Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

luận văn thạc sĩ kinh tế hoàn thiện kế toán nhập khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá nhập khẩu trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.69 KB, 107 trang )

1

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

CỤM TỪ VIẾT TẮT

KÝ HIỆU VIẾT TẮT

1

Bảng cân đối kế tốn

BCĐKT

2

Báo cáo tài chính

BCTC

3

Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh

BCKQHĐKD

4

Giá trị gia tăng



GTGT

5

Hàng tồn kho

HTK

6

Nhân công trực tiếp

NCTT

7

Nhập khẩu

NK

8

Xuất nhập khẩu

XNK

9

Tài sản cố định


TSCĐ

10

Tiêu thụ đặc biệt

TTĐB

11

Tỷ giá hối đoái

TGHĐ

12

Tỷ giá thực tế

TGTT


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài.
Trong những năm gần đây, từ khi áp dụng chính sách đổi mới nền kinh tế,
chuyển đổi từ cơ chế quản lý kế hoạch, tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng một
nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết, quản
lý của Nhà nước, nền kinh tế của Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng, dần dần ổn

định và phát triển đều đặn, vững chắc. Trong quá trình phát triển và thành cơng đó,
có sự đóng góp đáng kể và quan trọng của hoạt động XNK. Hoạt động XNK đã góp
phần làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
nhằm đạt tới cơ cấu có lợi cho nền kinh tế trong nước. Vì vậy, hoạt động XNK được
coi là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế nội địa, cũng như phát triển kinh tế đối
ngoại, tạo nền tảng cho sự phát triển và thúc đẩy kinh tế Việt Nam hoà nhập vào
nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra
chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn 2001 – 2010 như sau: “Nhà
nước khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động XNK
các mặt hàng mà pháp luật cho phép, bao gồm cả XNK dịch vụ. Nhà nước khuyến
khích xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh... tăng nhanh tổng
kim ngạch xuất khẩu, đảm bảo nhập khẩu những vật tư thiết bị chủ yếu, có tác động
tích cực đến sản xuất kinh doanh...”
Như vậy ta thấy hoạt động nhập khẩu đóng vai trị rất quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế của đất nước, bởi ta chủ yếu nhập khẩu những mặt hàng mà trong
nước khơng có, chưa sản xuất được hoặc chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số
lượng, chất lượng, thị hiếu. Để đạt được hiệu quả trong hoạt động kinh doanh nhập
khẩu địi hỏi các doanh nghiệp phải có những cơng cụ quản lý hữu hiệu. Một trong
những công cụ quan trọng để quản lý hoạt động nhập khẩu chính là hạch toán kế
toán. Ngày nay, kế toán ngày càng trở nên cần thiết và có vai trị quan trọng trong
việc thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động kinh tế tài chính, giúp các
nhà doanh nghiệp quyết định được những phương án tối ưu trong kinh doanh và


3
quản lý doanh nghiệp. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, yêu cầu quản lý càng
cao, càng phức tạp, địi hỏi cơng tác kế tốn phải ngày một hồn thiện hơn. Nhận
thức được tầm quan trọng của công tác kế toán nhập khẩu hàng hoá đối với sự tồn
tại phát triển của doanh nghiệp kinh doanh XNK, trong quá trình tìm hiểu thực tế
kết hợp với nghiên cứu lý luận, tác giả đã chọn đề tài: “Hoàn thiện kế toán nhập

khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá nhập khẩu trên địa
bàn Thành phố Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu và hệ thống hố các vấn đề lý luận cơ bản về kế toán nhập khẩu
hàng hoá trong các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá nhập khẩu.
- Nghiên cứu thực trạng kế toán nhập khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp
kinh doanh hàng hoá nhập khẩu trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Trên cơ sở các nghiên cứu thực tế, đưa ra những đánh giá và những giải pháp
chủ yếu nhằm hoàn thiện kế toán nhập khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp kinh
doanh hàng hoá nhập khẩu trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về kế
toán nhập khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp kinh doanh hàng hố nhập khẩu.
Từ đó đưa ra những giải pháp hồn thiện những nội dung hạch toán chưa phù hợp
với chế độ hiện hành cũng như thực tế của đơn vị
- Phạm vi nghiên cứu: Các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá nhập khẩu trên
địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
- Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với những nguyên
lý cơ bản của khoa học kinh tế làm phương pháp luận nghiên cứu.
- Luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát, phân tích so sánh, tổng
hợp các dữ liệu, suy luận logic để phục vụ cho công tác nghiên cứu.


4
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có cơ sở khoa học và hệ thống hoá những vấn
đề lý luận và thực tiễn, luận văn đã có những đóng góp sau:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán nhập khẩu hàng hoá
trong các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá nhập khẩu.

- Qua khảo sát về tình hình thực tế tại các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá
nhập khẩu trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn đã đưa ra được những phân tích
thực trạng, kết quả đạt được và những vấn đề còn tồn tại trong kế toán nhập khẩu
hàng hoá tại các doanh nghiệp này.
- Đề xuất được một số giải pháp nhằm hồn thiện kế tốn nhập khẩu hàng
hố trong các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá nhập khẩu trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về kế toán nhập khẩu hàng hoá trong các doanh
nghiệp kinh doanh hàng hoá nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng kế toán nhập khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp
kinh doanh hàng hoá nhập khẩu trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hồn thiện kế tốn nhập khẩu hàng hố
trong các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá nhập khẩu trên địa
bàn thành phố Hà Nội.


