Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.3 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

NGUYỄN PHƯƠNG LIÊN

SỰ CĨ MẶT CỦA ĐƯƠNG SỰ TẠI
PHIÊN TÒA SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 05/2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

NGUYỄN PHƯƠNG LIÊN

SỰ CĨ MẶT CỦA ĐƯƠNG SỰ TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM THEO PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TH.S HUỲNH QUANG THUẬN

TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 05/2019


LỜI CAM ĐOAN


Tơi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Huỳnh Quang Thuận, đảm
bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham
khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.

Sinh viên thực hiện

Nguyễn Phương Liên


i

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Từ được viết tắt

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

HĐXX

Hội đồng xét xử


PLTTDS

Pháp luật tố tụng dân sự

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


ii

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SỰ CĨ MẶT CỦA ĐƢƠNG SỰ TẠI
PHIÊN TỊA SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM ....................................................................................................................... 9
1.1 Một số khái niệm cơ bản về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm .... 9
1.1.1 Phiên tòa sơ thẩm ................................................................................... 9
1.1.2 Đương sự tham gia phiên tịa sơ thẩm................................................... 12
1.1.3 Sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm ...................................... 14
1.2 Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về sự có mặt của đương sự
tại phiên tịa sơ thẩm ......................................................................................... 18
1.2.1 Sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm khi Tòa án triệu tập hợp lệ
lần thứ nhất ................................................................................................... 18
1.2.2 Sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm khi Tòa án triệu tập hợp lệ
lần thứ hai ..................................................................................................... 23

1.3 Quy định của pháp luật tố tụng dân sự một số nước trên thế giới về sự có mặt
của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm.................................................................... 28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .................................................................................... 31
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ SỰ CÓ MẶT CỦA ĐƢƠNG SỰ TẠI
PHIÊN TÒA SƠ THẨM ..................................................................................... 32
2.1 Về vấn đề xác định lần triệu tập hợp lệ đối với đương sự ............................. 32
2.2 Về việc xác định sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan ...................... 39
2.3 Cách thức xử lý không thống nhất khi đương sự vắng mặt có lý do chính
đáng trong lần triệu tập hợp lệ thứ hai ............................................................... 43
2.4 Về thủ tục xét xử vắng mặt tất cả các đương sự ........................................... 43
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .................................................................................... 47
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 48


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ dân sự diễn ra trong đời sống thông qua việc cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong xã hội thiết lập các quyền và nghĩa vụ dân sự phục vụ cho nhu cầu của
mình, phù hợp với những lợi ích chung của cộng đồng dựa trên cơ sở bình đẳng, tự
định đoạt. Khi xảy ra mâu thuẫn, chủ thể của các quan hệ dân sự hồn tồn có
quyền tự do lựa chọn cách thức giải quyết tranh chấp. Trong số đó có phương thức
giải quyết tranh chấp bằng con đường tố tụng dân sự tại Tòa án. Lúc này, các bên
trong quan hệ dân sự trở thành đương sự của vụ án, cịn việc giải quyết mâu thuẫn
về mặt lợi ích giữa họ là nguyên nhân khởi phát cũng như mục đích cuối cùng của
q trình tố tụng. Chính vì vậy đương sự được xem là trung tâm trong các quan hệ
tranh chấp về tố tụng dân sự, là chủ thể không thể thiếu trong suốt q trình Tịa án

giải quyết vụ án.
Mặt khác, phiên tịa sơ thẩm là giai đoạn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
giải quyết vụ án. Tại đây, tồn bộ nội dung vụ án được cơng khai xem xét và quyết
định, mâu thuẫn của các bên được đưa ra xét xử trước sự chứng kiến của tất cả các
đương sự. Khi phiên tòa diễn ra, Hội đồng xét xử sẽ làm rõ những nội dung có trong
hồ sơ vụ án, lắng nghe ý kiến tranh tụng của các bên đương sự và người có liên
quan từ đó đưa ra phán quyết cuối cùng. Xuất phát từ nguyên nhân phiên tòa sơ
thẩm là bước cuối cùng của quá trình tố tụng nhằm tìm ra cách giải quyết tranh chấp
của đương sự, vì thế, đương sự có quyền có mặt tại phiên tịa sơ thẩm. Đương sự có
mặt tại phiên tòa xét xử để chứng minh và cung cấp các lập luận bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình. Ngồi ra, đương sự cũng có thể trực tiếp lắng nghe quan
điểm của phía đối lập và tham gia tranh tụng để làm rõ sự thật của vụ án. Dựa trên
cơ sở kết quả tranh tụng của các đương sự tại phiên tịa, Hội đồng xét xử có căn cứ
đưa ra kết luận khách quan và chính xác nhất. Như vậy, sự có mặt của đương sự sẽ
góp phần giúp cho vụ án được giải quyết nhanh chóng, đúng đắn, đảm bảo xét xử
công khai, trực tiếp, bằng lời nói.
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã có quy đinh tương đối đầy đủ, chi tiết về sự có
mặt của đương sự tại phiên tịa sơ thẩm tại Điều 227, các trường hợp Tòa án vẫn xét
xử tại Điều 228 và thủ tục xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng tại


