Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Căn cứ xác định nghĩa vụ chung nghĩa vụ riêng của vọ chồng về tài sản và hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.53 KB, 14 trang )

Mục lục:
A, ĐẶT VẤN ĐỀ…………..………………………………….....……2
B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………………………........3
I, Căn cứ xác định nghĩa vụ chung và nghĩa vụ riêng của vợ, chồng về
tài sản..…………………………………………………….………...…3
1, Căn cứ xác định ghĩa vụ chung của vợ, chồng về tài sản…………………...…3
a, Căn cứ xác định nghĩa vụ chung về cấp dưỡng…………………………...…...3
b, Căn cứ xác đinh nghĩa vụ chung về tài sản chung…………………………….5

2, Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng của vợ, chồng về tài sản……………………..7
II, Hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề nghĩa vụ chung và nghĩa vụ
riêng của vợ chồng về tài sản………………………………..………..10
1, Hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề nghĩa vụ chung của vợ chồng về tài
sản……………………………………………………………………………….10
2, Hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề nghĩa vụ riêng của vợ chồng về tài
sản……………………………………………………………………………….11

C, KẾT LUẬN………………………………………………………..12

1


I, ĐẶT VẤN ĐỀ:
Với người Việt Nam, hôn nhân và gia đình là những quan hệ xã hội quan
trọng nhất trong cuộc sống. Con người sống gắn chặt với gia đình, phẩm chất và
giá trị của từng người phụ thuộc rất nhiều vào hơn nhân và gia đình. Một gia đình
mẫu mực, một gia đình thuận hịa quyết định phần lớn tới bản chất của con
người. Gia đình hiện nay còn được xem là tế bào của xã hội, do vậy muốn có một
xã hội phát triển và lành mạnh thì cần phải có các gia đình tốt – gia đình văn hóa
mới. Gia đình là cái nơi sản sinh ra con người, nuôi dưỡng và giáo dục con người
cho xã hội, vì vậy Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua luôn luôn quan tâm


tới vấn đề gia đình. Luật hơn nhân và gia đình có vai trị góp phần xây dựng,
hồn thiện và bảo vệ chế độ hơn nhân và gia đình tiến bộ, nhằm xây dựng gia
đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.
Do tính cộng đồng hợp nhất của quan hệ hôn nhân nên để đảm bảo những nhu
cầu thiết yếu của gia đình, thỏa mãn các nhu cầu về vật chất, tinh thần của vợ
chồng và để thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng giáo dục các con….thì cần
phải có tài sản, tiền bạc, sản nghiệp của vợ, chồng. Vì thế, bên cạnh đời sống tình
cảm, sự yêu thương gắn bó giữa vợ và chồng khơng thể khơng nói đến vấn đề tài
sản của vợ chồng. Chính vì thế, sau đây tôi xin làm rõ những vấn đề liên quan
đến tài sản của vợ chồng qua chủ đề bài viết: “căn cứ xác định nghĩa vụ chung,
nghĩa vụ riêng của vọ, chồng về tài sản và hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề
này.

2


B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I, Căn cứ xác định nghĩa vụ chung và nghĩa vụ riêng của
vợ, chồng về tài sản:
1, Căn cứ xác định ghĩa vụ chung của vợ, chồng về tài sản:
a, Căn cứ xác định nghĩa vụ chung về cấp dưỡng:
Khi hôn nhân đang tồn tại, vợ chồng có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng trong thời kì hơn nhân được đặt ra. Trong
trường hợp vì lý do nào đó nên họ khơng cùng chung sống mà một trong hai bên
ốm đau, tàn tật, có khó khăn, túng thiếu cần được chăm sóc nhưng bên kia khơng
quan tâm chăm sóc. Nếu người có khó khăn túng thiếu yêu cầu được cấp dưỡng
thì nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng trong hôn nhân mới được đặt ra.
- Vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau khi ly hơn. Điều 60
Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và
chồng khi ly hôn chỉ xảy ra khi thỏa mãn hai điều kiện sau:

+, Một bên khó khăn, túng thiếu, có u cầu cấp dưỡng và có lý do chính
đáng.
+, Bên kia có khả năng để cấp dưỡng.
Đây là hai điều kiện cần và đủ để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu thiếu
một trong hai điều kiện trên thì nghĩa vụ cấp dưỡng không được đặt ra.
Bên túng thiếu yêu cầu được cấp dưỡng phải là trường hợp do ốm đau, già
yếu, khơng có khả năng lao động và cũng khơng có tài sản để sinh sống. Đối với
những người có khó khăn, túng thiếu vì lười biếng khơng chịu lao động khi cịn
có khả năng lao động hoặc khi nghiện ngập, cờ bạc, hoang phí thì khơng được
cấp dưỡng.