5

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NHẬP KHẨU
HÀNG HOÁ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH
HÀNG HOÁ NHẬP KHẨU
1.1 Những vấn đề chung về hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.1.1 Sự cần thiết của hoạt động nhập khẩu.
Hoạt động xuất - nhập khẩu hàng hóa là hoạt động mua, bán hàng hóa của
thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngồi theo các hợp đồng mua bán
hàng hóa, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển

khẩu hàng hóa.
Như vậy nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu
tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước;
nhập khẩu để bổ sung các hàng hố trong nước khơng sản xuất được, hoặc sản xuất
khơng đáp ứng đủ nhu cầu; nhập khẩu cịn để thay thế những hàng hoá mà nếu sản
xuất trong nước sẽ khơng có lợi bằng. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu
thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền
kinh tế quốc dân.
Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước cơng nghiệp hố đất nước,
đuổi kịp các nước tiên tiến, bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế,
đảm bảo phát triển kinh tế cân đối ổn định.
Nhập khẩu góp phần cải thiện, nâng cao mức sống của nhân dân, vì nhập khẩu
vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu
vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
Nhập khẩu có vai trị tích cực trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này
thể hiện ở chỗ xuất khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường
thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá sản xuất được trong nước ra nước ngoài, đặc
biệt là nước đối tác mà mình đã nhập hàng của họ.


6
Tóm lại, hoạt động nhập khẩu tạo cầu nối giữa nên kinh tế trong nước với nền
kinh tế thế giới, biến nền kinh tế thế giới thành nơi cung cấp các yếu tố đầu vào và
tiêu thụ các yếu tố đầu ra cho nền kinh tế quốc dân trong hệ thống kinh tế quốc tế.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu có đặc điểm sau:
- Thời gian lưu chuyển hàng hoá nhập khẩu dài hơn so với thời gian lưu chuyển
hàng hoá trong hoạt động kinh doanh nội địa do phải thực hiện giai đoạn mua hàng
hố của nước ngồi và giai đoạn bán hàng hố nhập khẩu cho thị trường nội địa.

Do đó, để xác định kết quả hoạt động kinh doanh của hoạt động nhập khẩu,
người ta chỉ xác định khi hàng hố đã ln chuyển được một vịng hay khi đã thực
hiện xong một thương vụ ngoại thương.
- Hàng hoá nhập khẩu bao gồm nhiều loại, sản phẩm lại phong phú đa dạng, có
chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, góp phần tăng
doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu nhập khẩu nhiều sẽ dẫn đến
phụ thuộc vào nước ngồi. Vì vậy, Nhà nước chỉ cho phép nhập khẩu những mặt
hàng mà trong nước khơng có, chưa sản xuất được hoặc chưa đáp ứng được nhu cầu
cả về số lượng, chất lượng, thị hiếu (hàng tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng ....).
- Nhập khẩu hàng hoá đặc biệt quan tâm đến phương thức thanh toán và đồng
tiền thanh toán bởi mức độ thực hiện các chỉ tiêu không chỉ lệ thuộc vào kết quả
hoạt động ngoại thương mà còn bị chi phối bởi tỷ giá ngoại tệ thay đổi và phương
pháp kế tốn ngoại tệ. Do đó trong thực tế, quốc gia nào cũng muốn sử dụng đồng
tiền nước mình làm đồng tiền thanh toán và người xuất khẩu bao giờ cũng muốn thu
tiền hàng trong thời gian ngắn nhất trong khi người nhập khẩu lại muốn kéo dài thời
gian trả tiền. Vì vậy khi đàm phán để ký kết hợp đồng, các bên phải thống nhất
phương thức thanh toán, lựa chọn đồng tiền thanh toán và thời điểm thanh toán.
Đồng thời kế toán phải mở sổ theo dõi chi tiết cho từng đối tượng thanh toán.
Mặt khác, trong hoạt động nhập khẩu hàng hoá, thời điểm ký kết hợp đồng, thời
điểm giao nhận hàng và thời điểm thanh toán thường cách nhau khá dài, do vậy sức
mua (giá trị thực) của đồng tiền thanh tốn có thể tăng hoặc giảm, gây bất lợi cho


7
bên này hoặc bên kia, vì vậy khi ký kết hợp đồng phải đưa ra điều kiện đảm bảo
ngoại hối.
- Người mua, người bán thuộc các quốc gia khác nhau, có trình độ quản lý,
phong tục, tập qn tiêu dùng và chính sách ngoại thương của mỗi quốc gia khác
nhau. Vì vậy cần phải tuân thủ luật kinh doanh của từng nước và luật thương mại
quốc tế. Việc nắm bắt, hiểu rõ phong tục, tập quán tiêu dùng, chính sách ngoại

thương của bên đối tác và quốc tế khi ký kết hợp đồng nhập khẩu sẽ đảm bảo quyền
lợi cho cả bên mua và bên bán. Đồng thời nó cịn giúp quá trình nhập khẩu diễn ra
thuận lợi, dễ dàng hơn.
1.1.3 Giá cả và tiền tệ sử dụng trong nhập khẩu.
1.1.3.1 Giá cả nhập khẩu.
Theo các điều kiện thương mại quốc tế “INCOTERM 2000” có 13 loại điều
kiện giao hàng, được phân chia thành 4 nhóm E, F, C, D như sau:
- Nhóm E: EXW – Ex Work (Giao hàng tại xưởng của người bán)
Người bán giao hàng cho người mua tại địa điểm giao hàng của mình, hàng
chưa được làm thủ tục thông quan xuất khẩu, chưa được bốc lên phương tiện
chuyên chở. Vậy chi phí cũng như rủi ro tiềm ẩn trong việc chuyên chở đều thuộc
trách nhiệm của người mua và họ cũng là người cung cấp phương tiện ( Trừ khi có
thoả thuận riêng).
- Nhóm F: Cước vận chuyển chính chưa trả, gồm:
+ FCA - Free carrieri (Giao hàng cho người chuyên chở).
Người mua lựa chọn cách thức vận chuyển, người vận chuyển và trả phí vận
chuyển từ kho của người vận chuyển tới địa điểm giao hàng.
Người bán phải giao hàng cho người vận tải do người mua chỉ định.
Tại thời điểm người vận chuyển nhận hàng hố, chi phí và rủi ro được chuyển
giao. Trong trường hợp vận chuyển hoàn toàn bằng xe tải hoặc đóng cơng ten nơ,
người bán có trách nhiệm chất hàng lên, người mua dỡ hàng xuống. Mỗi bên chịu
các phí tổn tương ứng.
+ FAS – Free alongside ship (Giao hàng dọc mạn tàu)