2

Điều 238. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế có thể kể đến
như:
Thứ nhất, vấn đề xác định lần triệu tập hợp lệ của đương sự chưa được thống
nhất. Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ
nhất, đương sự phải có mặt tại phiên tịa. Nếu có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì
Tịa án xét xử vắng mặt đương sự, nếu khơng, phải hỗn phiên tịa sơ thẩm. Đương
sự vắng mặt khi Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai thì tùy từng trường hợp mà hỗn

phiên tịa, xét xử vắng mặt đương sự hay đình chỉ giải quyết yêu cầu của đương sự.
Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng dân sự không nêu lên cách hiểu “lần triệu tập hợp lệ” do
đó cịn tồn tại các quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Lần triệu tập
hợp lệ đối với đương sự là lần triệu tập của Tòa án. Quan điểm thứ hai cho rằng:
Lần triệu tập hợp lệ đối với đương sự phải tương ứng với từng đương sự.
Thứ hai, việc xác định sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan là lý do
cho sự vắng mặt của đương sự cịn gặp nhiều khó khăn. Sự kiện bất khả kháng, trở
ngại khách quan là những sự việc xảy ra không mong muốn, hoặc những cản trở
thực tế làm ảnh hưởng đến kế hoạch, dự định của đương sự. Khi đương sự vắng mặt
tại phiên toà sơ thẩm vì lý do chính đáng, Tịa án cần phải tạo điều kiện để họ tham
gia vào phiên xét xử lần sau. Mặc dù đã được định nghĩa tại Điều 156 Bộ luật Dân
sự 2015, nhưng để hiểu rõ nội hàm của khái niệm sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan là rất khó, do điều luật được xây dựng theo phương pháp khái qt hóa.
Chính vì vậy, việc xác định lý do vắng mặt của đương sự là chính đáng vẫn cịn
nhiều khó khăn trên thực tế.
Thứ ba, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 không bắt buộc Tịa án phải hỗn phiên
tịa sơ thẩm khi đương sự vắng mặt có lý do chính đáng trong lần triệu tập hợp lệ
thứ hai. Quy định này trao quyền cho Tịa án được xem xét đến từng tình huống cụ
thể để quyết định việc hoãn phiên xét xử. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các Tòa án
đa phần đều hỗn phiên xét xử. Thế nhưng, trong trường hợp Tịa án khơng hỗn
phiên tịa mà vẫn xét xử thì sẽ áp dụng cách thức xử lý nào đối với đương sự vắng
mặt thì Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 khơng đề cập.
Thứ tư, có sự khơng tương thích giữa Điều 238 và Điều 227 Bộ luật Tố tụng
dân sự 2015. Điều 238 là điểm mới tiến bộ trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Điều
khoản này đã khẳng định Tịa án hồn tồn có thể tiến hành xét xử dù vắng mặt tất


3

cả các đương sự. Theo Điều 238, Tịa án có thể xét xử vắng mặt bị đơn, người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai “mà vẫn vắng
mặt”. Trong khi đó, Điều 227 lại cho phép Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi họ vắng mặt trong lần triệu tập hợp lệ thứ hai,
không cần xét lần triệu tập hợp lệ thứ nhất đương sự này có vắng mặt hay khơng.
Vậy nên, quy định tại Điều 238 có phần chưa thật sự tương thích với Điều 227.
Từ những vấn đề đó, việc chọn đề tài “Sự có mặt của đương sự tại phiên
tịa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp góp
phần xây dựng một cơng trình nghiên cứu tồn diện và hệ thống về vấn đề này. Kết
quả từ quá trình thực hiện đề tài sẽ cung cấp các kiến thức cơ bản về những nội
dung liên quan đến sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam. Từ đó, tạo cơ sở khoa học cho các nhà làm luật, đồng thời
hướng đến việc nghiên cứu xây dựng biện pháp thống nhất trong thực tiễn xét xử tại
Tịa án.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát, có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu khoa học có liên
quan đến đề tài này và có giá trị tham khảo như sau:
*Giáo trình
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Tố
tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội. Giáo
trình tiếp cận với vấn đề sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam dưới góc độ chia thành từng cách thức xử lý khác
nhau. Theo đó, khi giới thiệu về các trường hợp dẫn đến các cách thức xử lý như
đình chỉ xét xử, hỗn phiên tịa và xét xử vắng mặt đương sự, giáo trình cũng đồng
thời đề cập trong đó các trường hợp vắng mặt của đương sự. Bằng phương pháp liệt
kê, tất cả các tình huống (trong đó có cả những trường hợp đương sự vắng mặt)
được tổng hợp một cách khái qt. Chính vì vậy giáo trình chưa thể làm rõ quy định
của pháp luật cũng như thực tiễn xét xử. Giáo trình có giá trị tham khảo về lý luận.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt
Nam, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội. Giáo trình đã nêu lên những vấn đề cơ bản
về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên giáo trình khơng đề cập