3


- Người có khả năng để cấp dưỡng là người có khả năng về kinh tế, có sức
khỏe, có việc làm ổn định và có thu nhập vừa đảm bào cuộc sống vừa thực hiện
được nghĩa vụ cấp dưỡng. Nếu người phải cấp dưỡng có khó khăn hoặc nếu
phải cấp dưỡng sẽ đe dọa đến đời sống của chính họ thì khơng coi là họ có khả
năng để cấp dưỡng và khi đó thì nghĩa vụ cấp dưỡng khơng được đặt ra.
-

Về mức cấp dưỡng giữa vợ và chồng: Pháp luật quy định cụ thể một mức

cấp dưỡng chung và cho phép vợ, chồng tự thoa thuận và tòa án nhân dân cơng
nhận sự thỏa thuận đó. Trong trường hợp vợ chồng khơng thể tự thỏa thuận
được thì tịa án nhân dân sẽ quyết định. Khi quyết định mức cấp dưỡng, Tòa Án
Nhân Dân phải xem xét hợp lý đến khả năng của người phải cấp dưỡng và mức
độ túng thiếu của người được cấp dưỡng để có quyết định mức cấp dưỡng phù
hợp.
- Về thời hạn cấp dưỡng: Luận hơn nhân và gia đình 2000 khơng quy định về

thời gian cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn mà tùy từng trường hợp, các
bên có thể thỏa thuận hoặc tòa án quyết định thời hạn cấp dưỡng. trong trường
hợp chưa hết thời hạn cấp dưỡng mà các bên thỏa thuận hoặc Tòa án quyết định
nhưng nếu bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác hoặc
người được cấp dưỡng được chấm dứt. Tòa án Nhân Dân có thể ra quyết định
tạm ngừng hoặc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng khi có yêu cầu.
Cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn thông thường khi thực hiện theo hàng
tháng hoặc theo thời vụ. Trong trường hợp cụ thể, nếu các bên thỏa thuận được
thì có thể thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần. Xét trên thực tế, nghịa vụ cấp
dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hơn thực hiện một lần là hồn toàn phù hợp với
đặc điểm tâm lý của vợ, chồng khi đã ly hôn.

4


b, Căn cứ xác định nghĩa vụ chung về tài sản chung:
Khoản 2 điều 28, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Tài sản của
vợ, chồng được chi dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa
vụ chung của vợ, chồng”. Nhu cầu đời sống chung của gia đình bao gồm các lợi
ích về tinh thần, vật chất của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình. Tài
sản chung của vợ, chồng là cơ sở kinh tế nhằm đáp ứng những lợi ích của vợ,
chồng và các thành viên gia đình. Tính tất yếu phải có tiền bạc, tài sản chung của
vợ, chồng để đảm bảo cho gia đình tồn tại và phát triển; bảo đảm nghĩa vụ chăm
sóc lẫn nhau giữa vợ chồng; nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục con cái…
Theo khoản 2 điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, tài sản chung của
vợ, chồng phải được bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ, chồng. Cần
xác định nghĩa vụ nào là nghĩa vụ chung của vợ chồng thì khối tài sản chung của
vợ chồng thì khối tài sản chung đó mới phải “ gánh chịu” cho các nghĩa vụ chung
đó. Cho đến nay các văn bản quy định, hướng dẫn, áp dụng luật của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền vẫn bỏ qua vấn đề này.

Cuộc sống chung của vợ chồng và những nhu cầu đời sống chung của gia đình
địi hỏi vợ chồng phải có mối quan hệ (giao dịch) với những người khác và
những phí tổn về vật chất như tiền bạc, tài sản…để đáp ứng cho quyền lợi của vợ
chồng và gia đình như cơm, áo, gạo, tiền…Nhiều khi, tài sản chung của vợ,
chồng không đủ đáp ứng với quyền lợi của gia đình, vợ, chồng đã phải ‘vay,
mượn” tiền bạc, tài sản của người khác vì nhu cầu của gia đình. Đó chính là
những khoản nợ mà vợ, chồng phải có nghĩa vụ thanh tốn trả cho người chủ nợ.
Khối tài sản cộng đồng (tài sản chung vợ chồng) phải đảm bảo cho các món nợ
đó. Theo nguyên tắc, nếu là nợ chung thì cả vợ, chồng phải có nghĩa vụ trả nợ (có
thể trích từ khối tài sản chung của vợ, chồng hoặc xác định nghĩa vụ của cả hai
vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm chi trả khoản nợ đó), ngược lại, nếu vợ,
chồng vay nợ sử dụng vào mục đích riêng, bảo đảm cho nhu cầu riêng thì người
5


