Quan hệ thương mại Việt Nam-Hàn Quốc
Quy mô thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã thực sự có bước phát triển nhanh
chóng, tăng gấp 3 lần sau 10 năm. Hiện tại, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 6 của
Việt Nam, chỉ sau Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, Đài Loan và Mỹ. Kim ngạch thương
mại hai chiều Việt Nam–Hàn Quốc chiếm khoảng 6,6% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của
Việt Nam trong giai đoạn 2002-2005.
Năm 2004, xuất khẩu của Việt Nam đạt 603 triệu đôla Mỹ, tăng 18,1% so với năm 2003, trong khi
đó xuất khẩu của Hàn Quốc đạt 3.328,5 triệu đôla Mỹ, tăng 26,8% đưa tổng kim ngạch lên tới hơn
3,9 tỷ đôla Mỹ. Năm 2005, xuất khẩu của Việt Nam đạt 694,04 triệu US$, tăng 5,4% so với năm
2004, trong khi đó xuất khẩu của Hàn Quốc đạt 3.431, 65 triệu US$, tăng 3,1%. Thương mại giữa
hai nước trong năm 2005 vẫn tiếp tục tăng trưởng nhưng đã có dấu hiệu chững lại. Xuất khẩu
của Việt Nam trong năm 2004 có mức tăng cao là do trong năm này ta đã xuất được dầu thô với
trị giá 51,64 triệu US$. Trong năm 2005, do Hàn Quốc không mua dầu thô nữa nên kim ngạch
chung không tăng. Tuy nhiên, nếu không tính dầu thô, thì xuất khẩu của ta vẫn tăng khoảng 10%.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Hàn Quốc là thủy hải sản, dầu thô, than đá,
máy móc thiết bị điện và phụ tùng, giầy dép, đồ gỗ, thủy sản chế biến, cao su, đồ gia dụng, quần
áo may sẵn, sắn lát, cà phê. Thủy sản vẫn là mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có kim ngạch cao
nhất, chiếm khoảng 23% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta, tiếp theo là các mặt hàng giày dép, đồ
gỗ, cà phê, cao su. Đặc biệt giày dép, đồ gỗ, cà phê và cao su là các mặt hàng có mức tăng
trưởng cao trong cả năm 2005 và 2 tháng đầu năm 2006. Các mặt hàng nhiên liệu khoáng như
than đá, dầu thô có mức giảm tới 68,8% do năm 2005 ta không xuất được dầu thô. Riêng mặt
hàng than đá có mức tăng khá trong những năm vừa qua thì năm nay cũng giảm 8,4%.
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Hàn Quốc của Việt Nam là xăng dầu, máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải, thiết bị điện và phụ kiện, nhựa plastic và chế phẩm, tơ sợi nhân tạo, vải dệt
kim các loại và các loại vải khác, sắt thép, nhôm và các chế phẩm, giầy dép, giấy, tân dược. Tuy
nhiên, việc nhập khẩu các mặt hàng này có chiều hướng tăng ít hoặc giảm dần. Cụ thể là trong
năm 2005 nhập khẩu máy móc thiết bị giảm 5,7%, ô tô xe máy giảm 2,9%, sợi nhân tạo giảm
11,9%.
Trong 5 năm trở lại đây, kim ngạch buôn bán giữa hai nước tiếp tục tăng trưởng. Tuy nhiên, Việt
Nam luôn nhập siêu từ Hàn Quốc và với việc kim ngạch trao đổi hàng hóa giữa hai nước ngày
càng tăng thì nhập siêu của Việt Nam ngày càng lớn. Nếu năm 1995 ta nhập siêu hơn 1 tỷ US$
thì năm 2002 ta nhập siêu gần 1,8 tỷ US$, năm 2004 ta nhập siêu 2,5 tỷ US$ và năm 2005 con số
này đã lên tới hơn 2,74 tỷ US$. Mặc dù vậy, việc nhập siêu từ Hàn Quốc được đánh giá là mang
tính tích cực, phản ánh sự gia tăng đầu tư vào Việt Nam của Hàn Quốc. Điều này được thể hiện
rất rõ trong cơ cấu nhập khẩu từ Hàn Quốc của Việt Nam với vị trí chủ yếu là các nhóm hàng
công nghiệp như: máy móc, thiết bị và phụ tùng, ôtô (CKD, SKD và nguyên chiếc), nguyên phụ
liệu dệt may, chất dẻo nguyên liệu, sắt thép, xăng dầu, linh kiện điện tử và thuốc tân dược. Để cải
thiện cán cân thanh toán, ta không chủ trương hạn chế nhập khẩu mà phải tìm biện pháp tăng
cường xuất khẩu sang Hàn Quốc.
Trong tình hình thương mại giữa hai nước như hiện nay, việc ta cùng với các nước ASEAN khác
đàm phán với Hàn Quốc về AKFTA sẽ tạo điều kiện tăng cường trao đổi kinh tế-thương mại với
các nước tham gia AKFTA, mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng cường thu hút đầu tư.
Với cơ cấu kinh tế giữa hai nước mang tính bổ sung nhiều hơn là cạnh tranh, AKFTA sẽ tạo điều
kiện thúc đẩy hơn nữa quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Hàn Quốc, giúp Việt Nam
từng bước giải quyết được vấn đề nhập siêu từ Hàn Quốc bằng cách tăng cường xuất khẩu mà
không hạn chế nhập khẩu.
Việc tăng cường quan hệ kinh tế-thương mại với Hàn Quốc còn giúp ta tranh thủ được sự trợ
giúp kỹ thuật của Hàn Quốc thông qua các chương trình, dự án hợp tác kinh tế và tháo dỡ phần
nào khó khăn do hàng rào thuế quan và các biện pháp bảo hộ phi thuế quan mà Hàn Quốc đang
áp dụng đối với các mặt hàng nông sản và thuỷ sản.
CHÍNH SÁCH KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO CỦA HÀN QUỐC VÀ NỖ
LỰC ĐẨY NHANH CÁC ĐÀM PHÁN KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO
Nền kinh tế Hàn Quốc, nền kinh tế lớn thứ 11 trên thế giới, phụ thuộc rất lớn vào xuất
khẩu. Tổng kim ngạch ngoại thương của Hàn Quốc chiếm tới 70% GDP của nước này. Tuy
nhiên, cho đến những năm gần đây, Hàn Quốc vẫn bị xem là quốc gia tụt hậu rất xa so với
các nước thành viên WTO khác trong các đàm phán Khu vực Mậu dịch Tự do (FTA) vào
thời điểm mà làn sóng FTA đang lan rộng ở khu vực Châu Á và một số khu vực khác trên
thế giới. Hàn Quốc là một trong hai nước thành viên WTO còn lại, cùng với Mông Cổ,
không tham gia vào bất cứ hiệp định FTA nào trước khi nước này kết thúc đàm phán và ký
kết Hiệp định FTA đầu tiên với Chi Lê vào tháng 3 năm ngoái.
Một năm sau khi ký kết Hiệp định FTA với Chi Lê, xuất khẩu của Hàn Quốc sang quốc gia Nam
Mỹ này đã tăng lên một cách nhanh chóng. Theo Hiệp hội Thương mại Quốc tế Hàn Quốc (KITA),
hàng hoá chuyên chở bằng đường biển của Hàn Quốc sang Chi Lê đã tăng 58,7% trong 11 tháng
qua so với năm trước đó sau khi Hiệp định FTA ký với Chi Lê có hiệu lực vào tháng 4 năm ngoái.
Xuất khẩu ôtô của Hàn Quốc sang Chi Lê cũng tăng 59,3%, xuất khẩu điện thoại di động tăng
225,7% và xuất khẩu tivi màu tăng 110.4%. Nhập khẩu từ Chi Lê cũng tăng 54,3% trong cùng thời
kỳ đó, chủ yếu là các nguyên vật liệu thô, trong đó có quặng đồng. Nhập khẩu các sản phẩm nông
nghiệp, trừ rượu, từ Chi Lê tăng thấp hơn mức dự kiến 2,6% đã làm dịu bớt những lo ngại của
nông dân, những người luôn đấu tranh chống lại việc mở cửa thị trường hàng nông sản vốn đang
được Hàn Quốc bảo hộ chặt chẽ.
Nhìn chung, Hiệp định FTA với Chi Lê đã cho thấy tiềm năng tăng trưởng mới trong năm qua, làm
tăng niềm tin về mở cửa thị trường và xoa dịu những lo ngại đối với tự do hoá thương mại của
quốc gia này. Lạc quan về tình hình xuất khẩu gia tăng sau khi ký kết Hiệp định FTA đầu tiên với
Chi Lê, Hàn Quốc thể hiện tham vọng muốn đẩy mạnh đàm phán và ký kết các hiệp định FTA với
ít nhất 15 quốc gia khác, dự kiến hoàn thành vào năm 2007 trước khi nhiệm kỳ 5 năm của Tổng
thống Roh Moo-huyn kết thúc. Nhằm đạt mục tiêu này, Hàn Quốc sẽ tiến hành các đàm phán với
50 đối tác thương mại trên toàn thế giới.
Trong điều kiện như hiện nay, Hàn Quốc hiểu rằng các FTA đóng một vai trò quan trọng trong sự
phát triển của nền kinh tế. Chính sách đa biên sẽ giúp Hàn Quốc đẩy mạnh tự do hoá thương
mại, giảm dần các rào cản đối với thương mại và bảo đảm đem lại nhiều lợi ích hơn cho nền kinh
tế vốn phụ thuộc vào xuất khẩu của mình. Một chiến lược dài hạn nhằm phát triển và mở rộng
thương mại là cần thiết đối với nền kinh tế Hàn Quốc vốn đang phải đối mặt với nhiều điều kiện
bất lợi từ bên ngoài như giá dầu tăng cao, đồng won tăng giá so với đồng đôla Mỹ và ngày càng
xuất hiện nhiều rào cản thương mại khác. Mở rộng các đàm phán FTA được xem là giải pháp duy
nhất để các công ty Hàn Quốc có thể tiếp cận tốt hơn với thị trường bên ngoài. Trong khi đó, một
số quan điểm khác lại cho rằng việc đẩy nhanh các đàm phán FTA có thể sẽ phản tác dụng, ảnh
hưởng xấu đến một số ngành công nghiệp chủ chốt trong nước.
Hàn Quốc đã hoàn tất những khâu cuối cùng để Quốc hội chính thức thông qua Hiệp định FTA ký
kết với Singapore vào tháng 4 vừa qua. Với Hiệp định FTA này, Hàn Quốc hy vọng có thể đẩy
nhanh các đàm phán FTA với Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Trung Quốc và các
quốc gia ở Châu Á khác trong tương lai.
Hàn Quốc hiện nay đang triển khai đàm phán FTA với 16 quốc gia khác, gồm Nhật Bản, Canađa,
10 nước thành viên ASEAN và 4 nước thành viên Hiệp hội Thương mại Tự do Châu Âu (EFTA).
Theo ước tính của Viện Chính sách Kinh tế Quốc tế Hàn Quốc, một Hiệp định FTA ký kết với
ASEAN sẽ làm tăng GDP của Hàn Quốc 14,6 tỷ đôla Mỹ trong ngắn hạn và 18,2 tỷ đôla Mỹ về lâu
dài. Một Hiệp định FTA ký kết với EFTA sẽ làm tăng xuất khẩu của Hàn Quốc 26% mỗi năm.
Ngoài ra, Hiệp định FTA với EFTA cũng được xem như là sự khởi đầu đối với các hiệp định phi
thuế quan với Liên minh Châu Âu (EU) vì EFTA gồm bốn nước Châu Âu là Ai-xơ-len,
Liechtenstein, Na Uy và Thụy Sỹ đã ký kết một Hiệp định FTA với EU.
Hàn Quốc hiện đang tiến hành các nghiên cứu chung với 7 quốc gia, trong đó có Ấn Độ, Mêhicô
và Nga, về tính khả thi của các đàm phán FTA. Hàn Quốc cũng đang tiến hành các đối thoại ban
đầu với 27 quốc gia, trong đó có Mỹ, Trung Quốc và EU.
Nhật Bản hiện đang là một đối tác thương mại lớn của Hàn Quốc, với kim ngạch thương mại song
phương đạt 67,8 tỷ đôla Mỹ trong năm ngoái. Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản tăng 2,24
tỷ đôla Mỹ, tăng 310% so với năm trước, đã đưa quốc gia này, cùng với Mỹ thành một trong
những nước đầu tư lớn nhất vào Hàn Quốc
QUẢN LÝ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC PHÂN PHỐI CỦA HÀN
QUỐC
Luật thương mại công bằng:
Hội đồng thương mại công bằng Hàn Quốc (KFTC) điều chỉnh rất chặt chẽ những hành
động thương mại bất công của những công ty bán lẻ lớn . Từ khi các tập đoàn đa quốc gia
như Wal-mart và Carrefour mở chi nhánh của họ tại Hàn Quốc, họ phải cạnh tranh với
những công ty bản lẻ lớn trong trước. Sự cạnh tranh giữa các công ty bản lẻ lớn gây ra
những cuộc chiến giảm giá rất gay gắt, các công ty bản lẻ lớn thường gây áp lực giảm giá
rất phi lý đối với các công ty cung cấp của họ.
Khi các công ty bán lẻ lớn chiếm vị trí vượt trội trên thị trường, KFTC sẽ điều chỉnh khắt khe hơn
so với những đối thủ không chiếm ưu thế trên thị trường. Tiêu chuẩn của vị trí vượt trội trên thị
trường là thị phần.
Khi thị phần của một công ty chiếm hơn 50% hoặc tổng của ba công ty trên thị trường chiếm 75%
(Trong trường hợp này, công ty nào có thị phần dưới 10% bị loại khỏi thị trường) thì những công
ty này đang thống trị thị trường. Theo luật thương mại công bằng của Hàn Quốc, những công ty
thống trị thị trường bị cấm không được lạm dụng sự vượt trội này .
Những tiêu chuẩn để cấm lạm dụng vị trí vượt trội trên thị trường:
• Vô cớ sửa, duy trì hoặc thay đổi giá sản phẩm hoặc dịch vụ.
• Vô cớ đưa ra giảm giá hàng hoá hoặc dịch vụ.