cụ thể về từng trường hợp vắng mặt của đương sự mà mang tính khái quát. Tuy đã


4

cập nhật những điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 nhưng giáo trình khơng
phân tích cũng như lý giải những quy định mới đó.
*Các sách chuyên khảo
- Nguyễn Thị Hồi Phương (2016), Bình luận Những điểm mới trong Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. Cơng trình
nghiên cứu về những điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành. Riêng về vấn
đề vắng mặt của đương sự tại phiên tịa xét xử, cơng trình đã nêu lên sự tiến bộ của
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 khi quy định thủ tục áp dụng cho trường hợp xét xử
vắng mặt tất cả đương sự thành một điều khoản riêng. Tuy nhiên, cơng trình chưa đề
cập sâu và đầy đủ về sự tham gia của đương sự tại phiên tòa xét xử sơ thẩm.
- Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (2012), Bình luận
khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, NXB Lao động – Xã hội. Cơng trình này
ra đời vào giai đoạn Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 đã được sửa đổi, bổ sung. Do đó,
cơng trình đã có những phân tích hữu ích một số hạn chế đã được Luật sửa đổi bổ
sung năm 2011 khắc phục về sự có mặt của đương sự tại phiên tịa xét xử. Đến nay,
những điểm mới này tiếp tục được duy trì trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Tuy
nhiên, công trình này vẫn khơng thể áp dụng hồn tồn để nghiên cứu một cách
tổng thể các quy định tương ứng trong Bộ luật hiện hành.
- Tống Công Cường (2007), Luật Tố tụng dân sự Việt Nam nghiên cứu so
sánh, NXB Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Cơng trình này nghiên cứu
về Luật Tố tụng dân sự Việt Nam có so sánh với mơ hình tố tụng của các quốc gia khác
trên thế giới. Cơng trình cũng đã đề cập đến các hệ quả xảy ra khi đương sự vắng mặt
tại phiên tịa sơ thẩm như: hỗn phiên tòa, xét xử vắng mặt đương sự. Tuy nhiên, do
phạm vi nghiên cứu tập trung vào lí giải mơ hình tố tụng của Việt Nam và các nước, do
đó chưa có những phân tích chun sâu quy định về sự có mặt của đương sự tại phiên

tịa sơ thẩm.
- Trần Anh Tuấn (chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân
sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2015, NXB Tư pháp. Cơng trình
nghiên cứu về những điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 so với Bộ luật Tố
tụng dân sự 2004 sửa đổi năm 2011. Tuy nhiên cơng trình chỉ bước đầu giới thiệu
và đánh giá chung về những sự thay đổi trong Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành,
chưa đi sâu nghiên cứu toàn diện cũng như liên hệ thực tiễn xét xử.


5

*Các bài viết khoa học trên tạp chí chuyên ngành
Nguyễn Triều Dương (2010), “Hậu quả pháp lý của việc đương sự vắng mặt
tại phiên tịa”, Tạp chí Nghề luật, (01), tr. 9-14. Bài viết này cũng đã nêu lên được
những hạn chế và kiến nghị hoàn thiện chế định sự có mặt của đương sự tại phiên tịa
xét xử sơ thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Tuy nhiên cơng trình phân
tích dưới các quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự trước đây, do đó các hạn chế
này đã được sửa đổi. Bài viết có giá trị tham khảo để nghiên cứu tính hợp lý của các
quy định trong Bộ luật hiện hành.
Sự tham gia của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam không phải là một đề tài mới mà đã được các tác giả đề cập trong một số
bài báo, cơng trình khoa học trước đây. Vấn đề này có thể được tìm thấy trong các
sản phẩm khoa học phân tích khái qt, tồn diện những nội dung liên quan đến
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Trong đó, các tác giả đơi khi sẽ giới thiệu về
sự có mặt của đương sự tại phiên tòa được quy định như thế nào trong Bộ luật Tố
tụng dân sự. Vì vậy, các cơng trình có liên quan thường có phạm vi nghiên cứu rộng
và bao quát hơn nhiều so với vấn đề này. Do đó, điểm chung của các cơng trình này
là chỉ nhắc đến sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm một cách rất cơ bản,
khái quát nhất, chưa phân tích chun sâu cũng như chưa có điều kiện khai thác
thực tiễn xét xử để đưa ra các kiến nghị hồn thiện các quy định pháp luật.

