tán dương gần như phổ biến
trong việc thực hiện quyền bầu cử của phụ nữ, ngôn ngữ không phân biệt
giới tính, quyền sinh sản của phụ nữ (bao gồm quyền tiếp cận các biện
pháp tránh thai và phá thai), và quyền ký kết hợp đồng và sở hữu tài sản.
Mặc dù việc ủng hộ nữ quyền hiện nay và trong quá khứ chủ yếu tập trung
vào quyền của phụ nữ, một số nhà nữ quyền ủng hộ việc đưa sự giải phóng
nam giới vào mục tiêu của họ vì họ tin rằng nam giới cũng bị tổn thương
bởi vai trò giới truyền thống. Học thuyết nữ quyền xuất phát từ phong trào
nữ quyền nhằm tìm hiểu bản chất của bất bình đẳng giới thông qua việc
xem xét vai trò xã hội và kinh nghiệm sống của phụ nữ; Các nhà lý thuyết
nữ quyền đã phát triển các lý thuyết trong nhiều lĩnh vực khác nhau để trả
lời các câu hỏi về giới.
Trong những năm qua, nhiều phong trào và hệ tư tưởng nữ quyền đã
phát triển, đại diện cho các quan điểm và mục tiêu khác nhau. Theo truyền
thống, Từ thế kỷ 19, làn sóng nữ quyền tự do đầu tiên tìm kiếm sự bình
đẳng về chính trị và luật pháp thông qua các cải cách trong khuôn khổ dân
chủ tự do, trái ngược với phong trào phụ nữ vô sản dựa trên lao động, phát
triển theo thời gian thành chủ nghĩa xã hội và nữ quyền mácxít dựa trên lý
thuyết đấu tranh giai cấp. Từ những năm 1960, hai truyền thống này cũng
đối lập với chủ nghĩa nữ quyền cấp tiến, xuất phát từ làn sóng thứ hai của
các phe phái cấp tiến của nữ quyền, đòi hỏi phải hoàn toàn sắp xếp lại trật
tự xã hội để loại bỏ quyền tối cao của nam giới; Tự do, chủ nghĩa xã hội và
13
nữ quyền cấp tiến đôi khi được gọi là “ba trường phái” của tư tưởng nữ
quyền.
Từ cuối thế kỷ 20, nhiều hình thức nữ quyền mới hơn đã xuất hiện.
Một sớ hình thức nữ qùn đã bị chỉ trích vì chỉ xem xét quan điểm của
người da trắng, tầng lớp trung lưu, những người có trình độ đại học, người
dị tính hoặc bình đẳng giới. Những lời chỉ trích này đã dẫn đến sự xuất hiện
của nữ quyền theo chủng tộc cụ thể hoặc các hình thức đa văn hóa, chẳng
hạn như nữ quyền da đen và nữ quyền chéo.
Lý thuyết nữ quyền là sự mở rộng của nữ quyền trong lý thuyết, tiểu
thuyết hoặc diễn ngôn triết học. Nó nhằm mục đích tìm hiểu bản chất của
bất bình đẳng giới. Nó nghiên cứu vai trò xã hội, kinh nghiệm, sở thích, nội
trợ và chính trị nữ quyền của phụ nữ và nam giới trong nhiều lĩnh vực như
nhân chủng học và xã hội học, truyền thông, nghiên cứu truyền thông, phân
tâm học, lý thuyết chính trị, kinh tế gia đình, văn học, giáo dục và triết học.
Các lý thuyết nữ quyền có xu hướng tập trung vào phân tích bất bình
đẳng giới. Các chủ đề thường được thảo luận bởi các lý thuyết nữ quyền
bao gồm phân biệt đối xử, khách quan hóa (đặc biệt là khách quan hóa tình
dục), áp bức, gia trưởng, khuôn mẫu, lịch sử nghệ thuật và nghệ thuật
đương đại, và mỹ học.