• Vô cơ can thiệp vào các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khác.
• Vô cớ ngăn chặn các đối thủ mới gia nhập thị trường.
• Đe doạ, kiềm chế các đối thủ hoặc làm tổn hại đến lợi ích của người tiêu dùng.
Khi bất kỳ doanh nghiệp nào đang chiếm ưu thế trên thị trường có những hành động lạm dụng vị
trí này, KFTC sẽ ra lệnh cho doanh nghiệp này giảm giá, loại bỏ những hành động nêu trên, công
bố rộng rãi việc vi phạm này hoặc sử dụng những biện pháp cần thiết theo Luât điều chỉnh độc
quyền và thương mại công bằng. Hội đồng này cũng có thể phạt doanh nghiệp vi phạm với số tiền
không quá 3% tổng số doanh thu có được trong thời gian bắt đầu và kết thúc vi phạm.
Trong những biện pháp khắc phục, việc công khai về vi phạm là một biện pháp rất hiệu quả để
ngăn chặn việc doanh nghiệp lạm dụng vị trí của mình. Mặc dù việc phạt cao hơn mức phạt tối đa
là 2% tổng doanh thu cho các hành động kinh doanh bất công, các doanh nghiệp dễ dàng tăng giá
và chuyển những phí phạt này sang người tiêu dùng. Tuy nhiên, sự công bố về việc vi phạm có
thể làm hỏng hình ảnh và sự tin cậy của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã bỏ ra rất nhiều tiền
để gây dựng nên hình ảnh và sự tin cậy bằng quảng cáo, các doanh nghiệp sẽ không muốn làm
hỏng hình ảnh này bằng việc vi phạm luật. Vì vậy, công bố về việc vi phạm là một trong những
biện pháp hiệu quả nhất để ngăn chặn các hành động thương mại bất công.
Khi doanh nghiệp không chiếm ưu thế trên thị trường, luật cũng cấm các doanh nghiệp này có
những hành động phi cạnh tranh. Tiêu chuẩn cho những hành động này là:
• Vô cớ từ chối giao dịch hoặc tẩy chay một đối tác nào đó.
• Vô cớ tham gia vào những hoạt động để loại bỏ đối thủ.
• Vô cớ thuyết phục hoặc lừa dối người tiêu dùng của đối thủ.
• Vô cớ lợi dụng vị trí để thương lượng với các đối tác khác.
• Giao dịch với đối tác với những điều khoản hoặc điều kiện vô cớ hạn chế và phá hoại các
hoạt động kinh doanh của đối tác.
• Sử dụng quảng cáo hoặc những tuyên bố không đúng sự thật hoặc có thể lừa dối hoặc làm
người tiêu dùng lầm tưởng về doanh nghiệp hoặc sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp đó.
Các biện pháp để trừng phạt những hành động thương mại bất công cũng giống như hành động
lạm dụng địa vị nổi trội trên thị trường ngoại trừ mức phạt tối đa ít hơn 1% so với lạm dụng địa vị
nổi trội trên thị trường. Luật cạnh tranh công bằng cũng đã ghi rõ rằng hội đồng đưa ra lời cảnh
báo về các loại và các tiêu chuẩn đối với các hành động kinh doanh bất công theo kinh doanh của
các cửa hàng phân phối lớn.
Các lời cảnh báo đối với những hành động kinh doanh không công bằng đặc biệt có liên quan tới
kinh doanh của các công ty bán lẻ lớn có những loại như sau:
1. Hoàn trả sản phẩm một cách bất công: Một doanh nghiệp không có quyền trả, theo từng phần
hoặc toàn bộ sản phẩm mà doanh nghiệp này đã mua từ nhà cung cấp (bao gồm việc hoàn trả
sản phẩm thực tế, như việc thay các thoả thuận mua bán bằng các thoả thuận bằng miệng hoặc
thay các hàng hoá đã mua bằng hàng hoá khác), trừ những trường hợp sau:
a. Trả lại hàng hoá hư hại, bị hỏng và có lỗi của người cung cấp trong khoảng thời gian hợp lý từ
ngày gửi hàng phù hợp với những hoạt động của hải quan do lỗi của người cung cấp.
b. Trong trường hợp hàng hoá được gửi tới khác với hàng hoá đã đặt, việc trả lại hàng hoá của
người cung cấp phải được thực hiện trong thời hạn hợp lý so với ngày chuyển hàng.
c. Việc trả lại hàng hoá cho người cung cấp phải có sự đồng ý của nhà cung cấp, với điều kiện
doanh nghiệp này chịu mọi chi phí của việc hoàn trả.
d. Việc trả lại hàng hoá cho người cung cấp khi người cung cấp cho rằng việc hoàn trả trực tiếp
hoặc người cung cấp bán sẽ có lợi hơn và yêu cầu người bán lẻ lớn trả lại hàng hoá.
2. Giám giá bất công: Không một doanh nghiệp nào được quyền giảm giá hàng hoá sau khi đã
nhận hàng hoá từ người cung cấp, trừ những trường hợp sau:
a. Giảm giá mua ở một mức hợp lý (trong thời gian hải quan kiếm soát từ ngày giao hàng), khi
hàng hoá bị hư, hỏng hoặc bị lỗi do lỗi của người cung cấp.
b. Giảm giá mua ở một mức hợp lý (trong thời gian hải quan kiếm soát từ ngày giao hàng), khi
hàng hoá nhận được khác với hàng hoá đã đặt.
3. Vô lý thanh toán chậm: Không một doanh nghiệp nào được vô lý thanh toán chậm nếu nằm
trong những trường hợp sau đây:
a. Thanh toán chậm không có lý do hợp lý sau khi đã chịu trách nhiệm về hàng hoá.
b. Thanh toán chậm không có lý do hợp lý, trong trường hợp doanh nghiệp nhận và quản lý tiền
hàng bán được với tư cách của cửa hàng đang thuê.
4. Đưa ra những yêu cầu vô lý: Không một doanh nghiệp nào có quyền can thiệp vào các hoạt
động của người cung cấp:
a.Đưa ra những yêu cầu vô lý đối với người cung cấp hoặc người thuê cửa hàng theo hợp đồng
cần phải đáp ứng theo mỗi lần mua hàng.
b.Yêu cầu bằng vũ lực nhà cung cấp phải bán hàng hoá với một mức giá thấp hơn giá bình
thường để thực hiện những hoạt động đặc biệt như giảm giá bán hoặc giá thương lượng …
c. Yêu cầu bằng vũ lực người cung cấp hoặc người thuê cửa hàng tham gia vào những hoạt động
giảm giá đặc biệt như là giảm giá cao hoặc giảm giá đặc biệt.
d.Yêu cầu bằng vũ lực người cung cấp hoặc người thuê cửa hàng phải mua hàng hoặc có quà
tặng bằng phiếu.
e.Yêu cầu đơn phương bằng vũ lực người cung cấp hoặc người thuê cửa hàng phải thay đổi
cách trang trí, nội thất, địa điểm của cửa hàng và hàng hoá bán ra v.v… trước khi kết thúc hợp
đồng mà hai bên đã ký kết.
5. Từ chối nhận hàng vô cớ: Doanh nghiệp không được quyền nhận chậm hoặc từ chối nhận toàn
bộ hoặc một phần hàng hoá không có lý do là do lỗi của nhà cung cấp, sau khi đã thực hiện cái
thoả thuận về kích cỡ, mẫu mã hoặc mẫu đơn đặc biệt đã được cung cấp từ trước.
6. Gửi nhân viên bán hàng: Doanh nghiệp không được ép người cung cấp chịu chi phí cho các
nhân viên do chính các nhà cung cấp gửi đến và có liên quan tới những công việc kinh doanh của
doanh nghiệp hoặc người do chính doanh nghiệp giao việc, trừ khi người cung cấp gửi nhân viên
bán hàng và muốn người nhân viên đó bán hàng của mình
7. Đẩy phí quảng cáo bất công: Doanh nghiệp không được quyền đòi hỏi hoặc chuyển trái ý người
cung cấp hoặc người thuê cửa hàng phí quảng cáo hoặc chi phí cho việc trang trí hoặc mua nội
thất.
Những biện pháp đối phó với những vi phạm khai báo cũng giống như đối với những vi phạm
cạnh tranh không công bằng. Công ty bán lẻ lớn có thể dễ dàng nhận biết những hành động kinh
doanh bất công bằng việc khai báo và họ có thể tránh vi phạm luật cạnh tranh.
Những trường hợp xử lý cụ thể:
Công ty “The Walmart-Korea” đã thành lập 6 cửa hàng bán lẻ lớn tại Hàn Quốc. Vào năm 1999,
công ty này đã bán hàng có trị giá 250 triệu USD. Walmart-Korea đã có hành động từ chối nhận
hàng không công bằng, trả hàng hoá không công bằng, ép buộc người cung cấp mua sản phẩm
không công bằng, giảm bất công giá sản phẩm có liên quan sau khi đã đặt mua của người cung
cấp và đẩy phí quảng cáo cho người cung cấp. KFTC đã ra lệnh Walmart dừng ngay những hoạt
động này và đã phạt 1,6 triệu USD. KFTA cũng đã ra lệnh cho Walmart-Korea công bố ra công
chúng về những vi phạm luật thương mại công bằng trên 2 tờ báo lớn theo hình thức quảng cáo.
Vào năm 2001, công ty “Korea-Carrefour” đã vô cớ giảm giá sản phẩm của 112 nhà cung cấp,
KFTA đã quyết định dừng hành động này và phạt 63 nghìn USD. KFTA cũng đã ra lệnh “Korea-
Carrefour” phải công bố ra công chúng về những vi phạm luật thương mại công bằng trên 2 tờ
báo lớn theo hình thức quảng cáo.
UBQG (Theo tài liệu cua UNCTAD - Kim Shun Jhong
Hội nhập kinh tế ASEAN và hợp tác ASEAN - Hàn Quốc
Từ những năm 1990, ASEAN đã thúc đẩy hội nhập kinh tế nhằm hướng tới một thị trường
chung. Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) được thành lập từ năm 1992 nhằm loại
bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên ASEAN và tạo ra một thị trường khu vực
với 686,3 tỉ USD cho 541,9 triệu người thông qua việc tăng số lượng thành viên gồm cả
Việt Nam, Myanmar, Lào, Campuchia (CLMV). Các nhà lãnh đạo ASEAN đã thỏa thuận loại
bỏ tất cả thuế nhập khẩu vào năm 2010 đối với 6 nước thành viên ban đầu của ASEAN và
vào 2015 đối với 4 nước thành viên mới (CLMV).
Sau khủng hoảng tài chính, ASEAN đã có những bước đi quan trọng hướng tới hội nhập khu vực
thông qua sáng kiến ASEAN cộng 3 nhằm tăng cường vị trí thông qua việc hiện thực hóa AFTA
sớm hơn thông qua hình thức hợp tác kinh tế và chính trị. Gần đây, ASEAN đang nỗ lực để tăng
cường hội nhập cùng với việc mở rộng và tăng cường liên kết kinh tế với các nước Đông Bắc Á.
Hiện nay, có rất nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa ASEAN và các nước đang được
thảo luận nhằm phản ánh rõ ràng xu hướng hội nhập kinh tế của ASEAN kể từ sau cuộc khủng
hoảng tài chính.
Hàn Quốc cũng có sự quan tâm chặt chẽ với quá trình hội nhập kinh tế ASEAN cũng như nỗ lực
của ASEAN nhằm xây dựng hợp tác kinh tế toàn diện với các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn
Độ. Trong những thập kỷ qua, ASEAN và Hàn Quốc là những đối tác kinh tế quan trọng, thương
mại và đầu tư song phương giữa Hàn Quốc và ASEAN tăng lên vững chắc trong những năm vừa
qua. Hiện nay ASEAN đứng thứ 3 trong nguồn đầu tư FDI từ Hàn Quốc và đứng thứ 5 về thương
mại.
Thông qua các hình thức hợp tác kinh tế chặt chẽ, ASEAN và Hàn Quốc đã xây dựng thành công
mối quan hệ đa dạng và toàn diện cũng như hệ thống đối thoại. Kết quả là các nhà lãnh đạo
ASEAN và Hàn Quốc đã thống nhất thông qua Tuyên bố chung về đối tác hợp tác toàn diện và
quyết định tiến hành đàm phán Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) tại Hội
nghị Thượng đỉnh vào tháng 11/2004 tại Lào. Các cuộc đàm phán AKFTA đã được khởi động từ
đầu năm 2005 và sẽ được hoàn tất trong vòng 2 năm.
1. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN:
Do hội nhập với nền kinh tế toàn cầu tăng lên, ASEAN đang phải đương đầu với các cơ hội và
thách thức quan trọng bao gồm yêu cầu về hội nhập tốt hơn của các thành viên mới vào nền kinh
tế khu vực và toàn cầu. Các nhà lãnh đạo ASEAN đã thỏa thuận sáng kiến về liên kết ASEAN
(IAI) và lịch trình hội nhập của ASEAN (RIA), theo đó lợi ích của hội nhập ASEAN được chia sẻ.
Tuy nhiên, từ tháng 1/2002, ASEAN đã thông qua hệ thống liên kết ASEAN về chương trình ưu
đãi mà theo đó thuế ưu đãi sẽ được các nước thành viên cũ của ASEAN dành cho các thành viên
mới trên cơ sở tự nguyện và thỏa thuận song phương dựa trên những sản phẩm do các nước
CLMV đưa ra.
Vào tháng 11/2000, các nhà lãnh đạo ASEAN thỏa thuận đưa ra sáng kiến liên kết ASEAN nhằm
định hướng và tập trung vào các nỗ lực chung của ASEAN trong việc thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa các thành viên cũ và thành viên mới của ASEAN. Để hiện thực hóa mục tiêu này, các
nhà lãnh đạo ASEAN tại cuộc họp Thượng đỉnh tại Phnom Penh vào tháng 11/2002 đã thông qua
Chương trình hành động nhằm đảm bảo sự tăng trưởng năng động và bền vững của khu vực và
sự thịnh vượng của người dân ASEAN.