Tóm lại, số lượng các cơng trình nghiên cứu tổng thể có hệ thống về vấn đề
riêng biệt sự có mặt của đương sự/ cách thức xử lý khi đương sự vắng mặt tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án dân sự là rất hạn chế và đến nay vẫn chưa có một đề tài nghiên
cứu độc lập, toàn diện. Trước thực trạng tình hình nghiên cứu trên, tác giả nhận thấy
việc có một cơng trình nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn về vấn đề trên là rất cần
thiết. Trên cơ sở đó tác giả hướng đến nghiên cứu đề tài một cách tổng thể, riêng
biệt, có chiều sâu về sự có mặt của đương sự tại phiên tịa sơ thẩm theo pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam dựa trên những thành quả nghiên cứu của các cơng trình khoa
học đã cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Tác giả nghiên cứu đề tài này hướng đến các mục đích sau đây:
Thứ nhất, đề tài tìm hiểu và phân tích chuyên sâu về mặt lý luận các vấn đề
liên quan để làm sáng tỏ những quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về sự


6

có mặt của đương sự tại phiên tịa sơ thẩm.
Thứ hai, trên cơ sở lý luận, đề tài phân tích các tình huống thực tiễn áp dụng
pháp luật từ đó kiến nghị các giải pháp đồng bộ nhằm hoàn thiện các quy định
trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành.
Để đạt được mục đích trên đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ các quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam quy định về
sự có mặt của đương sự tại phiên tịa sơ thẩm.
- Phân tích, đánh giá về thực trạng áp dụng các quy định pháp luật hiện hành
về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm.
- Tham khảo pháp luật một số quốc gia từ đó rút ra bài học cho Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về sự có
mặt của đương sự tại phiên tịa sơ thẩm.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là:
- Các vấn đề lý luận về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm;
- Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về sự có mặt của đương sự tại
phiên tịa sơ thẩm và phương hướng hồn thiện pháp luật;
- Quy định về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm trong pháp luật
Liên Bang Nga, Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản (chỉ mang tính chất tham khảo, so
sánh, khơng phân tích sâu).
Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài giới hạn nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật quốc
gia về sự có mặt của đương sự tại phiên tịa sơ thẩm. Do đó, tác giả chỉ giới hạn tập
trung nghiên cứu những vấn đề trọng tâm về lý luận, chỉ ra những điểm hạn chế
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bên cạnh đó, đề tài có so sánh
với quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Luật năm 2011 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự để luận giải cách thức quy định của
các nội dung trong Bộ luật hiện hành. Đối với vấn đề thực tiễn, đề tài phân tích
những bất cập, vướng mắc trong thực trạng áp dụng pháp luật để từ đó đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật. Bên cạnh việc dẫn giải các quan điểm khác


7

nhau, khóa luận cũng sử dụng một số bản án để làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng pháp
luật không thống nhất liên quan đến sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Bên cạnh việc nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin (phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử), đề tài còn
sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác như:
- Phương pháp phân tích được tác giả sử dụng ở Chương 1, nổi bật ở Chương
2 và Chương 3 nhằm nghiên cứu nội dung các quy định pháp luật về sự có mặt của
đương sự tại phiên tịa sơ thẩm. Đồng thời tác giả còn sử dụng phương pháp này
trong việc phân tích những khó khăn, vướng mắc của việc áp dụng các quy định

trên thực tiễn từ đó đưa ra những kiến nghị phù hợp.
- Phương pháp so sánh được sử dụng ở Chương 2 và Chương 3 (mục 2.1,
2.2, 2.3, 3.1, 3.2, 3.3) để đánh giá các quy định mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, so sánh quy định trong pháp
luật Việt Nam với pháp luật một số quốc gia.
- Phương pháp tổng hợp được tác giả sử dụng nhằm tập hợp các tài liệu đã
thu tập được và hồn thành tồn bộ khóa luận.
Trong đó phương pháp phân tích là phương pháp cốt lõi.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học của khóa luận: Khóa luận đã đánh giá khách quan, toàn
diện về nội dung pháp luật; củng cố, hoàn thiện cơ sở lý luận của những quy định về
sự có mặt của đương sự tại phiên tịa sơ thẩm. Bên cạnh đó tìm hiểu việc áp dụng
pháp luật vào thực tiễn, tác động của quy định này tới những chủ thể áp dụng pháp
luật, góp phần làm rõ các khó khăn, vướng mắc đã và đang tồn tại để đưa ra các
kiến nghị.
Giá trị ứng dụng của khóa luận: Khóa luận có giá trị sử dụng để học tập
nghiên cứu. Ngồi ra, đề tài cịn có ý nghĩa tham khảo cho việc chỉnh sửa, giải
thích, áp dụng các quy định về cách thức xử lý trong trường hợp đương sự vắng mặt
tại phiên tòa sơ thẩm. Khóa luận này có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho
các Thẩm phán, Thư ký, Luật sư và các cá nhân, cơ quan, tổ chức khi trở thành
đương sự trong vụ án dân sự.


