Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Phân tích chuỗi cung ứng sản phẩm hoa lily tại viện nghiên cứu rau quả thuộc viện khoa học nông nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 123 trang )

TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Thưởng thức cái đẹp ln là nhu cầu chính đáng của con người từ xưa tới nay.
Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu đó của con người cũng ngày
càng cao hơn, tinh tế hơn, các tiêu chuẩn để đánh giá cái đẹp cũng cao hơn và khắt khe
hơn. Hoa lại luôn là biểu tượng của cái đẹp và thú chơi hoa, thưởng thức hoa luôn là thú
chơi rất tao nhã. Cũng bởi hoa mang muôn vàn màu sắc, hình dáng và hương thơm khác
nhau nên hoa ln được con người dùng để trang trí trong những dịp đặc biệt như ngày
lễ, Tết, cưới hỏi, và cả trong các đám ma chay… Ngày nay, cùng với sự phát triển của
xã hội, hoa cũng được dùng để đáp ứng nhu cầu hàng ngày của con người, từ hoa tươi
đến các sản phẩm có nguồn gốc từ hoa như nước hoa, hoa khơ… Nó khơng những làm
cho khơng gian nơi có hoa thêm tươi tắn và ngát hương thơm mà còn mang lại cho
người thưởng thức hoa một sự thoải mái nhất định trong tâm hồn. Rõ ràng, hoa là không
thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của con người và nó ngày càng có vị trí quan trọng.
Theo một số kết quả nghiên cứu cho thấy trồng hoa mang lại hiệu quả kinh tế
cao gấp hàng trăm lần so với trồng lúa. Với điều kiện tự nhiên đa dạng, truyền thống
canh tác lâu đời và một thị trường rộng lớn, ngành sản xuất hoa của Việt Nam, đặc biệt
trong vụ đơng có những lợi thế rõ rệt. Ở Việt Nam, đặc biệt là thành phố Đà Lạt nơi
trồng, tiêu thụ và xuất khẩu hoa lớn nhất cả nước với diện tích trên 3.500 ha, chiếm
40% diện tích và 50% sản lượng của cả nước. Mỗi năm, Đà Lạt cung ứng cho thị
trường trong nước và xuất khẩu khoảng 10 triệu cây hoa giống. Tuy nhiên nước ta lại
chưa tận dụng hết được lợi thế của mình do trình độ canh tác và tập quán sản xuất còn
lạc hậu. Trong vài năm trở lại đây, Việt Nam đẩy mạnh phát triển thêm nhiều vùng
trồng hoa với quy mô lớn nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Hầu hết các
vùng trồng hoa cắt cành tập trung ở Hải Phòng, Lâm Đồng và ven các thành phố lớn
như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,…. Ngồi ra, ở một số địa điểm có tiềm năng và
khí hậu thuận lợi cho sản xuất hoa như Sapa nhưng có quy mô nhỏ lẻ.


Trong số những loại hoa cắt cành đang được ưa chuộng hiện nay, hoa Lily là
một trong những lồi hoa cắt cành có giá trị kinh tế và giá trị xuất khẩu cao, được
người tiêu dùng ưa chuộng, là loại cây mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ở Việt Nam, hoa
Lily được trồng ở Đà Lạt từ rất lâu nhưng chỉ với số lượng nhỏ. Trong những năm gần
đây, nhu cầu tiêu thụ hoa Lily của người tiêu dùng ngày càng cao, hoa Lily được trồng

Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 1


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

phổ biến hơn khơng chỉ ở các vùng có khí hậu ôn đới như Đà Lạt, Lâm Đồng… mà
hoa Lily đang ngày càng được trồng phổ biến ở các tỉnh trong cả nước.
Viện Nghiên cứu Rau quả với chức năng chính là nghiên cứu chọn tạo và chuyển
giao khoa học công nghệ các loại rau quả và hoa cây cảnh; Ngoài ra, trong những năm
qua Viện cũng là đơn vị trung gian cung cấp một số lượng đáng kể củ hoa Lily giống
phục vụ sản xuất cho Hà Nội và khu vực các tỉnh thành xung quanh, đồng thời cung cấp
một số lượng hoa Lily lớn vào những dịp như lễ Tết cho thị trường Hà Nội. Tuy nhiên
việc cung cấp hoa không thường xuyên như vậy khiến cho việc tiêu thụ hoa gặp nhiều
khó khăn. Hơn nữa thị trường hoa ở Hà Nội là thị trường lớn, nhu cầu người tiêu dùng
cao nên khả năng cung ứng của Viện và các vùng lân cận còn nhiều hạn chế.
Những năm qua, các nghiên cứu của Viện về khoa học công nghệ về hoa cây
cảnh trong đó có hoa Lily khá nhiều, nhưng chưa có nghiên cứu nào về chuỗi cung ứng
hoa Lily tại Viện, nhằm cải thiện chuỗi cung ứng thông qua nghiên cứu các tác nhân
trong chuỗi, làm tăng hiệu quả kinh tế, đảm bảo lợi ích của các tác nhân tham gia.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tơi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Phân tích

chuỗi cung ứng sản phẩm hoa Lily tại Viện nghiên cứu Rau quả thuộc Viện Khoa
học Nơng nghiệp Việt Nam”, có địa chỉ tại Thị trấn Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung: Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích chuỗi cung ứng sản phẩm hoa
Lily tại khu vực nghiên cứu, từ đó đưa ra những giải pháp góp phần hồn thiện và thúc
đẩy tiêu thụ hoa hiệu quả hơn.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể:
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về chuỗi cung ứng sản
phẩm nông nghiệp nói chung và hoa nói riêng;
- Tìm hiểu, phân tích hoạt động và mối quan hệ của các tác nhân trong chuỗi
cung ứng sản phẩm hoa Lily tại địa bàn nghiên cứu;
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và hoàn thiện chuỗi cung ứng.
1.3

Câu hỏi nghiên cứu

a)

Khái quát chung về chuỗi cung ứng:



Chuỗi cung ứng là gì?