Kế hoạch hành động 6 năm hiện nay (từ tháng 7/2002 – tháng 6/2008) đối với các nước CLMV đã
được phát triển nhằm hỗ trợ những nước này theo kịp với các nước thành viên cũ với tốc độ ngày
càng tăng. Chương trình hợp tác này tập trung vào 4 lĩnh vực ưu tiên, chủ yếu là phát triển cơ sở
hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, công nghệ thông tin và viễn thông, thúc đẩy hội nhập kinh tế
khu vực về thương mại hàng hóa và dịch vụ, hải quan, tiêu chuẩn và đầu tư ở các nước CLMV.
Đến tháng 1/2005, đã có 84 dự án trong Kế hoạch hành động này ở các giai đoạn thực hiện khác
nhau. Nguồn tài trợ đã được đảm bảo cho 66 dự án chiếm 78,6%, trong đó 28 dự án đã được
hoàn thành, 14 dự án đang được thực hiện. Ngoài việc đóng góp của các nước thành viên
ASEAN-6 đối với Kế hoạch hành động này, 11 bên đối thoại và các tổ chức phát triển cũng ủng
hộ các dự án thông qua việc tài trợ với tổng số 14,1 triệu USD. Năm nhà tài trợ hàng đầu là Nhật
Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, UNIDO và Úc chiếm tổng số 13 triệu USD (hoặc 82,6% nguồn tài trợ).
Chính phủ Hàn Quốc đã đồng ý đóng góp 5 triệu USD trong 5 năm để tài trợ cho các dự án IAI.
Để thực hiện hiệu quả các dự án này, chính phủ Hàn Quốc đã ủy nhiệm cho Cơ quan hợp tác
quốc tế của Hàn Quốc (KOICA) là cơ quan thực hiện các dự án. Đến tháng 11/2004, nguồn cam
kết của các nước thành viên ASEAN-6 là: Brunei cam kết 1,5 triệu USD, Malaysia: 0,8 triệu USD,
Indonesia: 0,6 triệu USD, Singapore: 0,47 triệu USD, Thái Lan: 0,41 triệu USD.
2. Tăng cường liên kết kinh tế với Đông Á:
Mặc dù có nhiều nỗ lực nhằm sớm hiện thực hóa liên kết thị trường khu vực và tiềm năng của thị
trường Đông Nam Á, AFTA về cơ bản vẫn còn nhỏ về qui mô kinh tế so với EU và NAFTA và
những hạn chế về cơ cấu liên quan tới hợp tác Nam-Nam. AFTA cơ bản đại diện cho sự liên kết
chung giữa các nước đang phát triển và chưa đủ khả năng khẳng định sự đoàn kết kinh tế mạnh
mẽ do thiếu vắng nền kinh tế dẫn đầu cũng như sự đồng thuận và ổn định chính trị.
Để giải quyết những yếu kém về cơ cấu, ASEAN đã cố gắng mở rộng hợp tác kinh tế với các
nước Đông Bắc Á, đưa ra nhiều thỏa thuận hợp tác vượt ra khỏi Đông Nam Á. Điều này đã dẫn
đến việc hình thành Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) nhằm cho phép ASEAN+3 bao gồm
ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc có thể phát triển mối liên kết với các khu vực khác ví
dụ như Châu Âu.
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, đã có sự chuyển động rõ rệt đối với sự hợp tác ở
Đông Á. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 đầu tiên được tổ chức vào tháng 12/1997 và sự hợp tác
này phát triển mạnh nhất từ năm 1998 đến năm 2001. Hiện nay sự hợp tác này chủ yếu là đối
thoại về liên kết kinh tế, các vấn đề về chính trị, văn hóa xã hội ... ở Đông Á.
Cơ sở hợp tác ASEAN+3 là một nhân tố quan trọng nhằm thúc đẩy hợp tác khu vực ở Đông Á.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính, các nước Đông Á nhận ra yêu cầu phải liên kết kinh tế chặt chẽ
hơn và phát triển lợi ích trong việc thúc đẩy các hiệp định thương mại tự do (FTA). Đến nay, đã có
rất nhiều nghiên cứu và các cuộc đàm phán FTA song phương đang diễn ra giữa các nước Châu
Á nhằm tằng cường xung lực mới cho hội nhập kinh tế khu vực.
Tại hội nghị Thượng đỉnh ASEAN+3 tại Singapore vào năm 2000, Trung Quốc đã đưa ra đề nghị
hình thành FTA với ASEAN và FTA ASEAN-Trung Quốc đã chính thức được thỏa thuận tại hội
nghị Thượng đỉnh tại Campuchia vào tháng 11/2002. Nhằm phản ứng với thỏa thuận này, Nhật
Bản cũng muốn theo đuổi hợp tác với ASEAN và sau đó FTA giữa Nhật Bản và Singapore đã
được ký kết vào tháng 1/2002 và trong năm 2003, Nhật Bản đã thúc đẩy FTA với các nước thành
viên ASEAN và ký thỏa thuận khung về đối tác kinh tế toàn diện với ASEAN tại Hội nghị thượng
định Bali, Indonesia.
Trong thời gian gần đây, ngày càng có sự đồng thuận tăng lên giữa các nước ASEAN+3 về việc
Đông Á cần tăng cường khối thương mại khu vực để đương đầu với các FTA ở các khu vực
khác. Những cuộc thảo luận về FTA Đông Á thực tế đã được khởi xướng tại Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN+3 tại Manila vào tháng 11/1999. Tại cuộc họp thượng đỉnh tại Bandar Seri Begawan vào
tháng 11/2001, các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các nước Đông
Á theo hướng liên kết khu vực ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trong quá trình đàm phán FTA với Trung Quốc, ASEAN đã thuyết phục Nhật Bản, Hàn Quốc và
Ấn Độ hình thành đối tác kinh tế chặt chẽ hơn. Liên kết kinh tế khu vực trong quá trình ASEAN+1
có thể tạo ra một khối kinh tế quan trọng trong việc thiết lập thị trường liên kết Đông Á. Mặc dù
các nước ASEAN+3 có những quan điểm khác nhau với khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và
Đông Á (EAFTA) và có sự tin tưởng rằng EAFTA có thể giúp thúc đẩy thương mại và đầu tư trong
khu vực.
3. Tiến triển các FTA song phương ở Đông Á:
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á, xu hướng của chủ nghĩa khu vực đã tăng lên ở
Đông Á do nhiều FTA đang được thảo luận giữa các nước ASEAN với Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Mỹ, Mexico, Chilê, Úc, Niu zi lân. Điều này cho thấy rằng các nền kinh tế Đông Á
đang bắt đầu chú ý vào các FTA do sự mở rộng của chủ nghĩa khu vực trên thế giới. Tuy nhiên,
sau cuộc khủng hoảng tài chính đã tăng lên sự hiểu biết về tầm quan trọng của sự phụ thuộc
trong khu vực và nỗ lực lớn hơn tập trung vào các khía cạnh chiến lược của liên kết kinh tế trong
khu vực. Thực tế là khó có thể đạt được kết quả nhanh chóng từ việc tự do hóa thương mại đa
phương trong hệ thống WTO vì có quá nhiều nước tham gia. Ngược lại, các FTA lại có khả năng
tự do hóa thương mại sâu rộng hơn nhờ có các cuộc đàm phán tương đối thuận lợi. Do đó, FTA
trở thành vấn đề chính trong việc thúc đẩy xuất khẩu của các nền kinh tế Đông Á.
ASEAN đã chuyển đổi thành một thực thể khu vực độc nhất cùng với việc mở rộng chủ nghĩa khu
vực đã xảy ra ở Đông Á sau cuộc khủng hoảng tài chính. Do các nước Đông Á bắt đầu nhận ra
tầm quan trọng của yêu cầu đối với chủ nghĩa khu vực, FTA đã trở thành vấn đề chính. Cụ thể là,
thông qua các cuộc họp thường xuyên của Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3, các nền kinh tế Đông
Á đang thúc đẩy mạnh mẽ các FTA và các nước ASEAN cũng đang thúc đẩy đàm phán FTA với
các nước ngoài khu vực Đông Á bao gồm Úc, Ấn Độ và Mỹ.
Trước cuộc khủng hoảng, hầu hết các nước ASEAN có suy nghĩ tiêu cực về việc thúc đẩy các
FTA song phương với các khu vực khác do e ngại rằng sự đoàn kết nội khối có thể bị tổn thương.
Mặc dù ASEAN đang thúc đẩy mục tiêu chiến lược mở rộng hợp tác kinh tế trong khu vực, mỗi
thành viên đang có sự tiếp cận khác nhau với sự hợp tác này. Malaysia và một số nước thành
viên khác đã chỉ trích các nước thành viên ASEAN việc hình thành các FTA song phương có thể
làm suy yếu các thỏa thuận khu vực chẳng hạn như AFTA và cho phép các nền kinh tế ngoài khu
vực tham gia vào thị trường khu vực. Tuy nhiên, Singapore và Thái Lan đã thông qua chiến lược
bảo đảm các FTA song phương.
Singapore đã ký Hiệp định thương mại tự do song phương với Niu zi lân, Nhật Bản, EFTA, Úc và
Mỹ và đang đàm phán để hình thành FTA với Mexico, Canada, Hàn Quốc và Ấn Độ. Thái Lan
đang xem xét FTA với Úc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ. Trong khi đó Philippines đang xem xét FTA với
Mỹ và đang đàm phán để hình thành FTA với Nhật Bản. Singapore đã tiết lộ chiến lược phát triển
quốc gia mới vào tháng 2/2003 về mong muốn khả năng trở thành thành phố dẫn đầu toàn cầu.
Thái Lan đã thúc đẩy FTA với các nền kinh tế lớn như Mỹ và Nhật Bản, chính phủ Thái Lan đã lựa
chọn các đối tác FTA tiềm năng bao gồm Mỹ, Úc, Bahrain, Peru, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Các cuộc thảo luận FTA tích cực gần đây liên quan tới Ấn Độ, Thái Lan và Singapore và việc thúc
đẩy FTA giữa Ấn Độ và ASEAN đang góp phần vào sự tăng lên của chủ nghĩa khu vực ở Đông Á,
mở rộng xu hướng mới đối với quan hệ kinh tế giữa Ấn Độ và ASEAN. Năm 2001, Trung Quốc và
Nhật Bản đã tiến hành thảo luận FTA với ASEAN và các cuộc thảo luận này tăng lên liên tục. Tại
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 tại Phnom Penh vào tháng 11/2002, ASEAN và Trung Quốc đã
thông qua thỏa thuận về việc thiết lập FTA vào năm 2010, ASEAN và Ấn Độ đạt được thỏa thuận
về việc xúc tiến hình thành FTA.
Một thỏa thuận hợp tác toàn diện đã được kết thúc tại Hội nghị thượng đỉnh giữa ASEAN – Ấn Độ
tại Bali vào tháng 10/2003. Đây là bước đầu tiên tiến tới việc tăng cường cơ sở hợp tác cơ cấu
đối với hiệp định thương mại khu vực. Điều này cũng góp phần vào việc hình thành cơ sở hợp tác
kinh tế ASEAN. Mặc dù giới hạn về thời gian để hòan thành đàm phán về FTA đã được kéo dài
trong 10 năm, nếu Ấn Độ cố gắng đạt được FTA với Thái Lan và Singapore thì ảnh hưởng về kinh
tế và chính trị sẽ rất có ý nghĩa đối với hợp tác khu vực và ở Đông Á nói chung.
4. Sự phát triển của FTA giữa ASEAN – Hàn Quốc:
Trong nhịp bước hối hả nhằm đạt được các hiệp định thương mại tự do, Hàn Quốc đã hoàn thành
nghiên cứu chung về FTA với Nhật Bản và Singapore vào tháng 9/2003 và bắt đầu đàm phán
chính thức với cả hai nước này vào đầu năm 2004. Hàn Quốc và Singapore đã tiến hành 10 vòng
đàm phán từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2004 và kết thúc một thỏa thuận FTA toàn diện gồm 9
lĩnh vực về thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, thỏa thuận công nhận
lẫn nhau (MRA), sở hữu trí tuệ.
Ngoài hai hiệp định FTA song phương này, Hàn Quốc đang theo đuổi FTA với ASEAN như là một
thực thể. Vì mục tiêu này, Hàn Quốc và ASEAN đã hình thành nhóm chuyên gia về ASEAN – Hàn
Quốc nhằm chuẩn bị báo cáo về nghiên cứu chung về quan hệ kinh tế toàn diện và chặt chẽ hơn
giữa ASEAN và Hàn Quốc. Tại hội nghị tham vấn giữa các Bộ trưởng kinh tế ASEAN và Hàn
Quốc vào tháng 9/2004 tại Jakarta, Indonesia, các Bộ trưởng đã hoan nghênh đề xuất thiết lập
Khu vực thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA). Cuối cùng, các nhà lãnh đạo đã đưa ra
Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện giữa ASEAN và Hàn Quốc và quyết định tiến hành đàm
phán AKFTA tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Hàn Quốc tại Lào vào tháng 11/2004.
Các cuộc đàm phán hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA) đã được
bắt đầu từ tháng 2/2005 và hy vọng sẽ hoàn thành trong vòng 2 năm. AKFTA hy vọng sẽ mang lại
mức độ tự do hóa cao với thời hạn nhanh hơn. Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Hàn Quốc vào
tháng 12/2005 tại Kuala Lumpur, Malaysia, các nhà lãnh đạo đã ký Hiệp định khung về hợp tác
kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Hàn Quốc và cũng hoan nghênh việc ký kết Hiệp định thương
mại hàng hóa và Hiệp định về cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định khung về
hợp tác kinh tế toàn diện.
Theo FTA giữa ASEAN-Hàn Quốc, Hàn Quốc sẽ loại bỏ hoàn toàn thuế đối với ít nhất 95% dòng
thuế trong danh mục thông thường vào năm 2008, trong khi ASEAN-6 sẽ loại bỏ tất cả thuế đối
với ít nhất 90% dòng thuế trong danh mục thông thường vào năm 2009. Vào năm 2010, Hàn
Quốc sẽ loại bỏ hoàn toàn thuế đối với các dòng thuế trong danh mục thông thường và đối với
ASEAN-6 là 2012.