8

7. Bố cục và nội dung cơ bản của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội dung khóa
luận bao gồm 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát chung về sự có mặt của đương sự tại phiên tịa sơ thẩm
theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

Chương 2: Thực trạng áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về
sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm


9

CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SỰ CÓ MẶT CỦA ĐƢƠNG SỰ TẠI
PHIÊN TÒA SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM

1.1 Một số khái niệm cơ bản về sự có mặt của đƣơng sự tại phiên tịa sơ thẩm
1.1.1 Phiên tòa sơ thẩm
Hiện nay Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) chưa có quy định về phiên tịa
sơ thẩm, tuy nhiên có thể hiểu theo cách hiểu phổ thơng, “phiên tịa” là “nơi diễn
ra các hoạt động xét xử của Tòa án” – cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện quyền
tư pháp, “sơ thẩm” là “lần đầu tiên đưa ra xét xử vụ án tại một Tịa án có thẩm
quyền”. Khái niệm “sơ thẩm” cịn được nhắc đến trong Từ điển Tiếng Việt là việc
“xét xử một vụ án với tư cách là Tòa án ở cấp xét xử thấp nhất”1. Từ đó có thể đưa
ra định nghĩa: Phiên tịa sơ thẩm dân sự là hình thức tổ chức hoạt động xét xử do
một Tòa án có thẩm quyền thực hiện, để đưa vụ án dân sự ra xét xử lần đầu theo
trình tự, thủ tục luật định. Ngồi ra, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự năm 2017 của
Trường Đại học Luật Hà Nội cũng đưa ra định nghĩa khái quát: Phiên tòa sơ thẩm
dân sự là phiên xét xử vụ án dân sự lần đầu của Tòa án2. Tuy nhiên, định nghĩa này
chỉ đưa ra cách hiểu chung nhất mà chưa thể hiện được các đặc điểm cơ bản của
phiên tòa sơ thẩm dân sự. Từ khái niệm phiên tòa sơ thẩm dân sự có thể rút ra được
các đặc trưng cơ bản như sau:
Một là, phiên tịa sơ thẩm là hình thức tổ chức hoạt động xét xử lần thứ nhất
(cấp thứ nhất) do Tịa án có thẩm quyền thực hiện. Tất cả các vụ án dân sự nếu đã
đưa ra xét xử thì đều phải trải qua việc xét xử tại phiên tịa sơ thẩm.3 Thơng qua
phiên tịa sơ thẩm, Tịa án thực hiện chức năng xét xử của mình, giải quyết các tranh

chấp dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội.
Phiên tịa sơ thẩm dân sự phải do Tịa án có thẩm quyền thực hiện. Pháp luật tố tụng

1

Từ điển Tiếng Việt (2002), NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 869.

2

Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 276.
3

Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 276.


10

quy định Tòa án cấp huyện hoặc Tòa án cấp tỉnh sẽ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự (Điều 35, 37 BLTTDS 2015).
Hai là, mục đích cuối cùng của phiên tòa sơ thẩm dân sự là giải quyết các
tranh chấp trong lĩnh vực dân sự. Đó là các tranh chấp đã được quy định tại Điều 1
BLTTDS 2015 gồm tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động. Những tranh chấp cụ thể trong lĩnh vực dân sự tiếp tục được làm rõ
trong các quy định tại Điều 26, 28, 30, 32. Sở dĩ BLTTDS quy định chi tiết như vậy
là để phân biệt với việc dân sự - một loại việc cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhưng được xử lý thông qua “phiên họp giải quyết việc dân sự” (khác với
phiên tòa sơ thẩm dân sự). Khi giữa các bên tồn tại quan hệ tranh chấp dân sự và có
đơn khởi kiện, Tịa án sẽ xem xét thụ lý đơn, từ đó làm phát sinh một quá trình tố