Các lý thuyết nữ quyền lần đầu tiên xuất hiện trong các ấn phẩm năm
1794, chẳng hạn như Bảo vệ quyền phụ nữ của Mary Worlstonecraft,
Người phụ nữ đang thay đổi, [8] Tôi không phải là phụ nữ, [9] Bài phát
biểu sau khi bị bắt vì bỏ phiếu bất hợp pháp, [10], v.v. Người phụ nữ đang
thay đổi là một câu chuyện thần thoại Navajo ghi nhận một người phụ nữ
cuối cùng đã trở thành dân số thế giới. Năm 1851, Sozona Truth đã thảo
luận về vấn đề quyền của phụ nữ thông qua ấn phẩm Tôi không phải là phụ
nữ. The Truth of the Voyager khám phá các vấn đề về quyền hạn chế của
14
phụ nữ do nhận thức thiếu sót của nam giới về phụ nữ. Sự thật tin rằng nếu
một phụ nữ da màu có thể thực hiện một nhiệm vụ được cho là chỉ giới hạn
ở nam giới, thì bất kỳ phụ nữ da màu nào cũng có thể thực hiện nhiệm vụ
tương tự. Sau khi bị bắt vì bỏ phiếu bất hợp pháp, Susan B. Anthony đã có
bài phát biểu trước tòa, trong đó bà nói về ngôn ngữ hiến pháp mà bà đã
ghi lại trong ấn phẩm năm 1872 là Bài phát biểu sau khi bị bắt vì bỏ phiếu
bất hợp pháp. Anthony đặt câu hỏi về nguyên tắc thẩm quyền của hiến
pháp và ngôn ngữ nam tính của nó. Câu hỏi mà cô đặt ra là tại sao phụ nữ
phải chịu tráchínhiệm bị pháp luật trừng phạt, nhưng họ không thể sử dụng
pháp luật để tự bảo vệ mình (phụ nữ không thể bầu cử, sở hữu tài sản và
không thể duy trì quyền nuôi con trong hôn nhân). Bà cũng chỉ trích ngôn
ngữ của nam giới trong Hiến pháp và đặt câu hỏi tại sao phụ nữ phải tuân
thủ các đạo luật không quy định cụ thể về phụ nữ.
Nancy Cote đã phân chia nữ quyền hiện đại và những người tiền
nhiệm của nó, đặc biệt là cuộc đấu tranh cho quyền bầu cử. Tại Hoa Kỳ, bà
đặt ra bước ngoặt trong những thập kỷ trước và sau khi phụ nữ giành được
quyền bầu cử vào năm 1920 (1910-1930). Cô tin rằng phong trào phụ nữ
trước đây chủ yếu nói về phụ nữ với tư cách là một thực thể phổ quát,
nhưng trong 20 năm này, nó đã chuyển thành một phong trào chủ yếu tập
trung vào sự phân hóa xã hội, tính cá nhân và sự đa dạng. Các vấn đề mới
liên quan nhiều hơn đến địa vị của phụ nữ như một cấu trúc xã hội, bản
dạng giới và các mối quan hệ trong và giữa các giới. Về mặt chính trị, điều
này thể hiện một sự thay đổi từ một liên minh tư tưởng với cánh hữu sang
một liên minh cấp tiến hơn với cánh tả. [11]
Có rất nhiều chủ đề độc đáo về nữ quyền, trong đó các chuyên gia
trong các lĩnh vực khác áp dụng các kỹ thuật và nguyên tắc nữ quyền vào
lĩnh vực của họ. Ngoài ra, đây cũng là những tranh cãi định hình các lý
15
thuyết nữ quyền, và chúng có thể được sử dụng thay thế cho nhau trong các
cuộc tranh luận của các nhà lý thuyết nữ quyền.