Hiệp định về thương mại hàng hóa bao gồm các qui định về đối xử đặc biệt và khác biệt, sự linh
hoạt bổ sung dành cho các thành viên mới của ASEAN (CLMV). AKFTA có khung thời gian khác
nhau đối với Hàn Quốc, ASEAN-6 và các nước CLMV. CLMV sẽ có đối xử ưu đãi do trình độ phát
triển kinh tế thấp với thời hạn giảm thuế trong danh mục thông thường, ví dụ với Campuchia vào
2018.
Mặc dù hội nhập kinh tế sâu rộng hơn trong cộng đồng Đông Á thực sự có lợi thì điều cơ bản là
phải đảm bảo câu trả lời gắn kết với những thách thức mới trong nền kinh tế toàn cầu để gặt hái
được lợi ích của tự do hóa. Trong môi trường như vậy, điều quan trọng là Tuyên bố chung về Đối
tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Hàn Quốc và nghiên cứu chung toàn diện về liên kết kinh tế
chặt chẽ hơn giữa hai bên sẽ tập trung không chỉ vào thúc đẩy hợp tác kinh tế mà còn mang lại
hiểu biết sâu rộng hơn đối với nền tảng hợp tác ASEAN-Hàn Quốc trong thế kỷ 21. Hợp tác
ASEAN+3 vẫn là động lực tin cậy và thực tế đối với hợp tác khu vực Đông Á và các nước thành
viên đều có lợi ích chiến lược trong hợp tác khu vực.
UBQG (Tô Cẩn – theo nghiên cứu của Viện Chính sách kinh tế quốc tế của Hàn Quốc
CHÍNH SÁCH FTA CỦA HÀN QUỐC: BÀI HỌC TỪ HÀN QUỐC – CHI
LÊ FTA
Ngày 24/10/2002, Hàn Quốc đã ký kết Hiệp định thành lập Khu vực Thương
mại Tự do với Chi lê (KCFTA) sau gần 3 năm đàm phán với không ít khó
khăn, trở ngại từ cả phía đối tác lẫn sự phản đối trong nước. Quá trình
đàm phán KCFTA đã cho thấy những khía cạnh quan trọng định hình
chính sách FTA của Hàn Quốc trong tương lai.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao một nước Đông Á vốn có truyền thống không
mặn mà với chủ nghĩa khu vực như Hàn Quốc lại thay đổi để theo đuổi chính
sách FTA. Điều này có thể lý giải bởi 3 nguyên nhân. Thứ nhất là sự bùng nổ
của các FTA từ khi Tổ chức Thương mại (WTO) ra đời vào năm 1995. Theo
thống kê của WTO, từ năm 1995 đến đầu năm 2003, 130 FTA được thành lập
(con số này là 124 trong vài thập kỷ trước đó). Ước tính trong năm 2005, 51%
thương mại thế giới được thực hiện trong khuôn khổ các FTA. Thứ hai là phạm
vi, nội dung hợp tác của các FTA ngày càng mở rộng. Không chỉ gói gọn trong
việc cắt giảm thuế quan và loại bỏ các rào cản phi thuế quan, các FTA gần đây
đã mở rộng phạm vi điều chỉnh sang các lĩnh vực khác như đầu tư, dịch vụ, mua
sắm chính phủ, quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh… Điều này
đã khiến nội dung thoả thuận của các FTA ngày càng toàn diện. Thứ ba là sự
cạnh tranh của các nền kinh tế lớn trong chính sách FTA. Trong bối cảnh chung
đó, các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, EU đều có chiến lược FTA. Đặc biệt, tại
Đông Á, Trung Quốc và Nhật Bản đã xúc tiến đàm phán thành lập FTA với
ASEAN. Là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, trong đó thương mại quốc tế
chiếm hơn 70% quy mô kinh tế, Hàn Quốc sẽ gặp phải khó khăn lớn nếu không
có những thoả thuận ưu đãi đối với các nước đã ký FTA với các đối thủ cạnh
tranh của Hàn Quốc. Có thể lấy trường hợp Chi lê làm ví dụ. Ô tô Hàn Quốc
chiếm khoảng 25% thị trường ô tô của Chi lê, chỉ đứng hàng thứ hai sau Nhật
Bản (chiếm 35%). Các đối thủ cạnh tranh khác của Hàn Quốc tại đây là Hoa Kỳ,
Mexico, EU, Brazil và Argentina. Bắt đầu từ năm 2003, tất các các nước này
ngoại trừ Nhật Bản đều xuất khẩu ô tô miễn thuế theo FTA ký với Chi lê. Thuế
nhập khẩu ô tô chiếm từ 8-10% giá tiêu dùng khiến các nước xuất khẩu ô tô vào
Chi lê có lợi thế cạnh tranh lớn so với Hàn Quốc. Điều này đã khiến các công ty
Hàn Quốc gây sức ép buộc Chính phủ phải đàm phán FTA với Chi lê.
Tiến trình đàm phán
Hàn Quốc bắt đầu đàm phán FTA với Chi Lê từ tháng 12/1999 và kết thúc vào
tháng 10/2002. 80% nội dung thoả thuận đạt được ngay trong năm đầu tiên.
20% còn lại phải mất 2 năm đàm phán chủ yếu do bất đồng giữa hai bên trong
việc cắt giảm thuế quan đối với các sản phẩm nông nghiệp. Chi Lê yêu cầu Hàn
Quốc mở cửa thị trường nông sản vì Hàn Quốc có mức thuế suất trên 100% đối
với nhiều hàng nông sản. Hơn nữa, Chi Lê có khả năng cạnh tranh đối với một
số mặt hàng hoa quả Hàn Quốc duy trì bảo hộ rất cao như táo, lê và nho.
Ngược lại, Hàn Quốc yêu cầu Chi Lê mở cửa thị trường đối với các mặt hàng
công nghiệp. Đàm phán gần như bế tắc cho đến tháng 2/2002 khi Hàn Quốc
nhượng bộ với việc đưa ra đề xuất mới: Hàn Quốc đồng ý mở cửa thị trường
đối với một số nông sản ít bị tác động của FTA hơn, đối với một số sản phẩm
sữa và bột ngọt, Hàn Quốc đồng ý về nguyên tắc sẽ cắt giảm thuế nhưng đàm
phán sau khi vòng Doha kết thúc. Đổi lại, Chi Lê phải cắt giảm thuế đối với các
mặt hàng công nghiệp, đặc biệt là ô tô, điện thoại di động, máy tính và dầu
diesel. Hàn Quốc chấp nhận yêu cầu của Chi Lê về việc không cắt giảm thuế đối
với 2 mặt hàng tủ lạnh và máy giặt để đổi lấy việc Hàn Quốc không cắt giảm
thuế đối với táo, lê và gạo.
Những nội dung chính của KCFTA
Hiệp định Thương mại tự do Hàn Quốc – Chi Lê (KCFTA) có 21 chương quy
định các lĩnh vực hợp tác bao gồm: thương mại hàng hoá (mở cửa thị trường,
quy tắc xuất xứ ưu đãi, thủ tục hải quan…), đầu tư, dịch vụ, các quy định
thương mại (chống bán phá giá, tự vệ, chính sách cạnh tranh, giải quyết tranh
chấp), quyền sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, các biện pháp vệ sinh dịch tễ
và các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại. Nội dung tóm tắt các quy định
chính như sau:
1. Cắt giảm thuế quan và các rào cản phi thuế quan:
Như trên đã trình bày, mục tiêu chính của Hàn Quốc trong FTA với Chi Lê là mở
cửa thị trường Chi Lê cho các mặt hàng công nghiệp của Hàn Quốc, và ngược
lại Chi Lê muốn Hàn Quốc mở cửa thị trường nông sản. Nhìn vào danh mục
cam kết, cả hai bên đều phần nào đạt được mục đích.
Danh mục cắt giảm hàng nông sản của Hàn Quốc (gồm 1.432 dòng thuế) khá
phức tạp, được chia thành 10 lộ trình cắt giảm. Lộ trình cắt giảm ngay và sau 5
năm gồm các mặt hàng ít bị tác động như thức ăn cho gia súc, động vật thuần
chủng, sợi tơ; cắt giảm sau từ 7-16 năm gồm hoa quả chế biến, lương thực và
thực phẩm. Thuế theo thời vụ (seasonal tariff) áp dụng đối với nho của Chi Lê
trong thời gian từ tháng Mười đến tháng Tư khi không có vụ thu hoạch nho ở
Hàn Quốc. Sau 10 năm sẽ bãi bỏ loại thuế theo thời vụ này. Các mặt hàng chịu
hạn ngạch thuế quan và sẽ được tiếp tục đàm phán sau vòng Doha (TRQ+DDA)
gồm thịt bò, gà, váng sữa (whey) và mận. Các mặt hàng sẽ được đàm phán sau
vòng Doha gồm tỏi, hành, hạt tiêu và một số sản phẩm sữa. Các mặt hàng loại
trừ hoàn toàn, nghĩa là không cắt giảm thuế mà giữ nguyên mức thuế suất hiện
tại, gồm gạo, táo và lê.
Danh mục cắt giảm thuế đối với hàng công nghiệp của Chi Lê đơn giản hơn,
được chia thành 6 lộ trình. Chi Lê đồng ý cắt giảm ngay đối với ô tô, điện thoại
di động, máy tính vốn chiếm 66% tổng kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc sang
Chi Lê. Hai mặt hàng loại trừ hoàn toàn gồm máy giặt và tủ lạnh.
Hai bên đồng ý bãi bỏ các hạn chế định lượng cũng như các rào cản phi thuế
quan khác như giấy phép nhập khẩu. Đối với các sản phẩm nông nghiệp sẽ áp
dụng quy định theo Hiệp định Nông nghiệp của WTO.
2. Khuyến khích đầu tư và mở rộng thương mại dịch vụ
Trong lĩnh vực đầu tư, hai bên dành cho nhau chế độ đối xử quốc gia và tối huệ
quốc, đồng thời không đặt ra yêu cầu về quốc tịch đối với giám đốc điều hành
nhằm thúc đẩy đầu tư. Phạm vi đầu tư bao gồm cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp.
Sau 4 năm kể từ khi FTA có hiệu lực, hai bên sẽ đàm phán về bảo hộ đầu tư đối
với các thể chế tài chính như ngân hàng, bảo hiểm, các công ty tài chính…
Trong lĩnh vực dịch vụ, hai bên sẽ xây dựng một hệ thống giám sát để đảm bảo
đối xử quốc gia đối với các nhà cung cấp dịch vụ, cấm các biện pháp hạn chế
và tạo thuận lợi cho thương mại dịch vụ giữa hai nước. Các lĩnh vực dịch vụ
không cam kết gồm: dịch vụ công phi thương mại, tài chính, hàng không, mua
sắm chính phủ và trợ cấp.
3. Các quy định thương mại khác
Hai bên chỉ áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng nông sản. Hai bên sẽ hợp
tác trong lĩnh vực chính sách cạnh tranh để ngăn ngừa các biện pháp chống
cạnh tranh. Hai bên cũng nhất trí thành lập Uỷ ban Thương mại Tự do để giám
sát việc thực hiện Hiệp định, đánh giá tác động của FTA cũng như các vấn đề
khác liên quan đến Hiệp định. Khi một vấn đề tranh chấp nảy sinh thuộc phạm vi
điều chỉnh của cả FTA và Hiệp định về Giải quyết Tranh chấp của WTO, hai bên
có thể lựa chọn một trong hai cơ chế đó để giải quyết tranh chấp.
4. Mở cửa thị trường mua sắm chính phủ
Hai bên sẽ tự do hoá thị trường mua sắm chính phủ trừ một vài hạn chế nhất
định. Các nguyên tắc đối xử quốc gia và tối huệ quốc sẽ được áp dụng; cấm các
biện pháp phân biệt đối xử về ưu đãi mua sắm hàng hoá trong nước cũng như
thực hiện đền bù.
5. Tăng cường bảo hộ Quyền sở hữu trí tuệ
Hai bên sẽ thúc đẩy việc bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ, kể cả các nhãn hiệu
hàng hoá nổi tiếng. Hai bên cũng thoả thuận bảo hộ các chỉ dẫn địa lý đối với
các sản phẩm, gồm: nhân sâm Hàn Quốc (Korean Ginseng), kim chi Hàn Quốc
(Korean Kimchi), chè Boseong, Pisco và các sản phẩm liên quan của Chi Lê.
6. Quy tắc xuất xứ
Các quy định về quy tắc xuất xứ của KCFTA chủ yếu dựa trên các quy định của
FTA giữa EU và Chi Lê và NAFTA, có điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm
thương mại và cơ cấu ngành của hai nước. Đặc biệt quy tắc xuất xứ đối với các
sản phẩm nông nghiệp được quy định rất chặt chẽ để tránh việc nhập khẩu
thông qua một nước thứ ba.
Ý nghĩa của KCFTA đối với Hàn Quốc
Kết quả của đàm phán FTA với Chi Lê có ý nghĩa rất quan trọng đối với Hàn
Quốc vì đây là thoả thuận FTA đầu tiên của Hàn Quốc.
Thứ nhất, Hàn Quốc đã đạt được mục tiêu lợi ích kinh tế khi tiếp cận thị trường
Chi Lê đối với nhiều mặt hàng chủ chốt như ô tô, điện thoại di động, máy tính và
dầu diesel trong khi vẫn bảo hộ được đối với một số mặt hàng nông nghiệp có
tính nhạy cảm cao.
Thứ hai, là thoả thuận thương mại tự do đầu tiên của Hàn Quốc, KCFTA đã mở
đường cho quá trình hội nhập khu vực của đất nước này. Việc ký kết thoả thuận
FTA với Chi Lê đã nâng cao nhận thức cũng như thu hút sự ủng hộ của công
chúng đối với chính sách FTA. Đặc biệt, việc Hàn Quốc có thể đạt được một
thoả thuận về hàng nông sản cho thấy cam kết mạnh mẽ của chính phủ đối với
chính sách FTA. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc đàm phán FTA giữa Hàn
Quốc với các đối tác thương mại tiềm năng trong tương lai như Mỹ, Nhật Bản
và ASEAN…
Thứ ba, Hàn Quốc đã tạo dựng một chỗ đứng thương mại tại thị trường Mỹ La
tinh vì Chi Lê là một phần của thị trường chung Mỹ La tinh và ½ thặng dư
thương mại của Chi Lê là từ thị trường này.