Đặc điểm của chuỗi cung ứng?

Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52


Page 2


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP



Tại sao phải quản trị chuỗi cung ứng?



Mối quan hệ giữa chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị

b)

Cấu trúc và hoạt động của chuỗi cung ứng hoa như thế nào?



Chuỗi cung ứng hoa Lily gồm những tác nhân nào? Trong chuỗi cung ứng đó

thì tác nhân nào đóng vai trị trung tâm trong chuỗi?


Yếu tố nào đóng vai trị quan trọng nhất trong chuỗi cung ứng hoa?




Trong trong chuỗi cung ứng hoa Lily, sự dịch chuyển của sản phẩm, giá trị và

thông tin diễn ra như thế nào?


Hiệu quả và chi phí của chuỗi như thế nào? Tác nhân nào trong chuỗi có xu

hướng điều khiển chuỗi trong tương lai?
c)

Mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi như thế nào?

d)

Thuận lợi, khó khăn trong chuỗi là gì?

e)

Những giải pháp hồn thiện chuỗi cung ứng?

1.4

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.4.1

Đối tượng nghiên cứu:
Chuỗi cung ứng hoa Lily, các tác nhân trong chuỗi: đối tượng cung ứng đầu


vào, Viện nghiên cứu Rau quả, người sản xuất hoa, người thu gom, người bán buôn,
người bán lẻ, người vận chuyển…. tại địa bàn nghiên cứu.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài thực hiện tại Viện nghiên cứu Rau quả, bộ môn
Hoa – cây cảnh, các hộ trồng hoa Lily “liên kết” với Viện ở Hà Nội và các tỉnh xung
quanh, các khu bán hoa và các khu phụ cận có liên quan.
- Phạm vi thời gian:


Thời gian thực hiện đề tài từ : 25/01/2011 – 25/05/2011.



Thời gian nghiên cứu: Hoa Lily trong dịp Tết Nguyên Đán năm 2010.

- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Do thời gian có hạn, đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu vào các hoạt động chủ yếu của chuỗi cung ứng hoa Lily tại địa bàn nghiên cứu.

Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 3


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Chuỗi cung ứng

a)

Khái niệm chuỗi cung ứng:
Trong xu thế tồn cầu hóa như hiện nay, việc một sản phẩm mang thương hiệu

nổi tiếng của nước ngoài nhưng lại được sản xuất ở Việt Nam đã là thự tế không còn
xa lạ. Tuy nhiên, chắc chắn cho đến nay nhiều người trong chúng ta vẫn chưa biết rõ
hành trình của những sản phẩm như thế đã trải qua để đến với người tiêu dùng. Hành
trình đó là sự phối hợp của rất nhiều khâu, từ nhà cung cấp nguyên phụ liệu, các nhà
máy gia công trên khắp thế giới, các đơn vị vận chuyển đến các trung tâm phân phối,
các cửa hiệu bán sỉ, bán lẻ… Để có được sự phối hợp này tiến hành một cách suôn sẻ,
vừa tiết kiệm chi phí tối đa vừa đem lại nhiều lợi ích nhất cho các bên liên quan cần có
sự liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau. Sự liên kết đó sẽ tạo nên một dịng chảy
của sản phẩm, của thơng tin, của giá trị và hình thành nên chuỗi giá trị của sản phẩm
đó. Sự tác động qua lại giữa các dòng chảy đã tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa các
thành viên trong chuỗi. Các Công ty, doanh nghiệp nào biết cách xây dựng và tham gia
vào những chuỗi cung ứng mạnh mẽ sẽ có lợi thế cạnh tranh bền vững trong thị trường
của họ.
Theo giáo trình quản trị chuỗi cung ứng: Chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các
doanh nghiệp tham gia, một cách trực tiếp hay gián tiếp, trong việc đáp ứng nhu cầu
khách hàng. Chuỗi cung ứng không chỉ bao gồm các nhà sản xuất và nhà cung cấp mà
chuỗi cung ứng còn bao gồm công ty vận tải, nhà kho, nhà bán lẻ và khách hàng của
nó.

Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 4


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Dịng sản phẩm và dịch vụ
Thu hồi và tái chế
Nhà SX sản phẩm
cuối cùng
Nhà Cung
cấp NVL

Khách hàng

Nhà kho và
phân phối
trung gian

Nhà SX linh
kiện trung
gian
Chi phí sản
xuất

Khách hàng

Nhà SX linh
kiện trung
gian
Chi phí tồn
kho
Chi phí NVL


Chi phí vận
chuyển

Khách hàng

Sơ đồ 2.1 Chuỗi cung ứng điển hình
Nguồn: Giáo trình quản trị chuỗi cung ứng

Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 5


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Theo TS. Hau Lee và đồng tác giả Corey Billington, chuỗi cung ứng là mạng lưới
các phương tiện phục vụ thu mua ngun vật liệu thơ, chuyển hóa chúng thành những
sản phẩm trung gian, tới sản phẩm cuối cùng là giao sản phẩm đó tới khách hàng thơng
qua hệ thống phân phối. Chuỗi cung ứng được thể hiện theo sơ đồ sau:

Sơ đồ 2.2 Chuỗi cung ứng
Nguồn: Lee & Billington, 1995

Chuỗi cung ứng bao gồm sự liên kết và tương tác lẫn nhau giữa những nhà cung
ứng nguyên liệu thô, nhà sản xuất, nhà phân phối, hệ thống phân phối, hệ thống vận
chuyển và khách hàng.
Chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các hoạt động liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp

làm thỏa mãn nhu cầu của khác hàng. Chuỗi cung ứng không chỉ bao gồm các nhà sản
xuất, các nhà cung cấp mà cịn có những người vận chuyển, hệ thống kho bảo
quản,những nhà bán lẻ và cả khách hàng (Nguyễn Kim Anh, 2006).
Chuỗi cung ứng là mạng lưới các phương tiện, các lựa chọn phân phối nhằm thực
hiện chức năng thu mua nguyên vật liệu, biến đổi chúng thành các sản phẩm trung gian
và sản phẩm cuối cùng, phân phối những sản phẩm đó tới khách hàng cuối cùng.
Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn sản xuất và phân phối nhằm thực
hiện các chức năng thu mua nguyên liệu, chuyển đổi nguyên liệu thành bán thành phẩm
và thành phẩm, và phân phối chúng cho khách hàng (Ran and Terry P.Harrison, 1995).
Từ những định nghĩa trên ta có thể thấy được chuỗi cung ứng là một hệ thống gồm
nhiều thành phần có mối liên kết chặt chẽ giữa các thành viên có liên quan, trực tiếp hay
Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 6