8
Người mua phải giao hàng dọc chiều dài tàu, ở trên cảng bốc dỡ hoặc ở trên xà
lan. Từ thời điểm đó, người mua sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí và rủi ro về
hàng hố (gồm cả làm thủ tục hải quan xuất khẩu, cước phí vận chuyển, chọn tàu
vận tải).

+ FOB – Free on board (Giao hàng lên tàu)
Người bán giao hàng trên boong tàu ở cảng bốc hàng được quy định trước trong
hợp đồng bán, họ phải chịu chi phí hải quan xuất khẩu và phí xuất khẩu. Người mua
sẽ chọn phương thức vận tải, tàu vận tải và trả cước phí vận chuyển. Ngay khi hàng
hố được đưa lên tàu, mọi chi phí và rủi ro được chuyển giao cho người mua.
- Nhóm C: Cước vận chuyển chính đã trả, gồm:
+ CFR – Cost and Freight ( Tiền hàng và cước phí)
Người bán chọn tàu vận tải, trả cước phí vận chuyển tới tận cảng đến đã định
trước. Họ cũng chịu trách nhiệm bốc hàng, làm thủ tục xuất khẩu, trả thuế xuất
khẩu. Ngay khi hàng hoá được đưa lên tàu tại cảng bốc dỡ, rủi ro về việc mất mát
hư hại hàng hoá cũng như mọi chi phí phát sinh được chuyển giao cho người mua.
+ CIF – Cost insurance freight (Tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí)
Giống quy định ở CFR nhưng người bán có trách nhiệm mua một bảo hiểm đường
biển để tránh những rủi ro mất mát hàng hoá trên đường vận chuyển. Họ phải ký ít nhất
là một hợp đồng bảo hiểm FPA bảo hiểm cho những hư hại hàng hố chủ yếu tính trên
giá trị CFR một khoản 10%. Điều này phải được ghi rõ trong mục liên quan đến tiền
của hợp đồng. Ngay khi hàng hoá được giao cho người vận chuyển, người mua sẽ phải
chịu trách nhiệm về những hư hại, mất mát hàng cũng như những chi phí gia tăng trên
đường đi. Việc chuyển giao rủi ro giống như trong FOB và CFR.
+ CPT – Cariage Paid To (Cước trả tới)
Người bán chọn tàu vận tải và trả cước phí vận chuyển tới tận cảng đến đã định
trước. Họ cũng chịu trách nhiệm bốc hàng, làm các thủ tục xuất khẩu, trả thuế xuất
khẩu hàng hoá. Ngay khi hàng hoá được giao cho người vận chuyển, người mua sẽ
chịu trách nhiệm về những hư hại hay mất mát hàng hố cũng như những chi phí gia
tăng trên đường đi, chịu trách nhiệm trả thuế NK và chi phí dỡ hàng xuống.


9
+ CIP – Cost, Insurance and Freight (Tiền cước và phí bảo hiểm trả tới)
Ngồi những trách nhiệm phải thực hiện trong CPT, người mua phải cung cấp

một hợp đồng bảo hiểm cho những mất mát, hư hại hàng hoá vận chuyển. Hợp đồng
này phải bảo hiểm cho ít nhất 10% tổng giá trị hàng hố.
- Nhóm D: Nơi hàng đến, tức người bán giao hàng tại nước người mua, gồm.
Nhóm này gồm:
+ DAF– Deliver at frontier ( Giao hàng tại biên giới)
Khi vượt qua một biên giới nhất định, việc chuyển giao rủi ro và chi phí được
thực hiện. Người bán trả chi phí và chịu những rủi ro cho tới biên giới (gồm cả chi
phí làm thủ tục xuất khẩu). Người bán không bắt buộc phải mua bảo hiểm cho hàng
hoá. Người mua chịu trách làm thủ tục nhập khẩu, nộp thuế trực thu và gián thu
kèm theo.
+ DES – Delivered ex – ship (Giao hàng tại tàu.).
Người mua chọn tàu, trả cước vận chuyển và chịu những rủi ro vận chuyển trên
biển cũng như làm các thủ tục xuất khẩu. Việc chuyển giao chi phí và rủi ro diễn ra
khi hàng hoá nằm trên tàu tại cảng đến và chưa được dỡ xuống. Người mua sẽ chịu
trách nhiệm làm thủ tục nhập khẩu và nộp thuế trực thu và gián thu kèm theo.
+ DEQ – Delivered ex – quay (Giao hàng tại cầu cảng)
Việc chuyển giao rủi ro và chi phí ngay sau khi người bán chuyển hàng dưới sự
quản lý của người mua tại cầu cảng được chỉ định trước ở nước nhập khẩu. Người
bán làm thủ tục nhập khẩu và trả tất cả các loại thuế NK kèm theo.
+ DDP – Delivered duty paid (Giao hàng đã nộp thuế)
Người bán phải chịu trách nhiệm về mọi việc, chỉ định và trả cước vận chuyển.
Khi hàng hoá được đưa lên tàu tại cảng bốc dỡ rủi ro về việc mất mát hư hại hàng
hoá cũng như mọi chi phí phát sinh được chuyển giao cho người mua. Việc chuyển
giao rủi ro và chi phí giống như tại FOB.
+ DDU – Delivered duty unpaid (Giao hàng chưa nộp thuế)
Chuyển giao hết tất cả trách nhiệm về thuế và lệ phí kèm theo cho người mua.