Thực tế đàm phán KCFTA cho thấy khó khăn lớn nhất của Hàn Quốc chính là
đàm phán liên quan đến một số lượng nhỏ các mặt hàng nông nghiệp. Mặc dù
Chi Lê không phải là một đối tác cạnh tranh lớn với Hàn Quốc trong lĩnh vực
nông nghiệp nhưng hai bên cũng đã phải mất tới hơn hai năm để đạt được thoả
hiệp. Điều đó cho thấy việc đàm phán FTA với các đối tác khác sẽ còn khó khăn
hơn rất nhiều.
UBQG (Cẩm Thơ
Tạo điều kiện tốt hơn cho các nhà đầu tư
Phỏng vấn ông Lee Sang Hak, Tham tán kinh tế Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam
Thưa ông, sau 12 năm thiết lập, quan hệ VN và Hàn Quốc đã đạt được những kết quả
gì, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, kinh tế?
Hai nước, đã đạt được nhiều thành tựu trong hợp tác song phương, cả về chính trị, văn
hoá và kinh tế. Năm 1992, quan hệ mậu dịch mới đạt 500.000 USD thì năm 2003 đã đạt
3,2 tỷ USD. Hàn Quốc đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài vào VN đứng hàng thứ 4.
Nếu như năm 1992, Hàn Quốc mới đầu tư vào VN 186 triệu USD thì đến nay đã đạt trên
4,4 tỷ USD, gấp 25 lần. Tôi muốn nhấn mạnh rằng chỉ sau 12 năm thiết lập quan hệ
nhưng tốc độ phát triển quan hệ giữa hai nước rất nhanh. Đó là đánh giá của các
chuyên gia kinh tế VN.
Thế còn đánh giá của ông và các chuyên gia kinh tế Hàn Quốc về đầu tư của Hàn Quốc vào
VN?
Vào thời điểm 2001, đầu tư của Hàn Quốc vào VN đứng thứ 8 trong tổng vốn đầu tư của Hàn
Quốc ra nước ngoài và đến năm 2003 thì đứng thứ 2. VN là nước được nhận nhiều nhất vốn
ODA của Hàn Quốc. Tháng 9/2003, trong chuyến thăm Hàn Quốc của Thủ tướng Phan Văn
Khải, Chính phủ Hàn Quốc đã hứa sẽ hỗ trợ VN xây dựng trường Đại học IT Đà Nẵng 10 triệu
USD. Như vậy, Chính phủ Hàn Quốc rất quan tâm tới VN.
Còn quan hệ mậu dịch thì thế nào, thưa ông? Được biết hiện cán cân thương mại giữa VN và
Hàn Quốc đang chênh lệch rất lớn, VN nhập siêu từ Hàn Quốc?
Năm 2003, Hàn Quốc XK sang VN 2.624 triệu USD, chủ yếu là vải kiện, phụ tùng ôtô, máy
móc thiết bị phục vụ cho ngành dệt may của các DN Hàn Quốc đang hoạt động tại VN. Hàn
Quốc nhập khẩu của VN 492 triệu USD, chủ yếu là hàng thuỷ sản, nông thổ sản. Tôi cho rằng
do cơ cấu kinh tế của hai nước khác nhau nên đã tạo ra sự không cân bằng trong cán cân
thương mại.
Ông có thể cho biết về tình hình đầu tư của các DN Hàn Quốc tại VN?
Hiện tại có khoảng 700 DN Hàn Quốc đang hoạt động, với số lao động VN làm việc trên
200.000 người. Theo kết quả điều tra 224 DN Hàn Quốc từ tháng 3 đến tháng 8/2004 của Đại
sứ quán và Phòng XTTM & ĐT Hàn Quốc tại Hà Nội, thì số vốn đầu tư trung bình của mỗi DN
tại VN là 3 triệu USD, tập trung vào các ngành công nghiệp chế tạo, dệt may. Mục đích đầu tư
là XK sản phẩm sang nước thứ 3 hoặc tiêu thụ tại thị trường nội địa VN. Đáng lưu ý là có tới
55,6% nhà đầu tư Hàn Quốc đang hoạt động có lãi.
Các nhà đầu tư đánh giá thế nào về môi trường đầu tư, theo ông làm thế nào để thu hút nhiều
hơn vốn đầu tư?
Có tới 92,6% các nhà đầu tư Hàn Quốc đánh giá tích cực về môi trường đầu tư VN và 85,1%
cho rằng nguồn nhân lực có năng lực là thế mạnh lớn nhất của VN. Tuy nhiên, họ vẫn gặp
phải một số khó khăn, lớn nhất là thiếu thông tin về những sửa đổi của văn bản pháp luật mà
chưa có một cơ quan nào hướng dẫn, khó khăn về nguyên liệu đầu vào, tình trạng quan liêu,
tham nhũng phiền hà trong thủ tục hành chính... Nếu hạn chế được, các nhà đầu tư sẽ tìm
đến VN nhiều hơn.
TBKTVN
Hội nhập kinh tế ASEAN và hợp tác ASEAN - Hàn Quốc
Từ những năm 1990, ASEAN đã thúc đẩy hội nhập kinh tế nhằm hướng tới một thị trường
chung. Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) được thành lập từ năm 1992 nhằm loại
bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên ASEAN và tạo ra một thị trường khu vực
với 686,3 tỉ USD cho 541,9 triệu người thông qua việc tăng số lượng thành viên gồm cả
Việt Nam, Myanmar, Lào, Campuchia (CLMV). Các nhà lãnh đạo ASEAN đã thỏa thuận loại
bỏ tất cả thuế nhập khẩu vào năm 2010 đối với 6 nước thành viên ban đầu của ASEAN và
vào 2015 đối với 4 nước thành viên mới (CLMV).
Sau khủng hoảng tài chính, ASEAN đã có những bước đi quan trọng hướng tới hội nhập khu vực
thông qua sáng kiến ASEAN cộng 3 nhằm tăng cường vị trí thông qua việc hiện thực hóa AFTA
sớm hơn thông qua hình thức hợp tác kinh tế và chính trị. Gần đây, ASEAN đang nỗ lực để tăng
cường hội nhập cùng với việc mở rộng và tăng cường liên kết kinh tế với các nước Đông Bắc Á.
Hiện nay, có rất nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa ASEAN và các nước đang được
thảo luận nhằm phản ánh rõ ràng xu hướng hội nhập kinh tế của ASEAN kể từ sau cuộc khủng
hoảng tài chính.
Hàn Quốc cũng có sự quan tâm chặt chẽ với quá trình hội nhập kinh tế ASEAN cũng như nỗ lực
của ASEAN nhằm xây dựng hợp tác kinh tế toàn diện với các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn
Độ. Trong những thập kỷ qua, ASEAN và Hàn Quốc là những đối tác kinh tế quan trọng, thương
mại và đầu tư song phương giữa Hàn Quốc và ASEAN tăng lên vững chắc trong những năm vừa
qua. Hiện nay ASEAN đứng thứ 3 trong nguồn đầu tư FDI từ Hàn Quốc và đứng thứ 5 về thương
mại.
Thông qua các hình thức hợp tác kinh tế chặt chẽ, ASEAN và Hàn Quốc đã xây dựng thành công
mối quan hệ đa dạng và toàn diện cũng như hệ thống đối thoại. Kết quả là các nhà lãnh đạo
ASEAN và Hàn Quốc đã thống nhất thông qua Tuyên bố chung về đối tác hợp tác toàn diện và
quyết định tiến hành đàm phán Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) tại Hội
nghị Thượng đỉnh vào tháng 11/2004 tại Lào. Các cuộc đàm phán AKFTA đã được khởi động từ
đầu năm 2005 và sẽ được hoàn tất trong vòng 2 năm.
1. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN:
Do hội nhập với nền kinh tế toàn cầu tăng lên, ASEAN đang phải đương đầu với các cơ hội và
thách thức quan trọng bao gồm yêu cầu về hội nhập tốt hơn của các thành viên mới vào nền kinh
tế khu vực và toàn cầu. Các nhà lãnh đạo ASEAN đã thỏa thuận sáng kiến về liên kết ASEAN
(IAI) và lịch trình hội nhập của ASEAN (RIA), theo đó lợi ích của hội nhập ASEAN được chia sẻ.
Tuy nhiên, từ tháng 1/2002, ASEAN đã thông qua hệ thống liên kết ASEAN về chương trình ưu
đãi mà theo đó thuế ưu đãi sẽ được các nước thành viên cũ của ASEAN dành cho các thành viên
mới trên cơ sở tự nguyện và thỏa thuận song phương dựa trên những sản phẩm do các nước
CLMV đưa ra.
Vào tháng 11/2000, các nhà lãnh đạo ASEAN thỏa thuận đưa ra sáng kiến liên kết ASEAN nhằm
định hướng và tập trung vào các nỗ lực chung của ASEAN trong việc thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa các thành viên cũ và thành viên mới của ASEAN. Để hiện thực hóa mục tiêu này, các
nhà lãnh đạo ASEAN tại cuộc họp Thượng đỉnh tại Phnom Penh vào tháng 11/2002 đã thông qua
Chương trình hành động nhằm đảm bảo sự tăng trưởng năng động và bền vững của khu vực và
sự thịnh vượng của người dân ASEAN.
Kế hoạch hành động 6 năm hiện nay (từ tháng 7/2002 – tháng 6/2008) đối với các nước CLMV đã
được phát triển nhằm hỗ trợ những nước này theo kịp với các nước thành viên cũ với tốc độ ngày
càng tăng. Chương trình hợp tác này tập trung vào 4 lĩnh vực ưu tiên, chủ yếu là phát triển cơ sở
hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, công nghệ thông tin và viễn thông, thúc đẩy hội nhập kinh tế
khu vực về thương mại hàng hóa và dịch vụ, hải quan, tiêu chuẩn và đầu tư ở các nước CLMV.
Đến tháng 1/2005, đã có 84 dự án trong Kế hoạch hành động này ở các giai đoạn thực hiện khác
nhau. Nguồn tài trợ đã được đảm bảo cho 66 dự án chiếm 78,6%, trong đó 28 dự án đã được
hoàn thành, 14 dự án đang được thực hiện. Ngoài việc đóng góp của các nước thành viên
ASEAN-6 đối với Kế hoạch hành động này, 11 bên đối thoại và các tổ chức phát triển cũng ủng
hộ các dự án thông qua việc tài trợ với tổng số 14,1 triệu USD. Năm nhà tài trợ hàng đầu là Nhật
Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, UNIDO và Úc chiếm tổng số 13 triệu USD (hoặc 82,6% nguồn tài trợ).
Chính phủ Hàn Quốc đã đồng ý đóng góp 5 triệu USD trong 5 năm để tài trợ cho các dự án IAI.
Để thực hiện hiệu quả các dự án này, chính phủ Hàn Quốc đã ủy nhiệm cho Cơ quan hợp tác
quốc tế của Hàn Quốc (KOICA) là cơ quan thực hiện các dự án. Đến tháng 11/2004, nguồn cam
kết của các nước thành viên ASEAN-6 là: Brunei cam kết 1,5 triệu USD, Malaysia: 0,8 triệu USD,
Indonesia: 0,6 triệu USD, Singapore: 0,47 triệu USD, Thái Lan: 0,41 triệu USD.
2. Tăng cường liên kết kinh tế với Đông Á:
Mặc dù có nhiều nỗ lực nhằm sớm hiện thực hóa liên kết thị trường khu vực và tiềm năng của thị
trường Đông Nam Á, AFTA về cơ bản vẫn còn nhỏ về qui mô kinh tế so với EU và NAFTA và
những hạn chế về cơ cấu liên quan tới hợp tác Nam-Nam. AFTA cơ bản đại diện cho sự liên kết
chung giữa các nước đang phát triển và chưa đủ khả năng khẳng định sự đoàn kết kinh tế mạnh
mẽ do thiếu vắng nền kinh tế dẫn đầu cũng như sự đồng thuận và ổn định chính trị.
Để giải quyết những yếu kém về cơ cấu, ASEAN đã cố gắng mở rộng hợp tác kinh tế với các
nước Đông Bắc Á, đưa ra nhiều thỏa thuận hợp tác vượt ra khỏi Đông Nam Á. Điều này đã dẫn
đến việc hình thành Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) nhằm cho phép ASEAN+3 bao gồm
ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc có thể phát triển mối liên kết với các khu vực khác ví
dụ như Châu Âu.
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, đã có sự chuyển động rõ rệt đối với sự hợp tác ở
Đông Á. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 đầu tiên được tổ chức vào tháng 12/1997 và sự hợp tác
này phát triển mạnh nhất từ năm 1998 đến năm 2001. Hiện nay sự hợp tác này chủ yếu là đối
thoại về liên kết kinh tế, các vấn đề về chính trị, văn hóa xã hội ... ở Đông Á.
Cơ sở hợp tác ASEAN+3 là một nhân tố quan trọng nhằm thúc đẩy hợp tác khu vực ở Đông Á.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính, các nước Đông Á nhận ra yêu cầu phải liên kết kinh tế chặt chẽ
hơn và phát triển lợi ích trong việc thúc đẩy các hiệp định thương mại tự do (FTA). Đến nay, đã có
rất nhiều nghiên cứu và các cuộc đàm phán FTA song phương đang diễn ra giữa các nước Châu
Á nhằm tằng cường xung lực mới cho hội nhập kinh tế khu vực.
Tại hội nghị Thượng đỉnh ASEAN+3 tại Singapore vào năm 2000, Trung Quốc đã đưa ra đề nghị
hình thành FTA với ASEAN và FTA ASEAN-Trung Quốc đã chính thức được thỏa thuận tại hội
nghị Thượng đỉnh tại Campuchia vào tháng 11/2002. Nhằm phản ứng với thỏa thuận này, Nhật
Bản cũng muốn theo đuổi hợp tác với ASEAN và sau đó FTA giữa Nhật Bản và Singapore đã
được ký kết vào tháng 1/2002 và trong năm 2003, Nhật Bản đã thúc đẩy FTA với các nước thành
viên ASEAN và ký thỏa thuận khung về đối tác kinh tế toàn diện với ASEAN tại Hội nghị thượng
định Bali, Indonesia.