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

gián tiếp, đến việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Từ đó nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh cho sản phẩm và phân phối chúng một cách nhanh và hiệu quả nhất đến khách hàng.
b) Khái niệm quản trị chuỗi cung ứng
Thuật ngữ “quản lý chuỗi cung ứng” xuất hiện cuối những năm 80 và trở nên phổ
biến trong những năm 90. Trước đó, các cơng ty sử dụng thuật ngữ như ‘hậu cần”
(logistics) và “quản lý các hoạt động” (Operations management). Quản trị chuỗi cung
ứng là tập hợp những phương thức sử dụng một cách tích hợp và hiệu quản giữa nhà
cung cấp, người sản xuất, hệ thống kho bãi và các cửa hàng nhằm phân phối hàng hóa
được sản xuất đến đúng địa điểm, đúng lúc với đúng yêu cầu về chất lượng, với mục
đích giảm thiểu chi phí toàn hệ thống trong khi vẫn thỏa mãn những yêu cầu về mức độ

phục vụ (Giáo trình quản trị chuỗi cung ứng, 2008).
Quản trị chuỗi cung ứng được xem như đường ống hoặc dây dẫn điện nhằm quản
trị một cách hữu hiệu và hiệu quả dòng sản phẩm, dịch vụ, thơng tin và tài chính từ nhà
cung cấp của nhà cung cấp thường xuyên qua các tổ chức, công ty trung gian nhằm đến
với khách hàng của khách hàng hoặc hệ thống mạng lưới hậu cần giữa nhà cung cấp đầu
tiên đến khách hàng cuối cùng.
Theo Viện quản trị chuỗi cung ứng mô tả quản trị chuỗi cung ứng là việc thiết kế
và quản lý các tiến trình xuyên suốt, tạo ra giá trị cho các tổ chức để đáp ứng nhu cầu
thực sự của khách hàng cuối cùng. Sự phát triển và tích hợp nguồn lực con người và
cơng nghệ là then chốt cho việc tích hợp chuỗi cung ứng thành công (The Institute for
supply management, 2000).
Theo Hội đồng chuỗi cung ứng thì quản trị chuỗi cung ứng là việc quản lý cung
và cầu, xác định nguồn nguyên vật liệu và chi tiết, sản xuất và lắp ráp, kiểm tra kho hàng
và tồn kho, tiếp nhận đơn hàng và quản lý đơn hàng, phân phối qua các kênh và phân
phối đến khách hàng cuối cùng.
Theo Hội đồng quản trị hậu cần, một tổ chức phi lợi nhuận thì quản trị chuỗi cung
ứng là sự phối hợp chiến lược và hệ thống các chức năng kinh doanh truyền thống và các
sách lược xuyên suốt các chức năng này trong một công ty cụ thể và giữa các doanh nghiệp
trong chuỗi cung ứng với mục đích cải thiên thành tích dài hạn của các công ty đơn lẻ và
của cả chuỗi cung ứng (Courtesy of the Council of Logistics Manangement, 2002).
Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 7


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Theo TS.Hau Lee và Billington thì quản trị chuỗi cung ứng là việc tích hợp các

hoạt động xảy ra ở các cơ sở của mạng lưới nhằm tạo ra nguyên vật liệu, dịch chuyển
chúng vào sản phẩm trung gian và sau đó đến sản phẩm hồn thành cuối cùng, và phân
phối sản phẩm đến khách hàng thông qua hệ thống phân phối.
Qua đó, ta thấy các khái niệm này đều có điểm chung là sự phối hợp và hợp
nhất số lượng lớn các hoạt động liên quan đến sản phẩm trong số các thành viên của
chuỗi nhằm cải thiện năng suất hoạt động, chất lượng và dịch vụ khách hàng nhằm
đạt được lợi thế cạnh tranh bền vững cho tất cả các tổ chức liên quan đến việc cộng
tác này. Nhưng điểm khác biệt của chuỗi cung ứng là các doanh nghiệp trong chuỗi
cung ứng hoàn toàn tự do trong việc quyết định thâm nhập hoặc rời khỏi mối quan hệ
chuỗi nếu quan hệ này khơng cịn đem lại lợi ích cho họ.
c) Khái niệm chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị, cũng được biết đến như là chuỗi giá trị phân tích, là một khái
niệm từ quản lý kinh doanh đầu tiên đã được mô tả và phổ cập bởi Michael Porter
vào năm 1985 trong cuốn sách best-seller của ơng có tựa đề: Competitive Advantage:
Creating and Sustaining Superior Performance (Tạm dịch: Lợi thế Cạnh tranh: Tạo
và duy trì có hiệu suất ở mức cao). Theo ông, chuỗi giá trị là tập hợp các hoạt động
để đưa sản phẩm từ một khái niệm cho đến khi đưa vào sử dụng và cả dịch vụ sau
bán hàng. Như vậy, chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động như thiết kế mẫu mã, sản
xuất, marketing, phân phối và dịch vụ sau khi bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Những hoạt động này có thể được thực hiện trong phạm vi một doanh nghiệp hoặc
được chia sẻ giữa các doanh nghiệp khác nhau.
Trong chuỗi giá trị này, mơ hình Porter khoanh thành hai mảng chính cho kinh
doanh: hoạt động bổ trợ và hoạt động chính. Về cơ bản, tổng thể có chín loại hoạt động
tạo ra giá trị trong tồn chuỗi.