Trong tư tưởng phương Tây, cơ thể chỉ liên kết với phụ nữ trong lịch
sử, trong khi đàn ông liên kết với tâm trí. Trong các tác phẩm của mình,
nhà triết học nữ quyền hiện đại Susan Bordo, bằng cách xem xét các triết
học ban đầu của Aristotle, Hegel và Descartes, đã giải thích tính hai mặt
của mới liên hệ giữa tâm trí và cơ thể, tiết lộ làm thế nào tính hai mặt được
phân biệt như tinh thần/vật chất và hoạt động của nam giới/thụ động của nữ
giới có thể củng cố các đặc điểm và phân loại giới tính. Bordo tiếp tục chỉ
ra rằng trong khi nam giới trong lịch sử đã gắn liền với trí thông minh và
tâm trí hoặc tinh thần, phụ nữ từ lâu đã gắn liền với cơ thể, một thuật ngữ
phụ thuộc và tiêu cực trong sự phân đôi của tâm trí/cơ thể. [29] Khái niệm
cơ thể (chứ không phải tâm trí) gắn liền với phụ nữ trở thành lý do để coi
phụ nữ là tài sản, hàng hóa và hàng hóa có thể trao đổi (ở nam giới). Ví dụ,
cơ thể của phụ nữ đã được vật chất hóa trong lịch sử thông qua những thay
đổi về tư tưởng như thời trang, chế độ ăn uống, kế hoạch tập thể dục, phẫu
thuật thẩm mỹ, khả năng sinh sản, trái ngược hoàn toàn với vai trò của nam
giới như một tác nhân đạo đức, chịu tráchínhiệm về công việc hoặc chiến
đấu trong các cuộc chiến đẫm máu. Chủng tộc và giai cấp của phụ nữ có
thể xác định liệu cơ thể của cô ấy có được sử dụng như một vật trang trí và
bảo vệ hay không, điều này liên quan đến cơ thể của phụ nữ thuộc tầng lớp
trung lưu và thượng lưu. Mặt khác, một cơ thể khác được thừa nhận do sử
dụng nó trong lao động và bóc lột, thường gắn liền với cơ thể của tầng lớp
lao động hoặc phụ nữ da màu. Làn sóng thứ hai của phong trào nữ quyền
ủng hộ quyền sinh sản và sự lựa chọn. Phong trào sức khỏe phụ nữ và nữ
qùn đờng tính nữ cũng liên quan đến cuộc tranh luận thể chế này.
16
Các mô hình thiên lệch xã hội về giới tính và tính dục của trẻ em đã
mở rộng tầm nhìn về tư tưởng giới tính và tính dục. Nó sửa đổi hệ tư tưởng
về tình dục và biến nó thành một cấu trúc xã hội không giới hạn ở nam giới
hay phụ nữ. Hiệp hội Bắc Mỹ giải thích: “Thiên nhiên sẽ không quyết định
nơi danh mục 'nam' kết thúc và danh mục 'người âm dương' bắt đầu, cũng
như không quyết định nơi danh mục 'người âm dương' kết thúc và danh
mục 'nữ' bắt đầu ở đâu. Con người quyết định. Con người (ngày nay,
thường là các bác sĩ) quyết định dương vật phải nhỏ như thế nào, hoặc sự
kết hợp của các bộ phận phải bất thường như thế nào, trước khi nó được
tính là dương vật”. [12] Do đó, giới tính không phải là một cấu trúc sinh
học/tự nhiên, mà là một cấu trúc xã hội, bởi vì xã hội và các bác sĩ, ngoài
việc đánh giá cá nhân về ai hoặc làm thế nào để trở thành một giới tính cụ
thể, còn xác định nam, nữ hoặc dương vật có ý nghĩa như thế nào dựa trên
nhiễm sắc thể giới tính và bộ phận sinh dục. Tư tưởng giới vẫn là một cấu
trúc xã hội, nhưng không quá chặt chẽ và cớ định. Ngược lại, giới tính dễ
dàng kéo dài và luôn thay đổi. Tác phẩm Female Circulation của Sally
Shutworth mô tả “một ví dụ về định nghĩa tiêu ch̉n về giới tính thay đởi
theo thời gian. Việc giảm cô ấy từ một người tham gia tích cực vào thị
trường lao động thành một sự hiện diện thụ động về thể chất, được kiểm
soát bởi chuyên môn nam giới, cho thấy cách triển khai tư tưởng của vai trò
giới đã thúc đẩy và duy trì những thay đổi trong cấu trúc của các mối quan
hệ gia đình và thị trường ở Anh trong thời đại Victoria”. [13] Nói cách
khác, câu này cho thấy ý nghĩa của việc lớn lên trở thành một nhân vật nữ
(giới tính/vai trò), từ một bà nội trợ trở thành một người phụ nữ đi làm, rồi
trở nên thụ động và thua kém nam giới. Tóm lại, mô hình giới đương đại là
chính xác, bởi vì cả giới tính và tính dục đều được coi là một cấu trúc xã
hội bao gồm một loạt các giới tính và tính dục, trong đó tự nhiên và có
được có mối liên hệ với nhau.
17
Ở Việt Nam, khái niệm quyền phụ nữ (womens right) và chủ nghĩa nữ
quyền (feminism) hầu như không có sự phân biệt rõ ràng. Trong phong trào
Đông kinh nghĩa thục (1907) lần đầu tiên chúng ta thấy trên mảnh đất hình
chữ S xuất hiện một phong trào khai trí nhân dân, khún khích và cở vũ
phụ nữ tham gia vào các lĩnh lực như văn hóa, chính trị và xã hội. Với một
số những tên tuổi tiêu biểu có thể kể đến như: Phạm Quỳnh với Sự giáo
dục đàn bà con gái đăng trên tạp chí Nam Phong (1917), hay sách giáo
khoa Nữ quốc dân tu tri (1926) của Phan Bội Châu cũng thể hiện những
quan điểm về quyền phụ nữ.