10
1.1.3.2 Tiền tệ sử dụng trong nhập khẩu

Việc lựa chọn đồng tiền nào để thanh tốn có vai trị rất quan trọng đối với sự
thành công trong hoạt động xuất nhập khẩu. Do đó, đồng tiền được sử dụng trong
thanh toán quốc tế phải được thoả thuận giữa 2 bên mua – bán. Nhìn chung, bên nào
cũng muốn chọn đồng tiền nước mình để thanh tốn bởi:
- Qua thanh tốn quốc tế có thể nâng vị thế của đồng tiền nước mình trên thị
trường tiền tệ quốc tế.
Thực tế cho thấy, nền kinh tế càng hướng ngoại bao nhiêu thì quy mơ và vị trí
của nền kinh tế đó càng mở rộng và tăng trưởng trong phân công lao động quốc tế
bấy nhiêu. Và nếu như nền kinh tế đó có thể sử dụng đồng tiền nước mình trong
thanh tốn quốc tế thì vị trí của đồng tiền nước đó và sức mua của nó trong thương
mại quốc tế sẽ ngày càng lớn. Kết quả là, khả năng tác động của nó lên tỷ giá của
đồng tiền nước khác trong thương mại và hoạt động kinh tế trong nước cũng như
trên thế giới sẽ lớn hơn rất nhiều.
- Chủ động được trong thanh tốn, khơng phải dùng ngoại tệ để trả nợ nước ngoài.
Việc sử dụng ngoại tệ để trả nợ nước ngoài hiện nay thực sự là một vấn đề làm đau
đầu các doanh nghiệp nhập khẩu bởi nếu tỷ giá tăng lên quá cao thì doanh nghiệp sẽ
phải bù lỗ khá lớn cho thương vụ nhập khẩu đó. Mặt khác, để có thể mua ngoại tệ trả
nợ nước ngồi cũng khơng phải là điều đơn giản. Do đó, nếu sử dụng được đồng tiền
nước mình trong thanh tốn quốc tế, các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ không phải đi mua
ngoại tệ và vì vậy họ có thể chủ động hơn trong vấn đề trả nợ nước ngồi.
- Có thể né tránh được rủi ro khi tỷ giá ngoại tệ biến động.
Nếu một quốc gia nào đó có tỷ giá trong nước tăng lên, điều đó có nghĩa là
đồng nội tệ bị mất giá so với tiền nước ngoài. Khi đó, một ngoại tệ sẽ chuyển đổi
được nhiều nội tệ hơn so với trước. Vì vậy, hàng nhập khẩu sẽ phải bán đắt hơn thì
mới có thể bù đắp đủ chi phí. Song nếu bán đắt hơn thì sức cạnh tranh của hàng
nhập khẩu so với hàng trong nước sẽ bị giảm xuống. Do đó, nếu lựa chọn được
đồng tiền nước mình trong thanh tốn quốc tế, doanh nghiệp sẽ khơng phải đối mặt
với những rủi ro nói trên.



11
- Có thể tạo điều kiện tăng thêm xuất khẩu hàng của mình.
Như trên đã nói, khi đồng tiền của một nước được lựa chọn trong thanh toán
quốc tế sẽ dẫn đến vị trí của đồng tiền nước đó và sức mua của nó sẽ ngày càng lớn.
Do đó, nó sẽ khuyến khích được việc xuất khẩu hàng hóa.
Việc sử dụng đồng tiền nào trong thanh toán là do thoả thuận giữa các bên tham
gia thanh toán quốc tế, tuy nhiên nó cũng bị phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
- Dựa vào tương quan so sánh lực lượng trong quan hệ thương mại.
-Vào vị trí của đồng tiền lựa chọn trên thị trường thời điểm giao dịch.
- Dựa vào tập quán sử dụng đồng tiền trong thanh toán ngành hàng, đặc biệt đối
với một số loại hàng nguyên liệu như dầu lửa, gạo, da lông thú... thường sử dụng
USD, kim loại màu, cao su, than sử dụng GBP...
Tuy nhiên vấn đề quan trọng hơn cả vẫn là thị trường thuộc về ai và người đó
muốn dùng đồng tiền nào để tính giá.
1.1.4 Các phương thức nhập khẩu.
Trong thực tế hoạt động kinh doanh XNK, các nhà nhập khẩu thường tiến hành
chủ yếu theo hai phương thức: nhập khẩu trực tiếp và nhập khẩu uỷ thác.
1.1.4.1 Nhập khẩu trực tiếp.
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh
nghiệp kinh doanh nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong nước và
quốc tế, tính tốn chính xác chi phí, đảm bảo hiệu quả kinh doanh nhập khẩu, tuân
thủ đúng chính sách luật pháp quốc gia và luật quốc tế.
Nhập khẩu trực tiếp có đặc điểm như sau:
- Chủ thể thực hiện hành vi mua bán trong hoạt động nhập khẩu có quốc tịch
khác nhau và đối tượng mua bán cũng được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia
khác. Thị trường nhập khẩu rộng lớn phức tạp, khó kiểm sốt, đồng tiền thanh toán
là đồng ngoại tệ mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu.
- Khi sử dụng hình thức này, các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phải hoàn
toàn chịu trách nhiệm đối với các hoạt động kinh doanh của mình. Để nhập khẩu
trực tiếp, doanh nghiệp chịu mọi chi phí giao dịch, nghiên cứu thị trường, giao nhận,