Trong thời gian gần đây, ngày càng có sự đồng thuận tăng lên giữa các nước ASEAN+3 về việc
Đông Á cần tăng cường khối thương mại khu vực để đương đầu với các FTA ở các khu vực
khác. Những cuộc thảo luận về FTA Đông Á thực tế đã được khởi xướng tại Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN+3 tại Manila vào tháng 11/1999. Tại cuộc họp thượng đỉnh tại Bandar Seri Begawan vào
tháng 11/2001, các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các nước Đông
Á theo hướng liên kết khu vực ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trong quá trình đàm phán FTA với Trung Quốc, ASEAN đã thuyết phục Nhật Bản, Hàn Quốc và
Ấn Độ hình thành đối tác kinh tế chặt chẽ hơn. Liên kết kinh tế khu vực trong quá trình ASEAN+1
có thể tạo ra một khối kinh tế quan trọng trong việc thiết lập thị trường liên kết Đông Á. Mặc dù
các nước ASEAN+3 có những quan điểm khác nhau với khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và
Đông Á (EAFTA) và có sự tin tưởng rằng EAFTA có thể giúp thúc đẩy thương mại và đầu tư trong
khu vực.
3. Tiến triển các FTA song phương ở Đông Á:
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á, xu hướng của chủ nghĩa khu vực đã tăng lên ở
Đông Á do nhiều FTA đang được thảo luận giữa các nước ASEAN với Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Mỹ, Mexico, Chilê, Úc, Niu zi lân. Điều này cho thấy rằng các nền kinh tế Đông Á
đang bắt đầu chú ý vào các FTA do sự mở rộng của chủ nghĩa khu vực trên thế giới. Tuy nhiên,
sau cuộc khủng hoảng tài chính đã tăng lên sự hiểu biết về tầm quan trọng của sự phụ thuộc
trong khu vực và nỗ lực lớn hơn tập trung vào các khía cạnh chiến lược của liên kết kinh tế trong
khu vực. Thực tế là khó có thể đạt được kết quả nhanh chóng từ việc tự do hóa thương mại đa
phương trong hệ thống WTO vì có quá nhiều nước tham gia. Ngược lại, các FTA lại có khả năng
tự do hóa thương mại sâu rộng hơn nhờ có các cuộc đàm phán tương đối thuận lợi. Do đó, FTA
trở thành vấn đề chính trong việc thúc đẩy xuất khẩu của các nền kinh tế Đông Á.
ASEAN đã chuyển đổi thành một thực thể khu vực độc nhất cùng với việc mở rộng chủ nghĩa khu
vực đã xảy ra ở Đông Á sau cuộc khủng hoảng tài chính. Do các nước Đông Á bắt đầu nhận ra
tầm quan trọng của yêu cầu đối với chủ nghĩa khu vực, FTA đã trở thành vấn đề chính. Cụ thể là,
thông qua các cuộc họp thường xuyên của Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3, các nền kinh tế Đông
Á đang thúc đẩy mạnh mẽ các FTA và các nước ASEAN cũng đang thúc đẩy đàm phán FTA với
các nước ngoài khu vực Đông Á bao gồm Úc, Ấn Độ và Mỹ.
Trước cuộc khủng hoảng, hầu hết các nước ASEAN có suy nghĩ tiêu cực về việc thúc đẩy các
FTA song phương với các khu vực khác do e ngại rằng sự đoàn kết nội khối có thể bị tổn thương.
Mặc dù ASEAN đang thúc đẩy mục tiêu chiến lược mở rộng hợp tác kinh tế trong khu vực, mỗi
thành viên đang có sự tiếp cận khác nhau với sự hợp tác này. Malaysia và một số nước thành
viên khác đã chỉ trích các nước thành viên ASEAN việc hình thành các FTA song phương có thể
làm suy yếu các thỏa thuận khu vực chẳng hạn như AFTA và cho phép các nền kinh tế ngoài khu
vực tham gia vào thị trường khu vực. Tuy nhiên, Singapore và Thái Lan đã thông qua chiến lược
bảo đảm các FTA song phương.
Singapore đã ký Hiệp định thương mại tự do song phương với Niu zi lân, Nhật Bản, EFTA, Úc và
Mỹ và đang đàm phán để hình thành FTA với Mexico, Canada, Hàn Quốc và Ấn Độ. Thái Lan
đang xem xét FTA với Úc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ. Trong khi đó Philippines đang xem xét FTA với
Mỹ và đang đàm phán để hình thành FTA với Nhật Bản. Singapore đã tiết lộ chiến lược phát triển
quốc gia mới vào tháng 2/2003 về mong muốn khả năng trở thành thành phố dẫn đầu toàn cầu.
Thái Lan đã thúc đẩy FTA với các nền kinh tế lớn như Mỹ và Nhật Bản, chính phủ Thái Lan đã lựa
chọn các đối tác FTA tiềm năng bao gồm Mỹ, Úc, Bahrain, Peru, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Các cuộc thảo luận FTA tích cực gần đây liên quan tới Ấn Độ, Thái Lan và Singapore và việc thúc
đẩy FTA giữa Ấn Độ và ASEAN đang góp phần vào sự tăng lên của chủ nghĩa khu vực ở Đông Á,
mở rộng xu hướng mới đối với quan hệ kinh tế giữa Ấn Độ và ASEAN. Năm 2001, Trung Quốc và
Nhật Bản đã tiến hành thảo luận FTA với ASEAN và các cuộc thảo luận này tăng lên liên tục. Tại
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 tại Phnom Penh vào tháng 11/2002, ASEAN và Trung Quốc đã
thông qua thỏa thuận về việc thiết lập FTA vào năm 2010, ASEAN và Ấn Độ đạt được thỏa thuận
về việc xúc tiến hình thành FTA.
Một thỏa thuận hợp tác toàn diện đã được kết thúc tại Hội nghị thượng đỉnh giữa ASEAN – Ấn Độ
tại Bali vào tháng 10/2003. Đây là bước đầu tiên tiến tới việc tăng cường cơ sở hợp tác cơ cấu
đối với hiệp định thương mại khu vực. Điều này cũng góp phần vào việc hình thành cơ sở hợp tác
kinh tế ASEAN. Mặc dù giới hạn về thời gian để hòan thành đàm phán về FTA đã được kéo dài
trong 10 năm, nếu Ấn Độ cố gắng đạt được FTA với Thái Lan và Singapore thì ảnh hưởng về kinh
tế và chính trị sẽ rất có ý nghĩa đối với hợp tác khu vực và ở Đông Á nói chung.
4. Sự phát triển của FTA giữa ASEAN – Hàn Quốc:
Trong nhịp bước hối hả nhằm đạt được các hiệp định thương mại tự do, Hàn Quốc đã hoàn thành
nghiên cứu chung về FTA với Nhật Bản và Singapore vào tháng 9/2003 và bắt đầu đàm phán
chính thức với cả hai nước này vào đầu năm 2004. Hàn Quốc và Singapore đã tiến hành 10 vòng
đàm phán từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2004 và kết thúc một thỏa thuận FTA toàn diện gồm 9
lĩnh vực về thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, thỏa thuận công nhận
lẫn nhau (MRA), sở hữu trí tuệ.
Ngoài hai hiệp định FTA song phương này, Hàn Quốc đang theo đuổi FTA với ASEAN như là một
thực thể. Vì mục tiêu này, Hàn Quốc và ASEAN đã hình thành nhóm chuyên gia về ASEAN – Hàn
Quốc nhằm chuẩn bị báo cáo về nghiên cứu chung về quan hệ kinh tế toàn diện và chặt chẽ hơn
giữa ASEAN và Hàn Quốc. Tại hội nghị tham vấn giữa các Bộ trưởng kinh tế ASEAN và Hàn
Quốc vào tháng 9/2004 tại Jakarta, Indonesia, các Bộ trưởng đã hoan nghênh đề xuất thiết lập
Khu vực thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA). Cuối cùng, các nhà lãnh đạo đã đưa ra
Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện giữa ASEAN và Hàn Quốc và quyết định tiến hành đàm
phán AKFTA tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Hàn Quốc tại Lào vào tháng 11/2004.
Các cuộc đàm phán hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA) đã được
bắt đầu từ tháng 2/2005 và hy vọng sẽ hoàn thành trong vòng 2 năm. AKFTA hy vọng sẽ mang lại
mức độ tự do hóa cao với thời hạn nhanh hơn. Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Hàn Quốc vào
tháng 12/2005 tại Kuala Lumpur, Malaysia, các nhà lãnh đạo đã ký Hiệp định khung về hợp tác
kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Hàn Quốc và cũng hoan nghênh việc ký kết Hiệp định thương
mại hàng hóa và Hiệp định về cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định khung về
hợp tác kinh tế toàn diện.
Theo FTA giữa ASEAN-Hàn Quốc, Hàn Quốc sẽ loại bỏ hoàn toàn thuế đối với ít nhất 95% dòng
thuế trong danh mục thông thường vào năm 2008, trong khi ASEAN-6 sẽ loại bỏ tất cả thuế đối
với ít nhất 90% dòng thuế trong danh mục thông thường vào năm 2009. Vào năm 2010, Hàn
Quốc sẽ loại bỏ hoàn toàn thuế đối với các dòng thuế trong danh mục thông thường và đối với
ASEAN-6 là 2012.
Hiệp định về thương mại hàng hóa bao gồm các qui định về đối xử đặc biệt và khác biệt, sự linh
hoạt bổ sung dành cho các thành viên mới của ASEAN (CLMV). AKFTA có khung thời gian khác
nhau đối với Hàn Quốc, ASEAN-6 và các nước CLMV. CLMV sẽ có đối xử ưu đãi do trình độ phát
triển kinh tế thấp với thời hạn giảm thuế trong danh mục thông thường, ví dụ với Campuchia vào
2018.
Mặc dù hội nhập kinh tế sâu rộng hơn trong cộng đồng Đông Á thực sự có lợi thì điều cơ bản là
phải đảm bảo câu trả lời gắn kết với những thách thức mới trong nền kinh tế toàn cầu để gặt hái
được lợi ích của tự do hóa. Trong môi trường như vậy, điều quan trọng là Tuyên bố chung về Đối
tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Hàn Quốc và nghiên cứu chung toàn diện về liên kết kinh tế
chặt chẽ hơn giữa hai bên sẽ tập trung không chỉ vào thúc đẩy hợp tác kinh tế mà còn mang lại
hiểu biết sâu rộng hơn đối với nền tảng hợp tác ASEAN-Hàn Quốc trong thế kỷ 21. Hợp tác
ASEAN+3 vẫn là động lực tin cậy và thực tế đối với hợp tác khu vực Đông Á và các nước thành
viên đều có lợi ích chiến lược trong hợp tác khu vực.
UBQG (Tô Cẩn – theo nghiên cứu của Viện Chính sách kinh tế quốc tế của Hàn Quốc
HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO DƯỚI GÓC ĐỘ CỦA HÀN QUỐC
Trong khuôn khổ khoá đào tạo về xây dựng năng lực thương mại hàng hoá và dịch vụ
dành cho các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam (CLMV) tại Seoul, nhiều vấn đề
phức tạp đã được các chuyên gia của Tổ chức hợp tác quốc tế (KOICA), Viện nghiên cứu
chính sách kinh tế quốc tế (KIEP), Đại học tổng hợp của Hàn Quốc đề cập tới như về các
hiệp định thương mại tự do, xúc tiến thương mại, hội nhập kinh tế ASEAN và hợp tác Hàn
Quốc – ASEAN, đàm phán nông nghiệp trong vòng Doha, các hàng rào kỹ thuật đối với
thương mại (TBT), thương mại dịch vụ ...v.v. Sự phát triển kinh tế Hàn Quốc trong những
năm qua được các chuyên gia xem như là một sự phát triển thần kỳ và một đất nước bắt
đầu từ nghèo đói, không có tài nguyên và bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh trên bán đảo
Triều tiên vào đầu những năm 1950 đã vươn lên thành một cường quốc công nghiệp hoá ở
châu Á. Hàn Quốc đã trở thành một quốc gia đóng tàu đứng đầu thế giới với khả năng
đóng tàu có trọng tải 500.000 tấn, sản lượng ô tô xuất xưởng khoảng 10 triệu chiếc/năm
như theo các chuyên gia Hàn Quốc với số dân hiện nay của Hàn Quốc thì trong 5 năm
chính phủ Hàn Quốc có thể sản xuất đủ cho mỗi người dân được một chiếc ô tô. Các nội
dung nghiên cứu của các chuyên gia Hàn Quốc sẽ phần nào được giới thiệu lần lượt trong
các tài liệu nghiên cứu dưới đây và tiếp theo. Nội dung nghiên cứu đầu tiên sẽ đề cập tới
hiệp định thương mại tự do dưới góc độ của Hàn Quốc.
Chủ nghĩa khu vực thường được diễn tả dưới hình thức các thỏa thuận liên kết khu vực (RIA)
hoặc các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) nhằm hình thành khu vực thương mại tự do hoặc
các liên minh thuế quan. Chủ nghĩa khu vực hoặc liên kết kinh tế được xem như là các hoạt động
kinh tế, chính trị dẫn đến việc giảm hoặc loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan của các
nước thành viên nhằm cho phép các hoạt động kinh tế hiệu quả hơn và tối ưu. Trong bối cảnh
của hệ thống thương mại đa phương của GATT 1947-1994 và WTO từ 1995, chủ nghĩa khu vực
trở thành một trong những vấn đề chính sách thương mại quan trọng.
Liên kết kinh tế giữa các nước tham gia mang lại hiệu quả kinh tế có ý nghĩa. Các ảnh hưởng trực
tiếp liên quan tới luồng thương mại thông qua các Hiệp định thương mại tự do (FTA) và liên minh
thuế quan. Sự đa dạng thương mại được hiểu như là việc thay thế sản phẩm hiệu quả hơn của
nước không phải là thành viên bằng sản phẩm kém hiệu quả hơn của nước thành viên. Sự đa
dạng thương mại được thực hiện thông qua đối xử ưu đãi thuế quan dành cho sản phẩm của
nước thành viên do có sự đối xử phân biệt đối với sản phẩm của nước không phải là thành viên
thông qua việc giảm thuế hoặc hàng rào thương mại đối với hàng nhập khẩu. Ngược lại, ảnh
hưởng về cơ hội thương mại được xem như là việc thay thế sản phẩm kém hiệu quả hơn của
nước không phải thành viên bằng sản phẩm hiệu quả hơn của nước thành viên vì điều này có lợi
đối với nước nhập khẩu về mặt phúc lợi quốc gia.