tụng nhằm giải quyết vụ án dân sự đó. Trong trường hợp các bên hịa giải khơng
thành (trừ những vụ án dân sự theo quy định khơng được hịa giải hoặc khơng tiến
hành hịa giải được), Tịa án sẽ mở phiên tòa sơ thẩm để giải quyết vụ án dưới sự
tham gia của tất cả các bên có liên quan. Phiên tòa sơ thẩm dân sự khai thác kết quả
của các hoạt động ở những giai đoạn tố tụng trước đó cùng với việc tranh tụng tại
phiên tịa để đưa ra phán quyết cuối cùng. Các giai đoạn như thụ lý, hịa giải (khơng
thành), chuẩn bị xét xử,…là các giai đoạn nhằm thực hiện các thủ tục cần thiết, xử
lý một số vấn đề cơ bản, làm cơ sở để giải quyết toàn bộ nội dung vụ án tại phiên
tịa sơ thẩm. Vì thế, giải quyết tranh chấp cho các bên chính là mục đích cuối cùng
mà phiên tịa sơ thẩm dân sự cần đạt được.
Ba là, phán quyết của Hội đồng xét xử (HĐXX) được dựa trên cơ sở hồ sơ vụ
án và kết quả tranh tụng của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm
dân sự, trong đó, ngun tắc tơn trọng quyền tự định đoạt được thể hiện rõ nét. Ở
các nước theo hệ thống tranh tụng, phiên tòa là “ngày của cuộc chiến pháp lý”.
Toàn bộ các chứng cứ, lập luận, kỹ năng tranh tụng của các bên và luật sư của họ
được đem ra trình bày cơng khai. 4 HĐXX giữ vai trị trung gian, khơng can thiệp
vào q trình tranh tụng của các bên, chỉ lắng nghe để qua đó tìm hiểu sự thật và
đưa ra phán quyết cuối cùng. Ưu điểm của mơ hình này là tính khách quan và công
bằng hơn. Không giống như vậy, ở các nước theo hệ thống thẩm xét, vụ án được

4

Tống Công Cường (2007), Luật Tố tụng dân sự Việt Nam nghiên cứu so sánh, NXB Đại học quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 324.


11

giải quyết trên hồ sơ đã được chuẩn bị qua nhiều giai đoạn. Do có sự đánh giá,
nghiên cứu, chuẩn bị hồ sơ công phu từ trước nên kết quả của mơ hình này mang

tính chất cẩn trọng hơn, đảm bảo đúng pháp luật. Phiên tòa sơ thẩm dân sự ở nước
ta mang những đặc điểm chính của mơ hình thẩm xét nhưng đã có những chuyển
biến trong cải cách tư pháp nhằm vận dụng mơ hình tố tụng tranh tụng. Đảm bảo
tranh tụng đã trở thành một nguyên tắc cơ bản trong pháp luật tố tụng dân sự
(PLTTDS) Việt Nam. Không những thế, đặc thù của lĩnh vực dân sự là các quan hệ
mang bản chất tư, địa vị tố tụng của các bên tranh chấp là ngang bằng nhau. Do vậy,
khác với những ngành luật khác (ví dụ như Luật Hình sự), các bên tranh chấp được
tạo điều kiện để thỏa thuận đi đến thống nhất cách thức xử lý chung, trước khi cần
đến vai trò trung gian xét xử của Tòa án. Ngay cả khi phiên tòa sơ thẩm dân sự đã,
đang diễn ra, HĐXX vẫn có trách nhiệm giúp cho các bên hịa giải và có nghĩa vụ
tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên.
Bốn là, phiên tịa sơ thẩm vận hành theo một trình tự, thủ tục do luật định.
Các trình tự, thủ tục này được quy định rất chặt chẽ tại BLTTDS. Trong q trình
diễn ra phiên tịa sơ thẩm dân sự, Hội đồng xét xử phải đảm bảo tuân thủ nghiêm
ngặt, không tùy tiện thêm hay lược bỏ bất kỳ giai đoạn, quy trình nào.
Có thể nói, phiên tịa sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên, có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc giải quyết vụ án dân sự. Phiên tòa sơ thẩm dân sự là nơi tập trung
nhất các diễn biến tố tụng. Tồn bộ các chứng cứ, tình tiết, nội dung vụ việc sẽ được
công khai xem xét và quyết định tại phiên tòa.5 Phiên tòa sơ thẩm dân sự đạt hiệu
quả cao thì mâu thuẫn của các chủ thể trong quan hệ tranh chấp sẽ được giải quyết
triệt để và đúng đắn, bảo vệ được quyền lợi chính đáng của tất cả các bên. Bên cạnh
đó, việc tiến hành phiên tòa được thực hiện tốt sẽ làm hạn chế kháng cáo, kháng
nghị, tiết kiệm thời gian và chi phí cho Nhà nước và những người tham gia tố tụng.
Ngồi ra, phiên tịa sơ thẩm cũng có ý nghĩa đối với hoạt động lập pháp. Thực chất
hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ thẩm là hoạt động của những người tiến hành tố
tụng đánh giá các tình tiết, chứng cứ, sự kiện và áp dụng pháp luật để ra phán quyết
về vụ việc dân sự.6 Mặc khác, sự áp dụng này không thể vượt quá giới hạn của pháp
5

Tống Công Cường (2007), Luật Tố tụng dân sự Việt Nam nghiên cứu so sánh, NXB Đại học quốc gia

Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 324.
6

Bùi Thị Huyền (2011), Phiên tòa sơ thẩm dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 18.