12
tiêu thụ hàng hố, nộp thuế... Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần thận trọng xem xét
và cân nhắc trước khi tiến hành kinh doanh.
- Độ rủi ro của hoạt động nhập khẩu trực tiếp cao hơn hình thức nhập khẩu uỷ
thác nhưng lại có thể đạt lợi nhuận cao. Khi tiến hành nhập khẩu trực tiếp, doanh
nghiệp chỉ lập một hợp đồng với bên nước ngồi cịn hợp đồng bán hàng trong nước
sẽ lập sau khi hàng về.
1.1.4.2 Nhập khẩu uỷ thác.
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động kinh doanh hình thành giữa một doanh nghiệp
trong nước có vốn, ngoại tệ, có nhu cầu nhập khẩu hàng hố nhưng khơng có quyền
hay kinh nghiệm tham gia nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho doanh nghiệp khác
trực tiếp giao dịch ngoại thương, tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên
nhận uỷ thác tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng
theo yêu cầu của bên uỷ thác và được nhận một phần thù lao gọi là phí uỷ thác.
Hoạt động nhập khẩu uỷ thác có đặc điểm sau:
- Doanh nghiệp nhận uỷ thác nhập khẩu không phải bỏ vốn, không phải xin hạn
ngạch, không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra
đại diện cho bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bạn hàng nước ngoài.
- Các doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp phải lập 2 hợp đồng, 1 hợp đồng mua
bán hàng hoá với bên nước ngoài, 1 hợp đồng với bên uỷ thác.
- Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác, doanh nghiệp nhận uỷ thác chỉ tính kim
ngạch nhập khẩu chứ khơng được tính doanh số, doanh thu.
1.1.5 Các phương thức thanh tốn trong hoạt động nhập khẩu.
Trong bất kỳ hợp đồng ngoại thương nào, các bên XNK đều phải thoả thuận áp
dụng một phương thức thanh tốn cụ thể để từ đó sẽ điều chỉnh các quyền hạn và
trách nhiệm của mỗi bên liên quan. Các phương thức thanh toán cơ bản thường
dùng trong kinh doanh nhập khẩu bao gồm:
- Phương thức thanh tốn bằng tín dụng thư (letter of credit – L/C): Đây là

phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng rộng rãi nhất và ưu việt hơn cả trong
thanh toán quốc tế, chiếm khoảng 70% giá trị thanh toán. Thư tín dụng là một sự


13
thoả thuận trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của
một khách hàng (người đề nghị mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền cho người khác
(người được hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người
này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ
chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong tín dụng thư.
- Phương thức chuyển tiền (remittance): Là phương thức mà người mua yêu
cầu ngân hàng chuyển số tiền nhập hàng cho người bán ở quốc gia khác theo địa chỉ
mà người mua yêu cầu. Phương thức này có ưu điểm là thủ tục đơn giản, phí thanh
tốn thấp, được áp dụng cho thanh toán số tiền nhỏ.
- Phương thức ghi sổ (Open account): Là phương thức mà cả người mua và
người bán cùng mở sổ ghi. Theo thoả thuận, định kỳ người mua sẽ thanh toán cho
người bán có quan hệ trực tiếp với nhau, khơng có sự tham gia của ngân hàng.
- Phương thức nhờ thu (collection of payment): Là phương thức thanh toán mà
người bán sau khi giao hàng xong hoặc sau khi cung ứng một dịch vụ nào đó cho
người mua sẽ phát hành hối phiếu để đòi tiền ngưòi mua bằng cách uỷ thác cho
ngân hàng thu hộ số tiền ghi trên hối phiếu. Có 2 hình thức nhờ thu:
+ Nhờ thu phiếu trơn: Là phương thức thanh tốn trong đó người bán sau khi
giao hàng, phát hành hối phiếu nhờ ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền hàng cịn
các chứng từ về hàng hố có liên quan đến giao dịch thì được người bán gửi trực
tiếp cho người mua để nhận hàng, không qua ngân hàng.
+ Nhờ thu kèm chứng từ: Là phương thức thanh tốn trong đó người bán uỷ
thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền của người mua căn cứ vào hối phiếu
và bộ chứng từ hàng hóa gửi theo với điều kiện nếu người mua trả tiền ngay hoặc
chấp nhận trả tiền (đối với hối phiếu kỳ hạn) thì ngân hàng mới chuyển trả bộ chứng
từ để người mua nhận hàng.

1.2 Yêu cầu và nhiệm vụ của kế toán nhập khẩu.
Hạch toán hàng nhập khẩu cần thực hiện những yêu cầu sau:
- Theo dõi, ghi chép, phản ánh kịp thời, đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh nhập