Nghiên cứu của OECD (1995) và WTO (1995) cho thấy sự liên hệ giữa chủ nghĩa khu vực và đa
phương, chủ nghĩa khu vực có tác dụng hỗ trợ đối với chủ nghĩa đa phương và chủ nghĩa khu
vực cần được giám sát việc không phù hợp với các mục tiêu đa phương.
1. Cơ sở hình thành ngày càng tăng các FTA:
Các nước tìm kiếm tới chủ nghĩa khu vực vì nhiều lý do. Đầu tiên chủ nghĩa khu vực có thể trở
thành một lựa chọn chiến lược đối với bất kỳ nước nào phải đối mặt với sự bất lợi tiềm tàng do
chủ nghĩa khu vực được giải quyết bằng đối thủ cạnh tranh của các nước thành viên. Loại hình
khu vực này được hiểu như là chủ nghĩa khu vực bảo hộ. Hai là, các nước có thể thông qua khu
vực như là một lựa chọn chính sách để đối mặt với khó khăn trong quá trình tự do hóa đa
phương. Các nước thường muốn gặt hái được lợi ích của tự do hóa với số lượng thành viên hạn
chế trước khi thấy kết quả thành công của đàm phán thương mại đa phương. Nhiều sáng kiến
khu vực kiểu này đã được hình thành từ những năm 1990. Ba là, các nước thường kết thúc FTA
hoặc thỏa thuận liên minh thuế quan với các nước khác được xem như là đối tác chiến lược về
kinh tế, ngoại giao hoặc an ninh. Thỏa thuận FTA giữa Mỹ và Israel là một ví dụ điển hình về loại
hình hợp tác này.
Trong 15 năm qua, chủ nghĩa khu vực có xu hướng ngày càng tăng trong nền kinh tế toàn cầu.
Sau làn sóng đầu tiên về xu hướng khu vực trong những năm 1960 – 1970, nhiều thỏa thuận liên
kết khu vực đã tăng lên từ những năm 1990. Đặc biệt từ năm 1995, năm chính thức hình thành
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), xu hướng khu vực trong nền kinh tế toàn cầu tăng lên hết
sức mạnh mẽ, dẫn đến sự quan ngại về khả năng xung đột tiềm tàng đối với hệ thống đa phương
của WTO. WTO cho biết, từ khi thành lập GATT năm 1947 đã có 250 thông báo về các RTA và
đến 1/1/2005 có khoảng 162 hiệp định vẫn còn hiệu lực. Điều này hoàn toàn công bằng cho thấy
không nước thành viên nào là không tham gia vào một thỏa thuận khu vực.
Tuy nhiên, khu vực Đông Á đến nay cũng không ngoại lệ khỏi xu hướng thế giới về chủ nghĩa khu
vực: Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) gồm 10 nước thành viên ở Đông Nam Á, Hiệp hội
Nam Á về hợp tác khu vực (SAARC) gồm bảy nước ở Nam Á vẫn là hai RTA tồn tại duy nhất ở
khu vực Châu Á. Mặc dù nhiều nước Châu Á là thành viên của Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á
Thái bình dương (APEC) và APEC vẫn còn lâu mới phát triển thành một khu vực thương mại tự
do hoặc một liên minh thuế quan. Ngoài ra các nước lớn ở Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc vẫn đang trong giai đoạn sơ khai về tiến hành các thỏa thuận liên kết khu vực. So với
lịch sử lâu đời, sự đa dạng và phức tạp về các thỏa thuận liên kết khu vực ở Châu Âu, Bắc Mỹ và
Mỹ la tinh, liên kết kinh tế ở châu Á vẫn còn là hiện tượng khá mới.
Sự quan tâm ngày càng tăng lên của các nước Châu Á trong việc hình thành các thỏa thuận liên
kết khu vực đang được chú ý nhiều hơn. Ví dụ, Hàn Quốc đã tiến hành đàm phán FTA với Chi Lê
năm 1999 mà đã được thông qua chính thức song phương tại Hội nghị Thượng đỉnh APEC tại
Kuala Lumpur năm 2001 và hiệp định này đã chính thức có hiệu lực năm 2004. Nhật Bản cũng
bắt đầu xem xét một FTA các đối tác thương mại Đông Á như là một lựa chọn chính sách trong
thế kỷ 21 và thực hiện thỏa thuận FTA với Singapore gần đây. Thỏa thuận song phương hoặc ba
bên giữa Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc gần đây đã được thảo luận trong giới chính khách và
các học giả. Sau một thời gian im hơi lặng tiếng, Châu Á giờ đây trở nên rất quan tâm tới chủ
nghĩa khu vực và những sáng kiến về RTA trong khu vực ngày càng tăng lên trong một vài năm
trở lại đây.
Trong bối cảnh APEC, chúng ta đã chứng kiến nhiều hệ thống phức tạp các FTA trong năm năm
vừa qua. Trong số 21 nền kinh tế thành viên APEC, không một nước nào không tham gia vào bất
kỳ loại hình thỏa thuận thương mại khu vực. Đây là một trong những đặc trưng chính mà các
nước Đông Nam Á đang muốn tham gia FTA với nhiều nước thành viên APEC.
Như đã nhắc đến ở trên, các nước tìm kiếm tới các FTA không chỉ vì lý do kinh tế mà còn vì việc
cân nhắc các lý do địa chính trị, ngoại giao hoặc an ninh. Các nước muốn có FTA nhằm góp phần
điều chỉnh tăng trưởng kinh tế tiềm năng thông qua việc cung cấp cho nền kinh tế với tác nhân bổ
sung cho thương mại quốc tế và cho phép phân bổ các nhân tố tốt hơn mà chỉ đạt được bằng
việc mở rộng thị trường cho các sản phẩm. Các nước cũng thường xem chủ nghĩa khu vực như
là một công cụ chính sách ngoại giao để đảm bảo yêu cầu ngoại giao và an ninh khu vực ví dụ
như việc mở rộng của EU sang các nước Đông Âu, và cũng sử dụng FTA như là một đòn bẩy
trong việc tiến hành chiến lược ngoại giao. Ngoài ra các nước còn sử dụng FTA như là cơ hội để
cải thiện và hiện đại hóa các tổ chức trong nước như Hàn Quốc là một ví dụ.
Tuy nhiên, không phải tất cả các sáng kiến khu vực đều thành công. Nhiều sáng kiến đã thất bại
vì nhiều lý do. Đặc biệt nhiều thỏa thuận RTA ở Mỹ La tinh vào những năm 1960 không mang lại
kết quả có ý nghĩa và hậu quả là không trở thành trụ cột của hợp tác kinh tế khu vực. Việc thiếu
nền kinh tế dẫn đầu và các cam kết mang tính hình thức của các nước thành viên thường được
coi như là nhân tố không thành công. Trên thực tế, nhiều FTA cũng đã thành công do có sự quan
tâm và cam kết mạnh mẽ của các nước thành viên và việc thực hiện nghiêm chỉnh các thỏa
thuận.
2. Các qui định của WTO đối với các hiệp định thương mại khu vực:
Tổ chức thương mại thế giới được xem như là người bảo vệ của hệ thống thương mại đa
phương. Xem xét tới các nguyên tắc cơ bản của hệ thống thương mại đa phương: không phân
biệt đối xử, thương mại tự do và công bằng hơn, hỗ trợ phát triển và cải cách kinh tế, WTO quản
lý sự phù hợp của các RTA theo các qui định của hệ thống thương mại đa phương. Uỷ ban về
RTA của WTO xem xét sự phù hợp của các qui định về RTA nhằm hạn chế khả năng các RTA
gây cản trở cho các thoả thuận đa phương.
- Không phân biệt đối xử: nguyên tắc không phân biệt đối xử là nhân tố quan trọng nhất trong việc
duy trì và tăng cường hệ thống thương mại đa phương, qui định rằng thương mại giữa các nước
thành viên cần được thực hiện không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào, đòi hỏi tất cả các nước
thành viên phải dành đối xử đãi ngộ quốc gia (MFN) hoặc đối xử bình đẳng đối với các nước
khác, ngoại trừ trong một số trường hợp qui định trong GATT.
- Mở cửa thị trường: nguyên tắc mở cửa thị trường sẽ được tăng cường theo nhiều cách để góp
phần bảo vệ tiếp cận có thể và tăng lên đối với thị trường thông qua việc ngăn cấm tất cả các
hình thức bảo vệ ngoại trừ thuế quan. Trong vòng Uruguay, việc giảm thuế cơ bản hơn đã được
thoả thuận và quan trọng hơn các hạn chế số lượng nhìn chung cũng không ngoại lệ trong đàm
phán vòng Uruguay.
- Thương mại bình đẳng: Để tăng cường nguyên tắc thương mại bình đẳng và thúc đẩy cạnh
tranh bình đẳng giữa các sản phẩm có xuất xứ khác nhau, đàm phán Vòng Uruguay đã đưa ra
một số biện pháp bao gồm việc gia hạn và phân biệt rõ các qui định trước đây của GATT về
chống bán phá giá và các biện pháp đối kháng, đưa các vấn đề thương mại nông nghiệp, dịch vụ,
sở hữu trí tuệ vào phạm vi của hệ thống thương mại đa phương mới trong khuôn khổ WTO.
- Hỗ trợ phát triển và cải cách kinh tế: Các qui định của GATT có xu hướng dành ưu đãi sự phát
triển và cải cách kinh tế của các nước đang phát triển trong khuôn khổ WTO, cho phép những
nước này có thời kỳ quá độ để điều chỉnh theo các qui định khó khăn của WTO. Trong quá trình
đàm phán Vòng Uruguay, cách tiếp cận theo lĩnh vực cũng đã được thông qua đối với một số sản
phẩm nhạy cảm như lúa gạo. Ngoài ra, các nước kém phát triển nhất được dành sự linh hoạt hơn
và được lợi hơn từ việc thực hiện nhượng bộ về tiếp cận thị trường đối với hàng hoá của những
nước này.
- Điều XXIV của GATT: theo tinh thần của điều này cho phép các thỏa thuận hình thành các liên
minh thuế quan và khu vực thương mại tự do không có ngoại trừ theo nguyên tắc không phân biệt
đối xử “các thỏa thuận có tiềm năng cho việc hội nhập kinh tế hơn nữa mà không có ảnh hưởng
trái ngược tới lợi ích của các nước thứ ba ... mục đích của liên minh thuế quan và khu vực
thương mại tự do nhằm tạo thuận lợi cho thương mại giữa các nước thành viên và không tạo ra
các hàng rào đối với thương mại của các nước tham gia khác”. Theo đó đối với các liên minh thuế
quan và khu vực thương mại tự do, thuế và các qui định mới ở những nước tham gia không được
cao hơn hoặc hạn chế hơn so với các biện pháp hiện tại.
- Điều XXV của GATT: các nước thành viên được phép tham gia chung theo điều XXV với 2/3 đa
số phiếu nhằm cho phép được miễn trừ khỏi nghĩa vụ theo qui định của GATT. Trong một số
trường hợp, qui định này được thông qua nhằm cho phép các thỏa thuận khu vực, chẳng hạn như
liên minh thuế quan của Pháp với Ý năm 1948 và hiệp định giữa Mỹ và Canada về thương mại tự
do đối với ô tô.
- Điều XXVIII của GATT: Điều này qui định các kế hoạch bồi thường trong trường hợp mà bất kỳ
bên nào sửa đổi hoặc rút lui khỏi nhượng bộ trước đây đã được đàm phán với các bên khác.
Những hành động này xảy ra khi một liên minh thuế quan mới được hình thành hoặc khi một bên
ký kết muốn tham gia các liên minh thuế quan hiện tại. Có khả năng là thuế hoặc các biện pháp
cao hơn hoặc hạn chế hơn sẽ thay thế những qui định hiện có. Trong trường hợp này, đàm phán
sẽ được tiến hành với các đối tác thương mại chính có quyền đàm phán ban đầu nhằm đi đến
thỏa thuận về kế hoạch bồi thường nhằm duy trì mức độ nhượng bộ có đi có lại và có lợi chung
không kém ưu đãi hơn so với thương mại đã được dành cho trước khi đàm phán.
3. Chính sách FTA của Hàn Quốc:
Cho đến gần đây, Hàn Quốc là một trong số rất ít nước thành viên WTO không tham gia bất kỳ
một Hiệp định thương mại khu vực nào. FTA giữa Hàn Quốc và Chi Lê có hiệu lực năm 2004 đã
đánh dấu một sự khởi đầu tham vọng trong chiến lược FTA của Hàn Quốc. Hiện nay, Hàn Quốc
đang tham gia nhiều hoạt động khu vực. Ngoài FTA giữa Hàn Quốc và Chi Lê, Hàn Quốc đã bắt
đầu đàm phán với Nhật Bản năm 2003, ASEAN năm 2005, tiến hành nghiên cứu chung với
Mexico và Ấn Độ, tham vấn chính thức với Canada. Hiện nay, Hàn Quốc đang theo đuổi chính
sách FTA đa luồng với hầu hết các nước.
Để theo đuổi chiến lược FTA này, Hàn Quốc đang lựa chọn các đối tác FTA dựa trên các cân
nhắc thận trọng. Chính phủ Hàn Quốc mong muốn tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu các tổn thất
của FTA thông qua việc chú ý tới các lợi ích kinh tế và công nghiệp đối với các nước tiềm năng.
Những lĩnh vực nhạy cảm như là nông nghiệp và thủy sản được xem là những lĩnh vực có phạm
vi cho phép tự do hóa tối thiểu. Chi Lê, Nhật Bản, ASEAN được xem là nhóm có thỏa thuận FTA
ngay tức thì trong khi Mỹ, EU, Trung Quốc được xem là nhóm nước có thỏa thuận trung và dài
hạn.
Hàn Quốc có một số lợi ích kinh tế và một số lợi ích khác nảy sinh từ chính sách FTA đa luồng.