12

luật theo nguyên tắc pháp chế. Do đó, trong quá trình xét xử, Tịa án có thể rút ra
những khó khăn, hạn chế cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn áp dụng, góp phần đưa ra
những kiến nghị hồn thiện pháp luật về phiên tòa sơ thẩm.
1.1.2 Đƣơng sự tham gia phiên tòa sơ thẩm
Theo quy định tại Điều 68 BLTTDS 2015: “Đương sự trong vụ án dân sự là
cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan”. Đương sự là người yêu cầu Tòa án giải quyết mâu thuẫn của họ và
được xem như là chủ thể trung tâm của vụ án dân sự. Do đó, đương sự cần có mặt
tại phiên tịa để tham gia vào q trình giải quyết tranh chấp một cách chủ động
nhằm bảo vệ quyền lợi của chính mình. Hơn nữa, để hướng đến mục tiêu xác định
sự thật khách quan, đương sự phải hỗ trợ Tòa án bằng cách nỗ lực chứng minh các
yêu cầu của mình hoặc đưa ra lý lẽ bác bỏ. Vì thế, đương sự trong vụ án dân sự
cũng chính là những người sẽ tham gia vào phiên tịa sơ thẩm. Nói cách khác,
đương sự tham gia phiên tòa sơ thẩm cũng bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong phạm vi đề tài này, tác giả đề cập các nội dung
liên quan đến đương sự trong mối liên hệ là các bên trong một vụ án dân sự. Theo
đó, nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đều là một bên của tranh chấp – gọi tắt là nguyên
đơn. Tương tự với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Nguyên đơn là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
do BLTTDS quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho

rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ
luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích cơng
cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là ngun đơn.7 Có
thể thấy, chính hành vi khởi kiện của nguyên đơn đã làm khởi phát cả một quá trình
tố tụng nhằm giải quyết vụ án dân sự. Do đó nguyên đơn có vị trí chủ động hơn cả
so với các đương sự khác trong vụ án. Sự tham gia của nguyên đơn tại phiên tòa sơ
thẩm là cơ hội để họ bảo vệ quyền lợi của mình, vì thế ngun đơn khơng thường
vắng mặt tại phiên tịa mà khơng có lí do chính đáng.
Bị đơn là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân

7

Khoản 2 Điều 68 BLTTDS 2015.


13

khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự
khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.8 Bị
đơn là người bị khởi kiện, khơng có phân biệt bị đơn có xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của nguyên đơn hay khơng. 9 Bị đơn tham gia vào q trình tố tụng
trong mọi tình huống đều ít nhiều bị động hơn so với nguyên đơn, bởi vì việc chủ
thể này tham gia vào q trình tố tụng là do có sự thực hiện hành vi khởi kiện của
nguyên đơn. Bị đơn có thể đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, đưa ra yêu
cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi các yêu cầu này có
liên quan đến việc giải quyết vụ án (Điều 72 BLTTDS 2015). Về bản chất, bị đơn
có đưa ra yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập cũng giống như việc “khởi kiện” khi
cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm để Tịa án xem xét giải quyết trong
cùng một vụ án. Vì vậy, bị đơn có đưa ra yêu cầu sẽ trách nhiệm hơn trong việc
tham gia phiên tịa. Bị đơn khơng đưa ra yêu cầu thường là bên chủ thể có tâm lí

trốn tránh, từ đó dẫn đến việc khơng tham gia vào các giai đoạn giải quyết vụ án,
đặc biệt là phiên tòa xét xử. Như vậy hậu quả pháp lý khi bị đơn có đưa ra yêu cầu
vắng mặt tại phiên tịa và bị đơn khơng đưa ra u cầu có sự khơng giống nhau.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người tuy không khởi kiện, không
bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án
chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan. Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của một người nào đó mà khơng có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tịa án phải đưa họ vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.10 Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khơng phải là chủ thể ln ln có trong mọi vụ án
dân sự. Chủ thể này tham gia vào vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị
đơn bằng cách chủ động hoặc theo đề nghị của đương sự khác hoặc theo u cầu
của Tịa án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập
và được Tòa án xem xét chấp nhận giải quyết trong cùng vụ án. Trường hợp người
8

Khoản 3 Điều 68 BLTTDS 2015.

9

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 83.
10

Khoản 4 Điều 68 BLTTDS 2015.