vợ, chồng đó phải có nghĩa vụ thanh tốn bằng tài sản riêng (hoặc phần tài sản
của người vợ, chồng đó trong khối tài sản chung của vợ, chồng khi có u cầu,
nếu vợ chồng khơng có tài sản riêng), mà không buộc người vợ, chồng kia phải
liên đới trách nhiệm.
Thực tế cho thấy, vấn đề phân biệt nợ chung hay nợ riêng của vợ, chồng là rất
khó khăn trên cơ sở đó để quy kết nghĩa vụ chung của vợ, chồng hay trách nhiệm
cá nhân của vợ, chồng. Cuộc sống vợ, chồng rất tế nhị và phức tạp, đặc biệt đối
với gia đình truyền thống phương Đơng. Đời sống vợ chồng chủ yếu là sự gắn kết
tình cảm yêu thương, gắn bó “trăm năm hạnh phúc” giữa vợ chồng, vấn đề tiền
bạc, tài sản thường bị “xem nhẹ”. Tuy nhiên, khi có tranh chấp (như ly hơn) lại
rất gay gắt và phức tạp, thực tiễn áp dụng luật giải quyết các tranh chấp về tài sản
giữa vợ, chồng ở nước ta nhiều năm qua đã chứng minh điều đó. Có trường hợp
món nó đó do một bên vợ, chồng vay hoặc cả hai vợ, chồng cùng đi vay, nhưng
chỉ có một bên vợ, chồng kí vào giấy vay nợ. Khi có tranh chấp, việc xác định
“nợ chung” hay “ nợ riêng’ giữa vợ chồng với chủ nợ thường gặp nhiều khó

khăn.
Một giải pháp đã được Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 (điều 25) đặt ra, đó
là:
“ Vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do
một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
Quy định này nhằm quy kết nghĩa vụ chung của cả 2 vợ, chồng đối với các giao
dịch dân sự hợp pháp do một bên vợ hoặc chồng thực hiện vì nhu cầu thiết yếu
của gia đình (nghĩa là tài sản chung của vợ chồng được đảm bảo cho các giao
dịch hợp pháp dù chỉ có một bên vợ, chồng thực hiện vì lợi ích gia đình). Như
vậy, nếu một bên vợ, chồng vay mượn nhằm đáp ững nhu cầu thiết yếu của gia
đình (như ăn, ở, học hành, chữa bệnh) thì món nợ đó được đảm bảo thanh tốn
bằng tài sản chung của vợ chồng, nghĩa là cả hai vợ chồng đều có chung nghĩa vụ
6


trả món nợ đó. Tuy nhiên cần phải xác định vợ, chồng vay nợ có nhằm đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình hay khơng và nhu cầu sinh hoạt thiết yếu
của gia đình bao gồm những gì? Luật và những văn bản hướng dẫn áp dụng của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa quy định và hướng dẫn cụ thể về vấn
đề này.

2, Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng của vợ, chồng về tài sản:
Vợ, chồng với tư cách là chủ sở hữu tài sản riêng của mình, có quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản riêng đó một cách độc lập, khơng bị chi phối
bởi ý chí của người chồng, vợ kia (trừ trường hợp được quy định tại khoản 5 điều
33 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000). Đồng thời, theo luật định, vơ, chồng
cũng phải chịu trách nhiệm (thực hiện nghĩa vụ) đối với các hành vi của vợ,
chồng liên quan tới tài sản riêng của mỗi bên.
-


Thứ nhất, theo quy định tại khoản 4 điều 33 Luật hơn nhân và gia đình năm

2000, “tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu
của gia đình trong trường hợp tài sản chung khơng đủ để đáp ứng”. Nói cách
khác, trong trường hợp cuộc sống chugn của gia đình gặp khó khăn, tài sản
chung khơng đủ đảm bảo thì vợ, chồng có nghĩa vụ sử dụng, đóng góp tài sản
riêng của mình nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu đó của gia đình, bảo đảm cuộc
sống của vợ chồng và các con. Nghĩa vụ này của vợ, chồng xuất phát từ việc
đảm bảo lợi ích chung của gia đình.
- Thứ hai, theo khoản 3 điều 33 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 thì
“ nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của
người đó”.
Nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng (cịn gọi là nợ riêng của vợ, chồng) phát
sinh từ các khoản nợ mà vợ, chồng vay của người khác, sử dụng vào mục đích cá