Cũng như nhiều nước khác, Hàn Quốc hy vọng có tăng trưởng kinh tế bổ sung nhờ việc tăng kim
ngạch thương mại trong các thỏa thuận FTA. Xem xét tới chiến lược phát triển truyền thống của
nền kinh tế Hàn Quốc, mục tiêu này là dễ hiểu. Các thỏa thuận FTA cũng hứa hẹn tăng cường
việc phân bổ các nhân tố của nền kinh tế Hàn Quốc và cải thiện hiệu quả tổng thể của nền kinh
tế. FTA cũng sẽ đóng góp vào việc tăng cường cạnh tranh và làm tăng thêm hiệu quả, tăng đầu
tư nước ngoài và tích lũy vốn.
4. Triển vọng tương lai của Hiệp định thương mại khu vực trong WTO:
Xu hướng ngày càng gia tăng các Hiệp định thương mại khu vực đang đặt ra nhiều vấn đề đối với
chủ nghĩa khu vực trên thế giới. Do sự tăng lên nhanh chóng số lượng các RTA, điều khẩn thiết là
phải xem xét lại các qui định của WTO đã được thay đổi phù hợp chưa. Chủ nghĩa khu vực có
khả năng ảnh hưởng tới chủ nghĩa đa phương, các qui định hiện nay của WTO liệu có đủ hiệu
quả để giảm thiểu sự tăng lên của xu hướng khu vực hoặc là có khoảng trống mà các nước có
thể lạm dụng mà không bị trừng phạt. Thực tế là hiện nay không có thoả thuận RTA nào chính
thức bị ngăn cấm qua quá trình giám sát của hệ thống đa phương. Các qui định trong ba điều
khoản chính (điều XXIV, điều V và điều khoản cho phép của GATT) dường như không đủ hiệu
quả để ngăn cản các nước kết thúc các FTA mới. Có khả năng khái niệm không rõ ràng trong
điều XXIV của GATT về “yêu cầu cơ bản về mọi hoạt động thương mại” dường như có tác dụng
ngược lại.
Các nước châu Á hiện đối mặt với câu trả lời liệu chủ nghĩa khu vực ở Châu Á có thực sự cần
thiết. Thực tế là, châu Á là khu vực có mức độ mở cửa và hướng ra bên ngoài cao nhất. Nhưng
những sáng kiến khu vực gần đây có thể làm cho châu Á có khuynh hướng hướng nội và sự mở
cửa của khu vực có thể giảm xuống. Do đó, châu Á và các nước trong khu vực sẽ phải có nghiên
cứu toàn diện hơn về lợi ích và chi phí trong các thoả thuận thương mại khu vực. Đặc biệt, họ
phải phân tích liệu sự tăng trưởng và phát triển truyền thống và quá trình công nghiệp hoá hướng
vào xuất khẩu có thể thực hiện được trong một môi trường kinh tế mới.
Tuy nhiên, chủ nghĩa khu vực của châu Á là cần thiết dưới một số điều kiện nhất định như các
đối tác châu Âu và Bắc Mỹ không phải là duy nhất vì được nhắc đến như là đối tác quan trọng
nhất. Nếu như quá trình tự do hoá đa phương có đủ khả năng thành công trong việc giúp Châu Á
mở rộng thị trường thì Châu Á không nên trở thành một thực thể kinh tế khép kín. Do vậy, đàm
phán tự do hoá thương mại đa phương hiện nay theo chương trình nghị sự Doha là hết sức quan
trọng. Các nước Châu Á cần phải tham gia tích cực hơn trong quá trình đàm phán để mang lại kết
quả tốt hơn trong mục tiêu phát triển của quốc gia.
UBQG (Tô Cẩn - theo tài liệu nghiên cứu của KOICA
/>Việt Nam chủ trương tăng cường quan hệ với Hàn Quốc
(TTXVN) - Tại cuộc hội đàm với Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Won Ki ngày
15/1 ở Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An nêu rõ Việt Nam coi trọng và đánh
giá cao vai trò, vị trí của Hàn Quốc trong khu vực và chủ trương tăng cường quan hệ
với Hàn Quốc, cùng nhau xây dựng hòa bình, ổn định và phát triển vì lợi ích của
nhân dân mỗi nước.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An nhấn mạnh trải qua chiến đấu trường kỳ, gian khổ mới giành
được độc lập, tự do, thống nhất đất nước nên nhân dân Việt Nam mong muốn và sẽ làm hết sức
mình vì hòa bình, ổn định, phát triển và thống nhất trên bán đảo Triều Tiên.
Chủ tịch Nguyễn Văn An cho rằng quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc thời gian qua đã đạt những kết
quả tốt đẹp, nhưng yêu cầu và tiềm lực của hai bên còn rất lớn. Trong thời gian tới, quan hệ hữu
nghị, hợp tác nhiều mặt giữa hai nước cần tiếp tục tăng cường và mở rộng, vì lợi ích của nhân
dân hai nước. Quan hệ giữa hai Quốc hội cần được thúc đẩy mạnh mẽ, nhằm ủng hộ hai Chính
phủ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hai nước phát triển hợp tác kinh tế, thương
mại, đầu tư.
Chủ tịch Nguyễn Văn An hoan nghênh sáng kiến của Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc về việc ký kết
Thỏa thuận hợp tác giữa hai Quốc hội và nhất trí nội dung bản thỏa thuận, tạo cơ sở thúc đẩy sự
giao lưu, hiểu biết giữa hai Quốc hội, từ đó góp phần vào việc tăng cường quan hệ hợp tác chung
giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
Nhân dịp này, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An cảm ơn Hàn Quốc đã ủng hộ Việt Nam trong việc
đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và bày tỏ mong muốn Hàn Quốc chia sẻ kinh
nghiệm, ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC 2006.
Chủ tịch Quốc hội Kim Won Ki bày tỏ vui mừng trước sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ Việt
Nam - Hàn Quốc kể từ khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992 và nêu rõ
Chính phủ, nhân dân và các doanh nghiệp Hàn Quốc luôn quan tâm đến Việt Nam, mong muốn
được tham gia các dự án lớn, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Hiện Hàn
Quốc là nhà đầu tư lớn thứ tư tại Việt Nam. Hai nước đã hợp tác chặt chẽ và thành công trên
nhiều lĩnh vực, mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên.
Chủ tịch Kim Won Ki cho rằng quan hệ giao lưu hợp tác giữa hai cơ quan lập pháp cần được tăng
cường và thúc đẩy hơn nữa, góp phần phát triển mối quan hệ chung giữa hai quốc gia. Việc ký kết
thỏa thuận hợp tác giữa hai Quốc hội lần này sẽ tạo điều kiện để hai bên giao lưu, gặp gỡ một
cách thường xuyên, có hệ thống hơn. Chủ tịch Quốc hội Kim Won Ki cũng bày tỏ mong muốn tăng
cường hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trên phương diện đa phương; nhấn mạnh việc tăng cường
quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc không chỉ phù hợp với mong muốn và lợi ích của hai quốc gia, mà
còn góp phần vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở châu Á.
Kết thúc hội đàm, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An và Chủ tịch Quốc hội Kim Won Ki đã ký Thỏa
thuận hợp tác giữa Quốc hội hai nước và chứng kiến lễ ký cam kết về việc Tập đoàn Boo Young
(Hàn Quốc) tài trợ 10 triệu USD để trang bị 200.000 chiếc bảng chống lóa cho học sinh tiểu học
Việt Nam và tài trợ 2 triệu USD để xây dựng bến xe buýt tại thị xã Hà Đông (tỉnh Hà Tây).
Tiếp đó, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An và Chủ tịch Quốc hội Kim Won Ki đã đến dự và cắt
băng khai mạc Triển lãm thư pháp tác phẩm thơ "Nhật ký trong tù" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh./.
Quan hệ giữa hai Quốc hội Việt Nam-Hàn Quốc ngày càng hiệu quả
Chiều 17/7, tại buổi tiếp đoàn Ủy ban Đối ngoại, Thương mại và Thống nhất của
Quốc hội Hàn Quốc, do Chủ nhiệm Ủy ban Kim Wor Wung làm Trưởng đoàn, Chủ
tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng nói rằng quan hệ giữa hai Quốc hội hai nước ngày
càng thực chất và hiệu quả hơn.
Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng cho biết thực hiện thỏa thuận tăng cường hợp tác giữa hai Quốc hội,
các ủy ban, các nhóm nghị sỹ hữu nghị của Quốc hội hai nước thường xuyên giao lưu, trao đổi
kinh nghiệm. Hai bên cũng tăng cường phối hợp trên các diễn đàn nghị viện đa phương. Việt Nam
luôn ủng hộ hòa bình, ổn định, phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên.
Ngài Kim Wor Wung cũng nhất trí rằng quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam đang trong thời điểm phát
triển tốt đẹp trên nhiều phương diện, đồng thời cho rằng trong thời gian tới, hai bên cần quan tâm
phát triển sâu rộng hơn nữa quan hệ giao lưu, hợp tác ở tất cả các ủy ban của hai Quốc hội.
Cùng ngày, trong buổi tiếp đoàn, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm
nhấn mạnh cùng với sự tăng cường giao lưu, hợp tác ở cấp cao, giữa hai Quốc hội, hai Chính
phủ, hai bên cần thúc đẩy hơn nữa quan hệ giữa các doanh nghiệp và nhân dân hai nước, đặc
biệt là thế hệ trẻ, tạo nền tảng vững chắc cho quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc tiếp tục phát triển./.
(TTXVN)
Việt Nam chủ trương tăng cường quan hệ với Hàn Quốc
(TTXVN) - Tại cuộc hội đàm với Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Won Ki ngày
15/1 ở Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An nêu rõ Việt Nam coi trọng và đánh
giá cao vai trò, vị trí của Hàn Quốc trong khu vực và chủ trương tăng cường quan hệ
với Hàn Quốc, cùng nhau xây dựng hòa bình, ổn định và phát triển vì lợi ích của
nhân dân mỗi nước.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An nhấn mạnh trải qua chiến đấu trường kỳ, gian khổ mới giành
được độc lập, tự do, thống nhất đất nước nên nhân dân Việt Nam mong muốn và sẽ làm hết sức
mình vì hòa bình, ổn định, phát triển và thống nhất trên bán đảo Triều Tiên.
Chủ tịch Nguyễn Văn An cho rằng quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc thời gian qua đã đạt những kết
quả tốt đẹp, nhưng yêu cầu và tiềm lực của hai bên còn rất lớn. Trong thời gian tới, quan hệ hữu
nghị, hợp tác nhiều mặt giữa hai nước cần tiếp tục tăng cường và mở rộng, vì lợi ích của nhân
dân hai nước. Quan hệ giữa hai Quốc hội cần được thúc đẩy mạnh mẽ, nhằm ủng hộ hai Chính
phủ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hai nước phát triển hợp tác kinh tế, thương
mại, đầu tư.
Chủ tịch Nguyễn Văn An hoan nghênh sáng kiến của Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc về việc ký kết
Thỏa thuận hợp tác giữa hai Quốc hội và nhất trí nội dung bản thỏa thuận, tạo cơ sở thúc đẩy sự
giao lưu, hiểu biết giữa hai Quốc hội, từ đó góp phần vào việc tăng cường quan hệ hợp tác chung
giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
Nhân dịp này, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An cảm ơn Hàn Quốc đã ủng hộ Việt Nam trong việc
đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và bày tỏ mong muốn Hàn Quốc chia sẻ kinh
nghiệm, ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC 2006.
Chủ tịch Quốc hội Kim Won Ki bày tỏ vui mừng trước sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ Việt
Nam - Hàn Quốc kể từ khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992 và nêu rõ
Chính phủ, nhân dân và các doanh nghiệp Hàn Quốc luôn quan tâm đến Việt Nam, mong muốn
được tham gia các dự án lớn, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Hiện Hàn
Quốc là nhà đầu tư lớn thứ tư tại Việt Nam. Hai nước đã hợp tác chặt chẽ và thành công trên
nhiều lĩnh vực, mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên.
Chủ tịch Kim Won Ki cho rằng quan hệ giao lưu hợp tác giữa hai cơ quan lập pháp cần được tăng
cường và thúc đẩy hơn nữa, góp phần phát triển mối quan hệ chung giữa hai quốc gia. Việc ký kết
thỏa thuận hợp tác giữa hai Quốc hội lần này sẽ tạo điều kiện để hai bên giao lưu, gặp gỡ một
cách thường xuyên, có hệ thống hơn. Chủ tịch Quốc hội Kim Won Ki cũng bày tỏ mong muốn tăng
cường hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trên phương diện đa phương; nhấn mạnh việc tăng cường
quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc không chỉ phù hợp với mong muốn và lợi ích của hai quốc gia, mà
còn góp phần vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở châu Á.
Kết thúc hội đàm, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An và Chủ tịch Quốc hội Kim Won Ki đã ký Thỏa
thuận hợp tác giữa Quốc hội hai nước và chứng kiến lễ ký cam kết về việc Tập đoàn Boo Young
(Hàn Quốc) tài trợ 10 triệu USD để trang bị 200.000 chiếc bảng chống lóa cho học sinh tiểu học
Việt Nam và tài trợ 2 triệu USD để xây dựng bến xe buýt tại thị xã Hà Đông (tỉnh Hà Tây).
Tiếp đó, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An và Chủ tịch Quốc hội Kim Won Ki đã đến dự và cắt
băng khai mạc Triển lãm thư pháp tác phẩm thơ "Nhật ký trong tù" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh./.
Việt Nam, Hàn Quốc lập nhóm công tác hỗ trợ hợp tác đầu tư
Ngày 3/7, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc và Bộ trưởng
Bộ Công, Thương và Năng lượng Hàn Quốc Kim Young Ju đã ký biên bản ghi nhớ về
việc thành lập "Nhóm công tác hỗ trợ hợp tác kinh tế và đầu tư" giữa Việt Nam và
Hàn Quốc.
Theo biên bản ghi nhớ, Nhóm công tác bao gồm đại diện của Chính phủ hai nước và những đơn vị
có liên quan như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Hàn Quốc, cộng đồng doanh nghiệp hai bên nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Hàn Quốc đẩy
mạnh đầu tư tư vào Việt Nam và ngược lạ.