14
khẩu hàng hoá, từ khâu ký kết hợp đồng, nhập khẩu hàng hố và thanh tốn hàng
nhập khẩu, từ đó kiểm tra giám sát tình hình thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
- Mở sổ theo dõi, ghi chép, phản ánh chi tiết theo từng hợp đồng nhập khẩu từ
khi đàm phán, ký kết, thực hiện, thanh toán và quyết toán hợp đồng.
- Tính tốn, xác định chính xác giá mua hàng nhập khẩu, thuế và các khoản chi
có liên quan đến hợp đồng nhập khẩu để xác định kết quả nghiệp vụ nhập khẩu.
Từ yêu cầu trên, ta có nhiệm vụ kế toán nhập khẩu hàng hoá như sau:
- Phản ánh và giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch nhập khẩu (ký kết, thực
hiện hợp đồng nhập khẩu, kiểm tra việc đảm bảo an toàn của hàng nhập khẩu cả về
số lượng và giá trị). Đây là nhiệm vụ đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất trong kế
toán nhập khẩu vì từ thơng tin kế tốn, các nhà quản trị doanh nghiệp có thể nắm
được các nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu phát sinh, kiểm tra, đánh giá được q
trình thực hiện nhập khẩu, từ đó đề ra các biện pháp hồn thiện cơng tác kinh doanh
nhập khẩu nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.
- Tổ chức kế toán tổng hợp và chi tiết các nghiệp vụ phát sinh trong quá trình
nhập khẩu một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp.
- Phản ánh, giám đốc và kiểm tra tình hình cơng nợ và thanh tốn cơng nợ giữa
các bên. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều gặp khó khăn về vốn nên khơng
thể tránh khỏi tình trạng chiếm dụng vốn và bị chiếm dụng vốn. Vì vậy, vấn đề đặt
ra cho các cấp lãnh đạo và đặc biệt cho bộ phận kế tốn là phải quản lý, giám sát
chặt chẽ tình hình tài chính, phản ánh chính xác kịp thời tình hình tiêu thụ, đơn đốc
việc thu tiền bán hàng và thanh tốn cơng nợ đảm bảo cho kinh doanh liên tục, đạt
hiệu quả cao.
- Kiểm tra tình hình thực hiện chi phí nhập khẩu. Hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp phải làm sao đảm bảo lấy thu bù chi và có lãi. Vì vậy, một u cầu đặt
ra cho cơng tác kế tốn là phải xác định chính xác, đầy đủ các chi phí phát sinh như:
giá nhập khẩu, chi phí vận chuyển, bảo quản... ở từng khâu, từng giai đoạn, nhằm
xác định được chính xác kết quả kinh doanh, bảo toàn vốn và phát triển vốn.
- Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc kế toán ngoại tệ để cung cấp thông tin


15
chính xác cho quản lý hoạt động nhập khẩu.
1.3 Kế toán nhập khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp kinh doanh hàng
hoá nhập khẩu theo chế độ kế toán Việt Nam hiện hành.
1.3.1 Các nguyên tắc kế toán áp dụng trong kế toán nhập khẩu hàng hoá.
1.3.1.1 Nguyên tắc hạch toán ngoại tệ.
Về nguyên tắc, khi phát sinh các nghiệp vụ liên quan đến ngoại tệ, doanh
nghiệp phải quy đổi ngoại tệ ra Đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch thực tế hoặc tỷ
giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà
nước công bố tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ kinh tế để ghi sổ kế toán.
- Đối với tài khoản doanh thu, hàng tồn kho, chi phí, TSCĐ và bên Nợ tài
khoản vốn bằng tiền khi phát sinh các nghiệp vụ bằng ngoại tệ phải quy đổi ra tiền
ghi sổ kế tốn theo tỷ giá giao dịch bình qn hoặc tỷ giá giao dịch thực tế tại thời
điểm phát sinh nghiệp vụ.
- Đối với bên Có tài khoản vốn bằng tiền khi phát sinh bằng ngoại tệ phải quy
đổi ra tiền ghi sổ kế toán theo tỷ giá ghi sổ kế tốn (tỷ giá bình qn gia quyền, tỷ
giá thực tế đích danh, tỷ giá LIFO, tỷ giá FIFO)
- Đối với bên Có tài khoản Nợ phải trả, bên Nợ tài khoản phải thu khi phát sinh
nghiệp vụ kinh tế bằng ngoại tệ phải quy đổi theo tiền ghi sổ kế tốn theo tỷ giá
giao dịch bình qn hoặc tỷ giá giao dịch thực tế.
- Đối với bên Nợ tài khoản Nợ phải trả, bên Có tài khoản nợ phải thu khi phát
sinh nghiệp vụ kinh tế bằng ngoại tệ phải quy đổi theo tiền ghi sổ kế toán theo tỷ giá
ghi sổ kế toán.

- Đối với các trường hợp mua, bán ngoại tệ bằng Đồng Việt Nam, kế toán ghi
sổ theo tỷ giá thực tế mua, bán.
- Cuối năm tài chính, doanh nghiệp phải đánh giá lại các khoản mục, tài khoản
có gốc ngoại tệ theo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng tại thời điểm lập
BCĐKT.
- Chênh lệch TGHĐ phát sinh trong kỳ và chênh lệch đánh giá lại ngoại tệ cuối
kỳ của hoạt động kinh doanh kể cả doanh nghiệp vừa có hoạt động kinh doanh vừa


16
có hoạt động xây dựng cơ bản được ghi nhận ngay vào doanh thu hoặc chi phí tài
chính trong kỳ.
Ngồi ra, nguyên tệ phải được theo dõi chi tiết trên TK 007 “ngoại tệ các loại”
theo từng tài khoản “Tiền mặt”, “Tiền gửi ngân hàng”, “Tiền đang chuyển” (khi
tăng ghi Nợ, khi giảm ghi có) và trên sổ kế tốn chi tiết công nợ phải thu, phải trả
(với nợ gốc ngoại tệ).
1.3.1.2 Nguyên tắc về xác định giá hàng nhập khẩu.
Giá thực tế hàng hoá nhập khẩu cũng bao gồm 2 bộ phận:
- Bộ phận trị giá mua của hàng hố: gồm giá mua của hàng hố; các khoản
thuế khơng được hồn lại như thuế NK, thuế TTĐB (nếu có) hoặc thuế GTGT nếu
tính theo phương pháp trực tiếp; chi phí sơ chế, hồn thiện, gia cơng, phí vận tải
ngồi nước, phí bảo hiểm (nếu nhập khẩu theo điều kiện FOB) trừ (-) các khoản
giảm giá hàng mua và chiết khấu thương mại được hưởng khi mua hàng.
+ Giá mua của hàng hoá: là giá ghi trên hoá đơn do nhà xuất khẩu cung cấp
được quy đổi ra tiền Việt Nam.
+ Thuế NK: theo quy định của Luật thuế XNK hiện hành thì căn cứ tính thuế
đối với hàng hố áp dụng thuế suất theo tỷ lệ phần trăm là số lượng hàng hố XNK
và trị giá tính thuế. Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa
khẩu nhập đầu tiên và được xác định bằng cách áp dụng tuần tự sáu phương pháp
xác định trị giá tính thuế quy định sau đây:

 Xác định trị giá tính thuế theo giá trị giao dịch.
 Xác định trị giá tính thuế theo giá trị giao dịch của hàng nhập khẩu giống hệt.
 Xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng nhập khẩu tương tự.
 Xác định trị giá tính thuế theo trị giá khấu trừ.
 Xác định trị giá tính thuế theo trị giá tính tốn.
 Xác định trị giá tính thuế theo phương pháp suy luận.
Trường hợp người khai hải quan có đề nghị bằng văn bản thì trình tự áp dụng
các phương pháp xác định trị giá tính thuế trên đây có thể thay đổi cho nhau.
Thuế suất đối với hàng hoá nhập khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt hàng, gồm


17
thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường.

Số thuế
nhập
=
khẩu
phải nộp

Số lượng đơn vị
từng mặt hàng thực
tế NK ghi trong Tờ
khai hải quan

x

Trị giá tính
thuế tính trên
một đơn vị

hàng hố

Thuế suất
của từng
mặt hàng

x

(1.1
)

+ Thuế TTĐB của hàng nhập khẩu:
Căn cứ tính thuế TTĐB là giá tính thuế của hàng hố, dịch vụ chịu thuế TTĐB
và thuế suất thuế TTĐB.
Thuế TTĐB
phải nộp

=

Giá tính thuế
TTĐB

x

Thuế suất thuế
TTĐB

(1.2)

Trong đó: giá tính thuế TTĐB đối với hàng nhập khẩu thuộc diện chịu thuế

TTĐB gồm giá tính thuế NK cộng (+) thuế NK phải nộp. Nếu hàng nhập khẩu được
miễn hoặc giảm thuế NK thì thuế NK được xác định trong giá tính thuế TTĐB theo
số thuế NK cịn phải nộp.
+ Thuế GTGT hàng nhập khẩu áp dụng theo phương pháp trực tiếp
Thuế GTGT
của hàng
NK phải
nộp

=

Giá
nhập
khẩu
hàng
hóa

Thuế NK và Thuế
+ TTĐB phải nộp
về hàng NK

x

Thuế suất
thuế
GTGT

(1.3)

- Bộ phận chi phí thu mua: gồm các khoản chi phí vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt

trong định mức, cơng tác phí bộ phận thu mua, phí hải quan, phí kiểm định hàng
hố, phí thuê kho bãi,...
1.3.2 Các chuẩn mực kế toán Việt Nam được áp dụng trong kế toán nhập
khẩu hàng hoá.
1.3.2.1 Chuẩn mực hàng tồn kho (VAS 02)
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 02 – Hàng tồn kho, ban hành theo quyết
định 149/2001/QĐ – BTC thì HTK được tính theo giá gốc. Trường hợp giá trị thuần
có thể thực hiện được thấp hơn giá gốc thì phải tính theo giá trị thuần có thể thực
hiện được. Giá gốc HTK bao gồm: chi phí mua, chi phí chế biến và các chi phí liên
quan trực tiếp khác phát sinh để có được HTK ở địa điểm và trạng thái hiện tại.
- Chi phí mua: gồm giá mua, các loại thuế khơng được hồn lại, chi phí vận


18
chuyển, bảo quản trong quá trình mua hàng và các chi phí khác có liên quan trực
tiếp đến việc mua hàng tồn kho. Các khoản chiết khấu thương mại và giảm giá hàng
mua do hàng mua không đúng quy cách, phẩm chất được trừ (-) khỏi chi phí mua.
- Chi phí chế biến: gồm những chi phí có liên quan trực tiếp đến sản phẩm sản
xuất (chi phí nhân cơng trực tiếp, chi phí sản xuất chung cố định và chi phí sản xuất
chung biến đổi phát sinh trong quá trình chuyển hố ngun liệu, vật liệu thành
thành phẩm).
- Chi phí liên quan trực tiếp khác: bao gồm các khoản chi phí khác ngồi chi phí
mua và chi phí chế biến HTK. Ví dụ như trong giá gốc thành phẩm có thể bao gồm
chi phí thiết kế sản phẩm cho một đơn đặt hàng cụ thể.
Việc tính giá trị HTK được áp dụng theo một trong các phương pháp sau:
- Phương pháp tính giá theo đích danh: Phương pháp này được áp dụng đối với
doanh nghiệp có ít loại mặt hàng hoặc mặt hàng ổn định và nhận diện được.
- Phương pháp bình quân gia quyền: Theo phương pháp này, giá trị của từng
loại HTK được tính theo giá trị trung bình của từng loại HTK tương tự đầu kỳ và
giá trị của từng loại HTK được mua hoặc sản xuất trong kỳ.