14


có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đưa ra yêu cầu, pháp luật cũng đòi hỏi trách
nhiệm tham gia phiên tòa của họ tương tự như đối với nguyên đơn. Điều này một
mặt thể hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các đương sự trong vụ án dân sự, mặt khác
nâng cao ý thức tham gia tích cực vào quá trình giải quyết vụ án của các đương sự
có đưa ra yêu cầu.
1.1.3 Sự có mặt của đƣơng sự tại phiên tịa sơ thẩm
Theo cách định nghĩa thơng thường, “có mặt” được hiểu là “hiện diện tại
thời điểm một sự kiện nào đó xảy ra”. Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học
xuất bản năm 2003 cũng nêu ra một định nghĩa tương tự như vậy: “có mặt là có tại
nơi nào đó lúc sự việc xảy ra”.11 Mặt khác, như trên đã trình bày, “đương sự” là
“cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan”. Tóm lại, từ các khái niệm trên có thể đưa ra định nghĩa cơ bản về sự
có mặt của đương sự tại phiên tịa sơ thẩm như sau: Sự có mặt của đương sự tại
phiên tòa sơ thẩm là sự hiện diện của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trước HĐXX tại phiên tòa sơ thẩm vào thời điểm diễn ra phiên
xét xử.
Vấn đề sự có mặt của đương sự tại phiên tịa sơ thẩm có những đặc điểm cơ
bản sau đây:
- Thứ nhất, có mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm là quyền và nghĩa vụ của
đương sự. Dưới góc độ giải quyết vụ án, đương sự có nghĩa vụ có mặt tại phiên tịa
sơ thẩm. Đương sự phải có mặt và cung cấp các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu
của mình trước HĐXX để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án một cách khách quan,
chính xác nhất. Khi vắng mặt tại phiên tịa, đương sự có thể gặp những hậu quả bất
lợi như phải chịu một bản án vắng mặt hoặc bị đình chỉ giải quyết yêu cầu theo quy
định tại Điều 227 BLTTDS 2015. Tuy nhiên, nếu xét dưới góc độ bảo vệ quyền lợi
của đương sự thì đây lại là quyền của đương sự. Đương sự có mặt tại phiên tịa có
thể tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Sở dĩ sự tham gia của đương sự vào
phiên tòa sơ thẩm còn được xác định là quyền của đương sự bởi vì đương sự được
pháp luật tơn trọng nếu quyết định từ bỏ quyền này. Khi đã được xem là quyền thì

việc đương sự có sử dụng quyền hay khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của họ.

11

Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 196.


15

Để chứng minh, tác giả xin dẫn chứng Điều 61, 62 của Bộ luật Tố tụng hình sự
2015. Trong pháp luật tố tụng hình sự, bị cáo hay bị hại khơng thể tự định đoạt việc
có mặt tại phiên tịa xét xử. Bị cáo khi vắng mặt tại phiên tòa khơng có lý do chính
đáng có thể bị áp giải – cưỡng chế đến địa điểm xét xử (Điều 61); Bị hại nếu cố tình
vắng mặt khơng có lý do chính đáng có thể bị dẫn giải (Điều 62). Như vậy, những
người trực tiếp liên quan đến vụ án hình sự khơng được lựa chọn mà có nghĩa vụ
phải có mặt tại phiên tịa xét xử. Khơng giống như vậy, đương sự trong vụ án dân sự
có thể từ bỏ quyền có mặt của mình tại phiên tịa sơ thẩm. Tuy nhiên, hậu quả khi
vắng mặt thì đương sự phải tự gánh chịu.
Quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa sơ của đương sự đã được quy định tại
khoản 15 Điều 70 BLTTDS 201512. Đương sự là nguyên đơn hoặc đương sự khác
có yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập có mặt tại phiên tịa sơ thẩm để đưa ra các
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Đương sự tham gia tố tụng mặc dù
không đưa ra yêu cầu để Tòa án xét xử trong cùng vụ án nhưng vẫn có thể có mặt
tại phiên tịa để trình bày quan điểm, lập luận, chứng cứ, trực tiếp thể hiện sự đồng ý
hay phản bác các yêu cầu của đương sự khác ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính
đáng của mình.
- Thứ hai, đương sự vắng mặt tại phiên tịa có nhiều trường hợp phụ thuộc
vào nhiều yếu tố. Đó là các yếu tố như: đương sự vắng mặt lần thứ nhất, vắng mặt
lần thứ hai; đương sự vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan hoặc
vắng mà khơng có lí do; đương sự có đơn đề nghị xét xử vắng mặt,... Đối với từng

tình huống khác nhau, cách thức xử lý là khơng giống nhau. Bên cạnh đó, cá nhân,
cơ quan, tổ chức có tư cách đương sự khác nhau thì khi vắng mặt tại phiên tòa xét
xử cách thức xử lý cũng khác nhau.
- Thứ ba, từng trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa tương ứng với
các cách thức xử lý cụ thể. Nghiên cứu về sự có mặt của đương sự tại phiên tịa sơ
thẩm cần tìm hiểu, phân tích hậu quả pháp lý khi đương sự vắng mặt tại phiên xét
xử phù hợp với từng tư cách tố tụng và từng tình huống cụ thể dưới góc độ lý luận
và thực tiễn. Đương sự khi vắng mặt, HĐXX có thể quyết định việc hỗn hoặc vẫn
tiếp tục phiên tòa theo quy định tại BLTTDS. Nguyên nhân khiến đương sự không
12

Khoản 15 Điều 70 Quyền, nghĩa vụ của đương sự

15. Tham gia phiên tòa, phiên họp theo quy định của Bộ luật này;



×