Nhóm hoạt động chính thì bao gồm dãy năm loại hoạt động
- Hậu cần đến: gồm việc nhận, lưu trữ và dịch chuyển đầu vào vào sản phẩm như

quản trị nguyên vật liệu, kho bãi, kiểm sốt tồn kho, lên lịch trình xe cộ và trả lại sản

phẩm cho nhà cung cấp.
- Sản xuất: Chuyển đổi đầu vào thành sản phẩm hồn thành. Ví dụ như: gia cơng
cơ khí, đóng gói, lắp ráp, bảo trì thiết bị, kiểm tra, in ấn và quản lý cơ sở vật chất.
Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 8


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

- Hậu cần ra ngoài: Là những hoạt động kết hợp với việc thu thập, lưu trữ và
phân phối hàng hóa vật chất sản phẩm đến người mua.
- Marketing và bán hàng: Là những hoạt động liên quan đến quảng cáo, khuyến mãi,
lựa chọn kênh phân phối, quản trị mối quan hệ giữa các thành viên trong kênh và định giá.
- Dịch vụ khách hàng: Các hoạt động liên quan đến việc cung cấp dịch vụ nhằm
gia tăng giá trị của sản phẩm.
Trong các hoạt động trên thì hậu cần đến và hậu cần ra là các thành tố quan trọng
và then chốt của chuỗi giá trị, là yếu tố chính tạo ra “giá trị” cho khách hàng của doanh
nghiệp và mang lại lợi ích tài chính cho cơng ty.


Nhóm bổ trợ chứa các hoạt động tạo ra giá trị bao gồm
- Thu mua: Đó là việc thu mua nguyên vật liệu đầu vào được sử dụng trong chuỗi

giá trị của Cơng ty.
- Phát triển cơng nghệ: Đó là các bí quyết, các quy trình thủ tục hoặc cơng nghệ
được sử dụng trong tiến trình hoặc thiết kế sản phẩm.
- Quản trị nguồn nhân lực: Tuyển dụng, đào tạo, phát triển và quản trị thù lao cho

toàn thể nhân viên.
- Cơ sở hạ tầng Công ty.


Các hoạt động bổ trợ xảy ra bên trong từng loại hoạt động chính.

Sơ đồ 2.3 Chuỗi giá trị
(Nguồn: Giáo trình quản trị chuỗi cung ứng)

Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 9


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Xét ở một góc độ khác, chuỗi giá trị cịn được nhìn thơng qua các q trình kinh
doanh chủ đạo, bao gồm:
(a) Q trình phát triển cơng nghệ sản phẩm;
(b) Q trình quản trị kho và nguyên vật liệu đầu vào;
(c) Q trình từ đua hàng tới thanh tốn và
(d) Q trình cung cấp dịch vụ.

Sơ đồ 2.4: Dãy hoạt động chuỗi giá trị
(Nguồn: Michael Porter, 1985)

Chuỗi giá trị là chuỗi của các hoạt động. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động
của các chuỗi theo thứ tự và tại mỗi hoạt động sản phẩm thu được một số giá trị nào đó.

Chuỗi các hoạt động cung cấp cho các sản phẩm nhiều giá trị gia tăng hơn tổng giá trị
gia tăng của tất cả các hoạt động cộng lại.
Theo Cẩm nang ValueLinks – Phương pháp luận để thúc đẩy chuỗi giá trị: Một
chuỗi giá trị là một loạt các hoạt động kinh doanh (hay chức năng) có quan hệ với nhau,
từ việc cung cấp các đầu vào cụ thể cho một sản phẩm nào đó, đến sơ chế, chuyển đổi,
marketing, đến việc cuối cùng là bán sản phẩm đó cho người tiêu dùng - theo quan điểm
chức năng đối với chuỗi giá trị (GTZ Eschborn, 2007).
Một chuỗi giá trị cũng có thể hiểu là một loạt các doanh nghiệp (nhà vận hành)
thực hiện các chức năng này, có nghĩa là nhà sản xuất, nhà chế biến, nhà buôn bán,
và nhà phân phối một sản phẩm cụ thể nào đó. Các doanh nghiệp được kết nối với
nhau bằng một loạt các giao dịch kinh doanh trong đó sản phẩm được chuyển từ tay

Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 10


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

nhà sản xuất sơ chế đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Theo thứ tự các chức năng và
các nhà vận hành, chuỗi giá trị sẽ bao gồm một loạt các đường dẫn trong chuỗi.
Theo Đào Thế Anh, định nghĩa về chuỗi giá trị như sau:
- Chuỗi giá trị là một chuỗi các hoạt động từ cung cấp các dịch vụ đầu vào cho
một sản phẩm cụ thể cho đến sản xuất, thu hái, chế biến, phân phối và tiêu thụ cuối cùng
đối với một sản phẩm cụ thể và được hình thành theo nhu cầu của thị trường.
- Chuỗi giá trị cũng là sự sắp xếp có tổ chức, hợp tác và điều phối giữa người sản
xuất, nhà chế biến, các thương gia, và nhà phân phối liên quan đến một sản phẩm.
- Chuỗi giá trị là mơ hình thể chế kinh tế trong đó kết hợp việc chọn lựa sản