Trên tạp chí Nam Phong, tháng 4 năm 1917, Phạm Quỳnh có bài viết
“Sự giáo dục đàn bà con gái” đã nhắc đến mối quan hệ mật thiết giữa vấn
đề giáo dục và quyền lợi của phụ nữ. Ông cũng bày tỏ những e ngại về vấn
đề giáo dục bởi có quá nhiều tư tưởng hà khắc của Nho giáo cũng như tư
tưởng nam quyền vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của nữ giới.
Bên cạnh đó, cũng trên Nam Phong số 49/1921, bà Đạm Phương cho rằng
người phụ nữ không được học là nguồn gốc của mọi khổ đau mà phụ nữ
phải hứng chịu: “Bởi vì cớ làm sao mà người đàn bà lại không được trực
tiếp với xã hội? Là vì sự học vấn còn chưa được phổ thông và thời kì chưa
được hiệu dụng cho nên nữ ngôn không được kiến trọng với đời”.
Có thể thấy rằng, khái niệm nữ quyền ở Việt Nam, đối với vấn đề giải
phóng phụ nữ, theo tác giả vẫn là sự đấu tranh về vấn đề bình đẳng giáo
dục đối với phụ nữ bởi nó có liên quan mật thiết đến những yếu tố khác
trong xã hội. Đó chính là tu tưởng nữ học quan trọng, mở ra tiền đề mới để
người phụ nữ tham gia vào các công việc khác trong xã hội, không còn
quẩn quanh trong gia đình với công việc bếp núc đơn điệu, tẻ nhạt thường
ngày nữa. Cũng chính từ đó, người phụ nữ có tiếng nói trong xã hội thì các
18
quyền lợi khác về chính trị, hôn nhân, lao động sẽ được đảm bảo và vững
chắc hơn.
* Lối viết nữ:
Lối viết nữ (écriture fesminine) là lý thuyết ra đời, xuất hiện vào
những năm 70 ở Pháp. Là một phần quan trọng của tư tưởng nữ quyền
(feminism). Lối viết nữ đặt vấn đề vị trí của người phụ nữ trong xã hội và
đồng thời giới hạn, xác định một cách thể hiện văn học (cách mô tả) mới,
cách sử dụng ngôn ngữ kiểu mới.
Lý thuyết Lối viết nữ gắn liền với tên tuổi các nhà nữ quyền luận như
Hélene Cixous, Luce Irigaray và Julie Kristeva. Lý thuyết về hình thức đặc
thù của lối viết được xây dựng trên cơ sở tư tưởng phê phán văn hóa văn
hóa bái dương, tôn thờ dương vật (falocentricky) cùng chế độ phụ hệ- một
chế độ vận hành trên nền tảng của sự đối lập hai phái (nam/nữ) và lối nhìn
nhìn phụ nữ như nhìn một người đàn ông khuyết tật, bị thiến, hoạn. Quan
niệm này, lối nhìn này xuất hiện không chỉ trong tôn giáo, triết học, trong
các quan hệ xã hội mà cả ở trong ngôn ngữ nữa. Vậy để xóa bỏ sự phân
chia hai giới theo kiểu phụ hệ này cần phải biến chủ nghĩa bái dương vật
(falocentrismus) thành giải tập trung hóa, đánh giá lại người phụ nữ, thay
đổi lại cách sử dụng ngôn ngữ. Lý thuyết lối viết nữ đồng thời cũng cho
rằng: không thể có tiến bộ xã hội nếu không có sự thay đổi ngôn ngữ và
biểu hiện văn học.
Khái niệm lối viết nữ là một cách để khám phá cách chúng ta nghiên
cứu và viết theo những cách khác nhau, và chống lại sự tái xuất hiện của
chủ nghĩa nam quyền trong các trường đại học Úc đương đại. Lối viết nữ là
một bài tập thể chất giải phóng được thiết kế để giải phóng sự sáng tạo bị
kìm nén của phụ nữ và thay đổi cấu trúc lấy dương vật làm trung tâm.
Cixous đã phát triển khái niệm lối viết nữ của mình về mặt khái niệm và
19