7


nhân, mà khơng vì lợi ích chung của gia đình; hoặc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
do hành vi trái pháp luật của vợ, chồng hay các loại nghĩa vụ khác theo luật định
(nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình như cha, mẹ, vợ, chồng,
con cái mà vợ, chồng phải thực hiện). Như vậy, theo quy định của vợ, chồng phải
bằng tài sản riêng của mình để bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
+, Một là, nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác từ
trước khi kết hôn mà khơng vì nhu cầu đời sống chung của gia đình.
+, Hai là, nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trong
thời kì hơn nhân sử dụng vào mục đích riêng, khơng đáp ứng các nhu cầu thiết
yếu và lợi ích chung của gia đình.
Các khoản nợ trên đây vợ, chồng vay từ trước hoặc trong thời kì hơn nhân
đã chỉ bảo đảm cho quyền lợi riêng của vợ, chồng. Vì vậy, vợ, chồng phải thực

hiện nghĩa vụ trả nợ đó bằng tài sản riêng của mình, khơng thể buộc người chồng,
vợ kia phải liên đới thực hiện các loại nghĩa vụ này. Nếu tài sản riêng khơng đủ
trả nợ thì phải trích phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của vợ,
chồng để trả nợ (theo điều 18 Luật hôn nhân và gia đình.
+, Ba là, nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng,
định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nợ phát sinh khi vợ, chồng đã tiến hành
khai thác các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kì hơn nhân mà vợ, chồng
khơng có thỏa thuận những hoa lợi, lợi tức đó vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi
người.
Quá trình quản lý, sử dụng, bảo quản tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ
hôn nhân bằng các khoản chi phí mà vợ, chồng vay của người khác, theo nguyên
tắc, vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản riêng của mình.
+, Bốn là, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi vợ, chồng là người quản lí di sản
thừa kế mà đã có hành vi thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán, phá tán hoặc làm

8


hư hỏng, mất mát di sản (khoản 3 điều 12 nghị định 70/2001/NĐ – CP ngày
3/10/2001). Trong trường hợp này, những người thừa kế khác có quyền u cầu.
Tịa án tun bố giao dịch vơ hiệu hóa và có quyền yêu cầu chia tài sản;
người vợ, chồng còn sống mà quản lý di sản đó có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt
hại cho những người thừa kế khác theo quy định của pháp luật.
+, Năm là, các khoản nợ phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản gắn liền
với nhân thân vợ, chồng như các khoản chi phí cho con riêng của mình; hoặc các
chi phí cho người mà vợ, chồng là giám hộ của người đó theo quy định của pháp
luật dân sự và Luật hôn nhân và gia đình.
+, Sáu là, nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiện liên đới với các
thành viên trong gia đình theo quy định của chương V Luật hơn nhân và gia đình
năm 2000

Trong quan hệ gia đình, vợ, chồng với tư cách là ông, bà, cha, mẹ, con,
chau, anh, chị, em phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với các thành viên khác
trong gia đình theo quy định tại điều 47 đến 62 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000.
+, Bảy là, nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng mà vợ, chồng là người
đước giao quản lý nhưng đã làm tiêu tán hoặc sử dụng khơng đúng mục đích.
+, Tám là, nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh dựa trên cơ sở vợ, chồng đã có
hành vi tiến hành các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn
của vợ, chồng hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình (vi phạm khoản 3 điều
28 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000.
+, Chín là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật.
Về nguyên tắc, đối với các khoản nợ và nghĩa vụ phát sinh trên đây, vợ,
chồng có nghĩa vụ phải thanh tốn, bồi thường bằng tài sản riêng của mình; nếu
tài sản khơng có hoặc khơng đủ thì trích chia phần tài sản của vợ, chồng trong
khối tài sản chung của vợ, chồng để thực hiện nghĩa vụ. Cũng có thể, nghĩa vụ tài
9


sản của vợ, chồng được thực hiện bằng tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng
thỏa thuận.

II, Hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề nghĩa vụ chung
và nghĩa vụ riêng của vợ chồng về tài sản:
1, Hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề nghĩa vụ chung của vợ chồng về tài
sản:
Theo các quy định tại điều 25, khoản 2 điều 28 và khoản 3 điều 95 Luật hơn
nhân và gia đình năm 2000, nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng chưa được
luật định cụ thể.
Về trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch dân sự hợp pháp do
một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia

đình (Điều 25), luật cần dự liệu “nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình “bao
gồm các nhu cầu về ăn, ở, mặc, học hành, khám chữa bệnh và các chi phí thơng
thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của các thành viên trong gia đình.
Luật cần dự liệu cụ thể (bổ sung khoản 2 điều 28 Luật hơn nhân và gia đình
năm 2000) về tài sản chung của vợ chồng được bảo đảm thực hiẹn các nghĩa vụ
chung bao gồm:
- Các khoản nợ phát sinh nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia
đình.
- Các khoản nợ liên quan đến việc tạo lập, quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản
chung của vợ, chồng.
- Các khoản nợ liên quan đến tài sản riêng của vợ, chồng đã được đưa vào sử
dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất
của gia đình.