phẩm và cơng nghệ thích hợp cùng với cách thức tổ chức các tác nhân liên quan để
tối ưu hóa giá trị.
- Chuỗi giá trị là một dạng đặc biệt của ngành hàng hay chuỗi cung ứng và chú ý
đến sự phân phối lợi nhuận hợp lý giữa các tác nhân tham gia.
Chuỗi giá trị có thể được thực hiện trong phạm vi một khu vực địa lý hoặc trải
rộng trong phạm vi nhiều quốc gia và trở thành chuỗi giá trị tồn cầu (Global value
chain). Theo cách nhìn này, các doanh nghiệp từ nhiều quốc gia trên thế giới sẽ đóng vai
trị như những mắt xích quan trọng và có thể chi phối sự phát triển của chuỗi giá trị.
Việc phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo quan điểm chuỗi giá trị
chính là một phương pháp hữu hiệu để đánh giá tốt nhất năng lực cạnh tranh, cũng như
vai trò và phạm vi ảnh hưởng của quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu.
d) Mối quan hệ giữa chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị
Mọi người sử dụng những tên gọi khác nhau cho các chuỗi hoạt động và tổ chức.
Khi con người nhấn mạnh đến hoạt động sản xuất, họ xem chúng như là các quy trình
sản xuất; khi họ nhấn mạnh đến khía cạnh marketing họ gọi chúng là kênh phân phối;
khi họ nhìn ở góc độ tạo ra giá trị, họ gọi chúng là chuỗi giá trị; khi họ nhìn nhận về
cách thức thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, họ gọi là chuỗi nhu cầu nhưng khi tập trung
vào sự dịch chuyển nguyên vật liệu thì ta gọi là chuỗi cung cấp hay chuỗi cung ứng.
Nhưng một câu hỏi thường đặt ra nhưng chưa có câu trả lời rõ ràng – liên quan đến
việc phân biệt và làm rõ sự khác nhau giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung cấp. Do đó, ta cần
phân biệt chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng như sau:
Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 11


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP


Ở cấp độ tổ chức, chuỗi giá trị rộng hơn chuỗi cung ứng vì nó bao gồm tất cả các
hoạt động dưới hình thức của các hoạt động chính và hoạt động bổ trợ. Mặt khác, chuỗi
cung ứng bao gồm các hoạt động thu mua nguyên vật liệu, vận chuyển, chuyển hóa các
đầu vào sản phẩm, phân phối các sản phẩm tới khách hàng đều tồn tại trong chuỗi giá trị.
Hay chuỗi cung ứng chính là đại diện cho các hoạt động chính của chuỗi giá trị nên
chuỗi cung ứng như là tập con của chuỗi giá trị.
2.1.2 Cấu trúc chuỗi cung ứng và các tác nhân tham gia chuỗi cung ứng
Với hình thức đơn giản nhất, một chuỗi cung ứng bao gồm công ty, các nhà cung
cấp và khách hàng của cơng ty đó. Đây là tập hợp những đối tượng tham gia cơ bản để
tạo ra một chuỗi cung ứng cơ bản.
Nhà cung cấp

Công ty

Khách hàng

Sơ đồ 2.5 Chuỗi cung ứng giản đơn
Nguồn: Micheal Hugos, 2003

Chuỗi cung ứng mở rộng cịn có thêm 3 đối tượng tham gia truyền thống đó là:
nhà cung cấp của các nhà cung cấp hay nhà cung cấp cuối cùng ở vị trí bắt đầu của chuỗi
cung ứng mở rộng; khách hàng của các khách hàng hay khách hàng ở vị trí kết thúc của
chuỗi cung ứng; tổng thể các công ty cung cấp dịch vụ cho những công ty khác trong chuỗi
cung ứng. Đây là các công ty cung cấp dịch vụ về hậu cần, tài chính, tiếp thị và cơng nghệ
thơng tin.
- Nhà sản xuất: Là các tổ chức sản xuất ra sản phẩm. Bao gồm những công ty sản
xuất nguyên vật liệu và công ty sản xuất thành phẩm.
- Nhà phân phối: Là những cá nhân, công ty mua lượng lớn sản phẩm từ nhà sản
xuất và bán các sản phẩm đó. Họ chịu trách nhiệm phân phối sản phẩm đến tay khách
hàng khi họ muốn và đến nơi họ cần. Đây chính là đối tượng có mối quan hệ chặt chẽ

với khách hàng, nắm bắt, theo dõi nhu cầu của khách hàng. Không chỉ thực hiện các
chiến dịch khuyến mãi, các nhà phân phối còn thực hiện các chức năng như quản lý vận
hành các kho hàng, vận chuyển sản phẩm, hỗ trợ khách hàng, dịch vụ khách hàng.

Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 12


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

Nhà cung cấp
cuối cùng

Nhà cung cấp

cuối cùng

Nhà cung cấp dịch vụ
trong các lĩnh vực:
- Hậu cần
- Tài chính
- Nghiên cứu thị
trường
- Thiết kế sản phẩm
- Cơng nghệ thơng
tin

Nhà cung cấp
cuối cùng


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Nhà cung cấp
cuối cùng

Nhà cung cấp

cuối cùng

Nhà cung cấp

cuối cùng

Sơ đồ 2.6 Chuỗi cung ứng mở rộng
(Nguồn: Micheal Hugos, 2003)

- Nhà bán lẻ: thực hiện chức năng dự trữ sản phẩm và bán cho khách hàng với số

lượng nhỏ hơn. Nhà bán lẻ bán hàng trong khi bán hàng cũng nắm bắt ý kiến và nhu cầu của
khách hàng rất chi tiết. Do nỗ lực chính là thu hút khách hàng đối với những sản phẩm mình
bán, nhà bán lẻ thường quảng cáo và sử dụng một số kỹ thuật về giá cả, sự lựa chọn và sự
tiện dụng của sản phẩm.
- Khách hàng: Khách hàng hay người tiêu dùng là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào mua
và sử dụng sản phẩm. Khách hàng là tổ chức có thể mua một sản phẩm để kết hợp với
sản phẩm khác rồi bán chúng cho khách hàng khác, hoặc sử dụng nó.
- Nhà cung cấp dịch vụ: Đó là những tổ chức cung cấp dịch vụ cho nhà sản xuất,
nhà phân phối, nhà bán lẻ và khách hàng. Nhà cung cấp dịch vụ có những chun mơn
và kỹ năng đặc biệt ở một hoạt động riêng biệt trong chuỗi cung ứng. Chính vì thế, họ có
thể thực hiện những dịch vụ này hiệu quả hơn và với mức giá tốt hơn so với chính các

nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ hay người tiêu dùng làm điều này. Trong bất kỳ
chuỗi cung ứng nào, nhà cung cấp dịch vụ phổ biến nhất là cung cấp dịch vụ vận tải và
dịch vụ nhà kho. Đây là các xe tải và Công ty kho hàng và thường được biết là nhà cung
cấp hậu cần.
- Nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp các dịch vụ như cho vay, phân tích tín
dụng và thu các khoản nợ đáo hạn. Đó chính là ngân hàng, cơng ty định giá tín dụng và
cơng ty thu nợ.
Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 13