- Phương pháp nhập trước, xuất trước: Áp dụng dựa trên giả định HTK được
mua trước hoặc sản xuất trước,và HTK tồn cuối kỳ là HTK được mua hoặc sản xuất
gần thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này, giá trị hàng xuất kho được tính theo
giá của hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ, giá trị của HTK được tính theo giá của
hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
- Phương pháp nhập sau, xuất trước: Được áp dụng dựa trên giả định HTK được
mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước, và HTK cịn lại cuối kỳ là HTK
được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này, giá trị xuất kho được tính
theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của lơ HTK được tính theo
giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ còn tồn kho.
1.3.2.2 Chuẩn mực ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái (VAS10).
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 10 - Ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá
hối đoái, ban hành theo quyết định số 165/2002/QĐ – BTC ngày 31/12/2002 của Bộ


19
trưởng Bộ Tài chính thì một giao dịch bằng ngoại tệ phải được hạch toán và ghi
nhận ban đầu theo đơn vị tiền tệ kế toán bằng việc áp dụng TGHĐ giữa đơn vị tiền
tệ kế toán và ngoại tệ ngày giao dịch. TGHĐ tại ngày giao dịch được coi là tỷ giá
giao ngay. Doanh nghiệp có thể sử dụng tỷ giá xấp xỉ với TGHĐ thực tế tại ngày
giao dịch.
Tại ngày lập BCĐKT các khoản mục có gốc ngoại tệ phải được báo cáo theo
TGHĐ cuối kỳ, các khoản mục phi tiền tệ có gốc ngoại tệ phải được báo cáo theo
TGHĐ tại ngày giao dịch, các khoản mục phi tiền tệ được xác định theo giá trị hợp
lý bằng ngoại tệ phải được báo cáo theo TGHĐ tại ngày xác định giá trị hợp lý.
Chênh lệch TGHĐ phát sinh khi thanh tốn các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại
tệ hoặc trong việc báo cáo các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ của một doanh
nghiệp theo các TGHĐ khác với TGHĐ đã được ghi nhận ban đầu, hoặc đã được
báo cáo trong BCTC trước, được xử lý như sau:
- Trong giai đoạn đầu tư xây dựng để hình thành TSCĐ của doanh nghiệp mới

thành lập, chênh lệch tỷ giá hối phát sinh khi thanh toán các khoản mục tiền tệ có
gốc ngoại tệ để thực hiện đầu tư xây dựng và chênh lệch TGHĐ phát sinh khi đánh
giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ cuối năm tài chính được phản ánh luỹ
kế, riêng biệt trên BCĐKT. Khi TSCĐ hoàn thành đầu tư xây dựng đưa vào sử dụng
thì chênh lệch TGHĐ phát sinh trong giai đoạn đầu tư xây dựng được phân bổ dần
vào thu nhập hoặc chi phí sản xuất, kinh doanh trong thời gian tối đa là 5 năm.
- Trong giai đoạn sản xuất kinh doanh, kể cả việc đầu tw xây dựng để hình
thanh TSCĐ của doanh nghiệp đang hoạt động, chênh lệch TGHĐ phát sinh khi
thanh toán các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ và đánh giá lại các khoản mục tiền
tệ có gốc ngoại tệ của năm tài chính sẽ được ghi nhận là thu nhập hoặc chi phí trong
năm tài chính ngoại trừ chênh lệch TGHĐ của đầu tư thuần vào công ty nước ngoài
(đã được quy định ở đoạn 14, 16 của chuẩn mực VAS 10) và đối với doanh nghiệp
sử dụng công cụ tài chính để dự phịng rủi ro hối đối (đã được quy định tại đoạn
12c của chuẩn mực VAS 10).
Cũng theo chuẩn mực VAS 10 thì nguyên tắc về hạch toán các nghiệp vụ ngoại


20
tệ phát sinh được quy định rõ như sau:
- Đối với tài khoản doanh thu, hàng tồn kho, chi phí, TSCĐ và bên Nợ tài
khoản vốn bằng tiền khi phát sinh các nghiệp vụ bằng ngoại tệ phải quy đổi ra tiền
ghi sổ kế toán theo tỷ giá giao dịch bình quân hoặc tỷ giá giao dịch thực tế tại thời
điểm phát sinh nghiệp vụ.
- Đối với bên Có tài khoản vốn bằng tiền khi phát sinh bằng ngoại tệ phải quy
đổi ra tiền ghi sổ kế toán theo tỷ giá ghi sổ kế tốn (tỷ giá bình qn gia quyền, tỷ
giá thực tế đích danh, tỷ giá LIFO, tỷ giá FIFO)
- Đối với bên Có tài khoản Nợ phải trả, bên Nợ tài khoản phải thu khi phát sinh
nghiệp vụ kinh tế bằng ngoại tệ phải quy đổi theo tiền ghi sổ kế tốn theo tỷ giá
giao dịch bình quân hoặc tỷ giá giao dịch thực tế.
- Đối với bên Nợ tài khoản Nợ phải trả, bên Có tài khoản nợ phải thu khi phát

sinh nghiệp vụ kinh tế bằng ngoại tệ phải quy đổi theo tiền ghi sổ kế toán theo tỷ giá
ghi sổ kế toán.
- Nếu mua hoặc bán ngoại tệ thu bằng tiền ghi sổ kế tốn thì quy đổi ra tiền ghi
sổ kế tốn theo tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm đó.
- Cuối năm tài chính, doanh nghiệp phải đánh giá lại các khoản mục, tài khoản
có gốc ngoại tệ theo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng tại thời điểm lập
BCĐKT.
- Chênh lệch TGHĐ phát sinh trong kỳ và chênh lệch đánh giá lại ngoại tệ cuối
kỳ của hoạt động kinh doanh kể cả doanh nghiệp vừa có hoạt động kinh doanh vừa
có hoạt động xây dựng cơ bản được ghi nhận ngay vào doanh thu hoặc chi phí tài
chính trong kỳ.
1.3.3 Kế tốn nhập khẩu hàng hố trong các doanh nghiệp kinh doanh hàng
hoá nhập khẩu theo chế độ hiện hành.
1.3.3.1 Hệ thống chứng từ kế toán..
Chứng từ là cơ sở đảm bảo cho hợp đồng ngoại thương diễn ra sn sẻ. Nó giúp
người nhập khẩu cũng như các hãng bảo hiểm có được quyền sở hữu các giấy tờ cần
thiết đảm bảo cho hợp đồng nhập khẩu hàng hố diễn ra thuận lợi. Nhờ có bộ chứng



×