10


- Các khoản nợ phát sinh có liên quan đến công việc mà cả hai cùng thực
hiện.
- Các khoản nợ theo thỏa thuận của cả hai vợ chồng.
2, Hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề nghĩa vụ riêng của vợ chồng về tài
sản:
Theo khoản 3 điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, nghĩa vụ riêng về
tài sản của mỗi bên vợ, chồng được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Tuy
nhiên quy định này cịn q chung chung, chưa có căn cứ cụ thể để xác định loại
nghĩa vụ tài sản này. Vì vậy, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng nên bao gồm
những nghĩa vụ như tôi đã nêu ở trên như sau:
+, Một là, nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác từ
trước khi kết hơn mà khơng vì nhu cầu đời sống chung của gia đình.
+, Hai là, nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trong

thời kì hơn nhân sử dụng vào mục đích riêng, khơng đáp ứng các nhu cầu thiết
yếu và lợi ích chung của gia đình.
+, Ba là, nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng,
định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nợ phát sinh khi vợ, chồng đã tiến hành
khai thác các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kì hơn nhân mà vợ, chồng
khơng có thỏa thuận những hoa lợi, lợi tức đó vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi
người.
+, Bốn là, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi vợ, chồng là người quản lí di sản
thừa kế mà đã có hành vi thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán, phá tán hoặc làm
hư hỏng, mất mát di sản (khoản 3 điều 12 nghị định 70/2001/NĐ – CP ngày
3/10/2001). Trong trường hợp này, những người thừa kế khác có quyền yêu cầu.
+, Năm là, các khoản nợ phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản gắn liền
với nhân thân vợ, chồng như các khoản chi phí cho con riêng của mình; hoặc các

11


chi phí cho người mà vợ, chồng là giám hộ của người đó theo quy định của pháp
luật dân sự và Luật hơn nhân và gia đình.
+, Sáu là, nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiện liên đới với các
thành viên trong gia đình theo quy định của chương V Luật hơn nhân và gia đình
năm 2000
+, Bảy là, nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng mà vợ, chồng là người
đước giao quản lý nhưng đã làm tiêu tán hoặc sử dụng khơng đúng mục đích.
+, Tám là, nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh dựa trên cơ sở vợ, chồng đã có
hành vi tiến hành các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn
của vợ, chồng hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình (vi phạm khoản 3 điều
28 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000.
+, Chín là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật.


C, KẾT LUẬN:
Luật hôn nhân và gia đình đã quy định về vấn đề nghĩa vụ chung và nghĩa vụ
riêng của vợ, chồng về tài sản trên cơ sở thực tiễn nhằm xây dựng một gia đình
ấm no, hạnh phúc, bình đẳng và tiến bộ. Qua đó, nhận thức được những vấn đề
quan trọng giúp vợ, chồng hiểu được nghĩa vụ của mình và cùng nhau vượt qua
sóng gió để có một gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên, vẫn cịn đó những hạn chế cần
được khắc phục để quy định ngày một hoàn thiện hơn và được áp dụng một cách
có hiệu quả vào thực tế. Đảng và nhà nước đang vô cùng nỗ lực để hoàn thành
những vướng mắc giúp cuộc sống con người được hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1, Giáo trình Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội,
nhà xuất bản công an nhân dân.
2, Quyền sở hữu của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000,
Nguyễn Văn Cừ, tạp chí luật học năm 2002.
3, Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong luật hơn nhân và gia đình,
Nguyễn Hồng Hải, tạp chí luật học năm 1998.
4, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật hôn nhân và gia đình năm 2000,
luật sư – thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ, thạc sĩ Ngơ Thị Hường, nhà xuất bản chính trị
quốc gia.
5, Nguyên lý và thực hành Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, thạc sĩ luật
Nguyễn Tiến, luật gia Quốc Tuấn, tủ sách khoa học pháp lý.
6, Chế độ tài sản của vợ, chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
tiến sĩ Nguyễn Văn Cừ, nhà xuất bản tư pháp.
7, http: //www.google.com.vn


13


8,
9,

14



×