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Ngồi ra một nhà cung cấp thực hiện nghiên cứu thị trường, quảng cáo, thiết kế
sản phẩm, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ pháp lý và tư vấn quản lý…
Như vây, ranh giới của chuỗi cung ứng rất linh động. Ranh giới đó kéo dài từ “nhà
cung cấp cho nhà cung cấp của doanh nghiệp đến khách hàng của khách hàng của họ”.
2.1.3 Đặc điểm của chuỗi cung ứng
Mỗi chuỗi cung ứng khác nhau đáp ứng những nhu cầu khác nhau của thị trường
nhưng trong bất kỳ chuỗi cung ứng nào, các cơng ty trong đó cũng cần trả lời cho những
câu hỏi cơ bản về sản xuất, hàng tồn kho, địa điểm, vận chuyển, thông tin. Đây được gọi
là những yếu tố dẫn dắt chuỗi cung ứng.
- Về sản xuất: Thị trường cần có sản phẩm gì? Sản phẩm được sản xuất khi nào
và số lượng bao nhiêu?
- Về tồn kho: Hàng tồn kho nào sẽ được tồn trữ ở mỗi giai đoạn trong chuỗi cung
ứng? Mức tồn kho là bao nhiêu nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm? Xác
định mức độ tồn kho và điểm tái đặt hàng tốt nhất là bao nhiêu?

- Về địa điểm: Nơi nào có điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tồn trữ hàng hóa?
Nơi nào có hiệu quả nhất về chi phí trong việc sản xuất và tồn trữ hàng hóa? Nên sử
dụng những điều kiện thuận lợi sẵn có hay tạo ra điều kiện thuận lợi mới?
- Về vận chuyển: Vận chuyển sản phẩm bằng phương tiện nào là hợp nhất tùy
theo từng điều kiện khác nhau về chủng loại hàng hóa, khối lượng vận chuyển, về địa
điểm cần vận chuyển tới, thời gian vận chuyển?
- Về thông tin: Nên thu thập nhưng thơng tin gì? Nên chia sẻ bao nhiêu thơng tin?
Thơng tin càng nhanh và càng chính xác sẽ giúp cho các thành viên trong chuỗi đưa ra
những quyết định phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau.
Trả lời những câu hỏi này, các công ty trong chuỗi cung ứng sẽ đưa ra những
quyết định ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của toàn chuỗi. Tuy nhiên để trả lời những
câu hỏi trên, các tác nhân tham gia chuỗi cung ứng phải ý thức rõ thị trường mà nó phục
vụ cũng như đối tượng khách hàng mà họ hướng tới. Sự năng động của chuỗi cung ứng
trong việc nắm bắt thị trường sẽ giúp cho việc thỏa mãn nhu cầu khách hàng nhanh
chóng hơn, hiệu quả hơn.
- Trước hết, về mặt lý thuyết, chuỗi cung ứng hoạt động như một đơn vị cạnh
tranh riêng biệt và cố hữu, thực hiện việc mà nhiều doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp
Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 14


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

hội nhập dọc cố gắng đạt được và đã thất bại trong việc thực hiện mục tiêu này. Điểm
khác biệt chính là các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng hoàn toàn tự do trong việc
quyết định thâm nhập hoặc rời khỏi mối quan hệ chuỗi nếu mối quan hệ này không cịn
đem lại lợi ích cho họ. Đó chính là tổ chức thị trường tự do nhằm giúp đỡ chuỗi cung

ứng vận hành một cách có hiệu quả hơn các khối liên kết dọc. Vì vậy, chuỗi cung ứng
vận động và linh hoạt.
Thứ hai, tất cả sản phẩm đến tay người tiêu dùng thơng qua một vài hình thức của
chuỗi cung ứng, một số thì lớn hơn và một số thì phức tạp hơn rất nhiều. Chúng ta nhận
thầy rằng chỉ có một nguồn tạo ra lợi nhuận duy nhất cho tồn chuỗi đó là khách hàng
cuối cùng. Khi các doanh nghiệp riêng lẻ trong chuỗi cung ứng ra các quyết định kinh
doanh mà không quan tâm đến các thành viên khác trong chuỗi, điều này dẫn đến giá
bán cho khách hàng cuối cùng là rất cao, mức phục vụ chuỗi cung ứng thấp và điều này
làm cho nhu cầu khách hàng tiêu dùng cuối cùng trở nên thấp.
Chuỗi cung ứng là năng động và liên quan đến dịng thơng tin nhất định, sản
phẩm và tài chính giữa các giai đoạn khác nhau. Dịng thơng tin, ngun vật liệu và tài
chính sẽ luân chuyển trong toàn chuỗi cung ứng. Khách hàng là thành tố tiên quyết của
chuỗi cung ứng. Mục đích then chốt cho sự hiện hữu của bất kỳ chuỗi cung ứng nào là
để thỏa mãn nhu cầu khách hàng, trong tiến trình tạo ra lợi nhuận cho chính nó. Các hoạt
động chuỗi cung ứng bắt đầu với đơn đặt hàng của khách hàng và kết thúc khi khách
hàng thanh toán đơn đặt hàng của họ. Thuật ngữ chuỗi cung ứng gợi lên hình ảnh sản
phẩm hoặc cung cấp dịch chuyển từ nhà cung cấp đến nhà sản xuất đến nhà phân phối đến
nhà bán lẻ đến khách hàng dọc theo chuỗi cung ứng. Nhưng điều quan trọng là dòng thơng
tin, sản phẩm, tài chính dọc theo cả hai hướng xuôi và ngược của chuỗi này. Trong thực
tế, nhà sản xuất có thể nhận nguyên vật liệu của một vài nhà cung cấp và sau đó cung ứng
đến nhà phân phối. Vì vậy, đa số các chuỗi cung ứng thực sự là các mạng lưới.

Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 15


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP


Sơ đồ 2.7 Dòng chảy trong chuỗi cung ứng
Nguồn: Lee, 2000

Sự phối hợp chặt chẽ của dịng sản phẩm, thơng tin và tài chính là vơ cùng quan
trọng trong chuỗi cung ứng. Đặc biệt là vai trò cầu nối của dòng chảy thơng tin bởi nó
ảnh hưởng lớn tới việc đáp ứng các nhu cầu khách hàng đúng lúc.
Yêu cầu về
sản phẩm

Khách
hàng

Bán lẻ

Nhà phân phối

Nhà sản xuất

Ngun
vật liệu
thơ

Trở ngại trong
sản xuất
Dịng thơng tin
Dịng sản phẩm

Sơ đồ 2.8 Dịng chảy sản phẩm và thông tin
Nguồn: David sharpe, 2008


Tại một cửa hàng bán lẻ, khách hàng sẽ được cung cấp các sản phẩm, giá cả và
sự sẵn sàng, đầy đủ về thông tin (sản phẩm, nhà sản xuất, khuyến mãi…) và ngược lại
khách hàng sẽ thanh toán tiền sản phẩm mà họ mua. Nhà bán lẻ sẽ gửi thông tin liên
Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 16


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

quan đến việc bán hàng, đơn đặt hàng tới các nhà phân phối để họ chuyển hàng tới.
Các cửa hàng bán lẻ sẽ chuyển tiền cho nhà phân phối sau khi nhận được hàng. Nhà
phân phối cũng sẽ trao đổi cho nhà bán lẻ những thông tin về sản phẩm, giá cả… Vịng
tuần hồn bắt đầu với việc nhận những đơn đặt hàng của khách hàng và kết thúc khi
khách hàng thanh tốn đơn hàng của họ. Cứ như vậy, dịng sản phẩm, tài chính và
thơng tin được ln chuyển trong chuỗi cung ứng.
Bất kỳ chuỗi cung ứng nào cũng cần cân nhắc đến tính đáp ứng nhanh và hiệu
quả. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay nếu chỉ tập trung vào tính hiệu quả mà bỏ qua tính
đáp ứng nhanh các nhu cầu của khách hàng thì các cơng ty, các chuỗi cung ứng không
thể thành công. Cùng sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, các công ty ngày
càng chú trọng, chun mơn hóa vào các sản phẩm mà nó thực hiện tốt nhất để cạnh
tranh được các đối thủ khác. Chính điều này đã thúc đẩy các công ty khác nhau liên kết
lại với nhau cùng thực hiện các hoạt động trong chuỗi cung ứng như sự liên kết của các
công ty chịu trách nhiệm sản xuất với các công ty chuyên về vận chuyển, phân phối, bán
lẻ. Theo đó, mỗi cơng ty có thể theo kịp tỉ lệ thay đổi và học được những kỹ năng mới
cần thiết để cạnh tranh trong kinh doanh.


Sơ đồ 2.9: Tích hợp thực trong chuỗi cung ứng
Nguồn: David sharpe, 2008



Theo đó, chuỗi cung ứng cũng chuyển từ chiến lược tích hợp dọc sang tích hợp

thực. Tích hợp thực được hiểu là sự liên kết của các công ty độc lập với những năng lực

Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 17


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

cốt lõi (là sản xuất, phân phối, hay bán lẻ) khác nhau trong việc cung ứng sản phẩm tới
khách hàng cuối cùng.
2.1.4 Những yếu tố ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng
a) Các yếu tố dẫn dắt chuỗi cung ứng
Thị trường mà cụ thể là những nhu cầu của khách hàng sẽ quyết định những sản
phẩm, dịch vụ cũng như phương thức phân phối của chuỗi. Ở một số thị trường khách
hàng sẽ sẵn sàng trả cho mức phục vụ cao, sự đáp ứng nhanh, nhưng ở một thị trường
khác khách hàng chỉ sẵn sàng trả cho những sản phẩm, dịch vụ đáp ứng được tính hiệu
quả thể hiện qua giá của sản phẩm. Do đó, việc quyết định sẽ đưa sản phẩm gì, số lượng,
chất lượng cũng như giá cả sản phẩm là bao nhiêu là vấn đề mà các công ty phải cân
nhắc khi tham gia vào thị trường. Nếu những quyết định này đúng sẽ mang lại hiệu quả
cho toàn chuỗi và ngược lại.

Ngoài thị trường mà chuỗi tham gia, chuỗi cung ứng còn chịu tác động trực tiếp
từ các yếu tố dẫn dắt nó; Đó là: sản xuất, hàng tồn kho, địa điểm, vận chuyển và thông
tin.

Sơ đồ 2.10 Năm yếu tố dẫn dắt chuỗi cung ứng
Nguồn: Mechael Hugos, 2003

- Về sản xuất: Sản xuất liên quan đến năng lực của chuỗi cung ứng để sản xuất
và tồn trữ sản phẩm. Các phương tiện trong sản xuất như là các nhà xưởng và nhà kho.

Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 18


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Vấn đề cơ bản của nhà quản lý khi ra quyết định sản xuất là: giải quyết cân đối giữa tính
đáp ứng nhanh và hiệu quả như thế nào.
Nếu nhà xưởng và nhà kho được xây dựng với công suất thừa cao có khả năng
linh động và đáp ứng nhanh khối lượng lớn về nhu cầu sản phẩm nhưng điều này là cho
sản xuất kém hiệu quả khi lãng phí nguồn lực và chứa đựng nhiều rủi ro bởi nhu cầu
luôn thay đổi.
Các nhà kho được xây dựng theo hai hướng: Tâm điểm sản phẩm và tâm điểm
chức năng. Theo tâm điểm sản phẩm, công ty sẽ thực hiện các công đoạn từ chế tạo tới
lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Theo tâm điểm chức năng, công ty sẽ chuyên về một chức
năng cụ thể thay vì về một sản phẩm sẵn có.
Kho hàng cũng được thiết kế thích ứng theo các phương pháp khác nhau như lưu

kho đơn vị, cho phép lấy và đóng gói hiệu quả hơn có thể sử dụng phương pháp lưu kho
theo công năng, hoặc để nâng cao hiệu suất của chuỗi cung ứng có thể sử dụng lưu kho
chéo. Lưu kho chéo là phương pháp mà Wal – mart đã sử dụng. Theo phương pháp này
các kho hàng chứa quy trình chứ khơng chứa sản phẩm.
- Về hàng tồn kho: Hàng tồn kho không chỉ là những sản phẩm cuối cùng được
lưu trữ tại các kho hàng, mà nó cịn bao gồm ngun vật liệu cho sản xuất cũng như các
sản phẩm trung gian. Do đó, tất cả các thành viên trong chuỗi cung ứng đều nắm giữ
lượng hàng tồn kho nhất định.
Hàng tồn kho cũng chịu ảnh hưởng từ mâu thuẫn giữa tính đáp ứng nhanh và hiệu
quả. Để hiệu quả, mục tiêu của các cơng ty là giảm chi phí hàng tồn kho. Nhưng để đáp
ứng nhanh nhu cầu khách hàng, các công ty phải tăng thêm chi phí cho hàng tồn kho. Đó
là hàng tồn kho chu kỳ, hàng tồn kho an toàn và hàng tồn kho thời vụ.
Hàng tồn kho theo chu kỳ là lượng hàng tồn kho cần thiết để thỏa mãn nhu cầu
sản phẩm trong kỳ giữa những lần mua. Tuy nhiên việc khơng dự báo chính các nhu cầu
sản phẩm đã khiến các công ty phải tồn kho thêm để dự phòng trong trường hợp nhu cầu
tăng cao và vì vậy, đẩy chi phí tồn kho, chi phí vận chuyển hàng hóa tăng. Các cơng ty
sẽ cân nhắc giữa chi phí tăng lên với phần doanh thu bị mất nếu không tồn kho để đưa ra
những quyết định của mình. Tất nhiên, các cơng ty đều khơng ưa thích phương thức tồn
kho này. Tại những thời điểm nhất định trong năm dự báo nhu cầu sẽ tăng cao, các cơng
ty cịn lựa chọn hàng tồn kho theo thời vụ.
Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 19


TRƯỜNG` ĐẠI HỌC NƠNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

- Về vị trí: Liên quan đến quyết định về tính đáp ứng nhanh và hiệu quả của các

công ty. Để đáp ứng nhanh công ty phải hoạt động tại nhiều vị trí khác nhau, gần với
khách hàng dễ cho việc đáp ứng nhu cầu của họ. Nhưng để hiệu quả cơng ty lại hoạt động
tại một vài vị trí để giảm thiểu chi phí. Do đó, việc lựa chọn các vị trí có tác động lớn tới chi
phí và đặc trưng, sự phân phối sản phẩm của chuỗi cung ứng cũng như việc tìm kiếm và giữ
chân khách hàng.
- Về vận chuyển: Tại các địa điểm khác nhau trong chuỗi cung ứng có những cách
thức vận chuyển khác nhau. Người quản lý chuỗi cung ứng cần lập ra những lộ trình khác
nhau để đưa sản phẩm từ khu sản xuất tới mạng lưới với các nhà phân phối, bán lẻ thông
qua các phương tiện vận chuyển. Việc lựa chọn các phương tiện vận chuyển, con đường
vận chuyển ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí và từ đó gián tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận toàn
chuỗi. Nguyên tắc chung trong vận chuyển sản phẩm là giá trị càng cào thì càng nhấn
mạnh tính đáp ứng nhanh, giá trị càng thấp thì càng nhấn mạnh tính hiệu quả.
- Về thơng tin: Thơng tin là yếu tố then chốt trong việc ra quyết định của tất cả
các thành viên trong chuỗi cung ứng. Nó được xem là yếu tố kết nối hoạt động về sản
xuất, hàng tồn kho, vị trí, vận chuyển trong chuỗi. Nắm bắt thơng tin giúp cơng ty dự
đốn và lên kế hoạch thỏa mãn nhu cầu khách hàng trong tương lai. Bất kỳ chuỗi cung
ứng nào cũng phải cân nhắc giữa tính đáp ứng nhanh và tính hiệu quả, nếu có được
thơng tin tốt các cơng ty có thể so sánh được những chi phí, lợi nhuận liên quan tới
quyết định các vấn đề trên, đồng thời so sánh giữa chi phí để có được thơng tin và lợi ích
có được từ nguồn thơng tin đó. Thơng tin nhanh, chính xác, đầy đủ sẽ giúp thực hiện
mục tiêu lợi nhuận của toàn chuỗi cung ứng.
b) Hiệu ứng “Roi da - Bullwhip” trong chuỗi cung ứng
Một trong những tác động phổ biến nhất trong chuỗi cung ứng là hiện tượng có
tên gọi “Roi da”. Đó là hiện tượng khi có thay đổi nhỏ về nhu cầu sản phẩm từ khách
hàng, điều này sẽ chuyển thành những thay đổi lớn hơn về nhu cầu ở các công ty cuối
chuỗi cung ứng. Dao động hay tác động bắt đầu khi nhu cầu thị trường lớn mạnh tạo ra
sự thiếu hụt sản phẩm. Các nhà sản xuất và phân phối gia tăng sản xuất và mức tồn kho
để đáp ứng nhu cầu cung ứng sản phẩm lớn hơn mức nhu cầu đáp ứng. Nhà sản xuất và
phân phối không nhận ra việc cung cấp đang lớn hơn nhu cầu nên tiếp tục thiết lập việc
cung ứng sản phẩm. Và kết quả là lượng sản phẩm dư thừa quá lớn khi công ty nhận ra

Trần Hải Chi – KTNN B52n Hải Chi – KTNN B52i Chi – KTNN B52

Page 20



×