Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

đề thi thử đh môn văn và đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.41 KB, 13 trang )


GSTT-Group

ĐỀ CHÍNH THỨC
(Đề thi gồm có 2 trang)
ĐỀ THI THỬ ĐẠI HỌC LẦN IV NĂM 2014
Môn thi: NGỮ VĂN; Khối D
Ngày thi: 14/06/2014
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề


Họ, tên thí sinh:
Số báo danh:

Câu 1: Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
“Tôi không thể ngờ được lại là hai cô thiếu nữ mà tôi mới thoáng trông thấy ở trong vườn. Bữa cơm xong,
ông Ba bắc ghế ra ngoài sân cùng tôi ngồi nói chuyện. Ngọn đèn dầu có cái chao lụa xanh xinh xắn – chắc
hẳn là một công trình của hai cô thiếu nữ - để trên chiếc bàn con, chiếu ra một vùng ánh sáng, làm nổi
trắng mấy gốc trè cằn cỗi. Chiều đã tối hẳn, trên trời cao, hàng ngàn ngôi sao thi nhau lấp lánh qua không
khí trong và mát. Đêm của vùng đồi bao bọc lấy tôi, đầy những hương thơm lạ theo cơn gió từ đâu đưa lại.
Muốn tiếng đều khe khẽ làm cho cái yên lặng vang động như tiếng đàn; những con bướm nhỏ vụt từ bóng tối
ra, đến chập chờn ở trước ngọn đèn, rồi lại lẩn vào bóng tối, như những sự gia lẹ làng của cảnh rừng nói
chung quanh. Tôi thấy vui sướng và thư thái trong lòng. Lần đầu, đêm tối và cảnh vật đối với tôi thân mật
như một người bạn, khác với khi ở Hà Nội, đêm chỉ là những cuộc vui chơi mệt mỏi và nặng nề”
(Trích Nắng trong vườn, Thạch Lam, NXB Đời nay, 1938)
1. Phương thức diễn đạt trong đoạn trích trên có gì nổi bật? Cách diễn đạt đó đem lại hiệu quả như thế nào
cho đoạn văn? (1 điểm)
2. Viết một đoạn văn ngắn (100 – 150 từ) trình bày cảm nhận của anh (chị) về đoạn văn trên? (1 điểm)
Câu 2: (3 điểm)
Tôi hỏi đất:
- Đất sống với nhau như thế nào?


- Chúng tôi tôn cao nhau
Tôi hỏi nước:
- Nước sống với nhau như thế nào?
- Chúng tôi làm đầy nhau
Tôi hỏi cỏ:
- Cỏ với nhau như thế nào?
- Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời
Tôi hỏi người:
- Người với nhau như thế nào?
Tôi hỏi người:
- Người với nhau như thế nào?
Tôi hỏi người:
- Người với nhau như thế nào?
(Hỏi - Hữu Thỉnh)
Từ bài thơ trên, viết một bài văn nghị luận ngắn (khoảng 400 từ), bày tỏ quan điểm của mình về bài học
lối sống.
Câu 3a (5 điểm): (Dành cho thí sinh theo chương trình ban cơ bản)
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
(Vội vàng - Xuân Diệu, Ngữ văn 11, tập một, NXB GD, tr.23)
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.
(Sóng – Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, tập một, NXB GD, tr.156)
Trình bày cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên.
Câu 3b (5 điểm): (Dành cho thí sinh theo chương trình nâng cao)
Sau khi nhận được bát cháo hành từ tay thị Nở, Chí Phèo bảo với thị:
- Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. (Chí Phèo -Nam Cao, Ngữ văn 11)
Trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12), sau khi đãi người đàn bà bốn bát bánh đúc,
Tràng cười và nói với thị:
- Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Cảm nhận của anh chị về ý nghĩa của những câu nói trên.

HẾT
Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm


ĐÁP ÁN VÀ HƯỚNG DẪN CHẤM CHI TIẾT
Câu
Ý
Nội dung
Điểm
1
a.
Thạch Lam là nhà văn của Tự lực văn đoàn, có tấm lòng
nhân hậu với con người và cảnh vật quê hương, ông có
quan niệm tiến bộ về văn chương, là cây bút có biệt tài
đối với truyện ngắn trữ tình.
Trong đoạn văn trích trong Nắng trong vườn, người đọc
nhận thấy nổi bật hơn cả là phương thức diễn đạt. Ông sử
dụng cách diễn đạt để miêu tả cảnh vật một cách mơ hồ,
mong manh, khó nắm bắt qua những câu văn như: Chiều

đã tối hẳn, trên trời cao, hàng ngàn ngôi sao thi nhau lấp
lánh qua không khí trong và mát. Đêm của vùng đồi bao
bọc lấy tôi, đầy những hương thơm lạ theo cơn gió từ
đâu đưa lại. Muốn tiếng đều khe khẽ làm cho cái yên
lặng vang động như tiếng đàn; những con bướm nhỏ vụt
từ bóng tối ra, đến chập chờn ở trước ngọn đèn, rồi lại
lẩn vào bóng tối, như những sự gia lẹ làng của cảnh rừng
nói chung quanh. Ông sử dụng những câu văn nhẹ
nhàng, lãng mạn, giọng văn mang tính thủ thỉ trầm lắng,
thiết tha. Việc diễn đạt mang đậm sắc thái trữ tình mang
đến cho văn Thạch Lam chất lãng mạn đậm nét, văn xuôi
nhưng giống như một bài thơ trữ tình.
0,25



0,75
b.
Học sinh lưu ý về kĩ năng viết đoạn văn. Một đoạn văn
100 - 150 từ tương đương với một mặt giấy thi. Dưới đây
là một đoạn văn ngắn để các em tham khảo (câu chủ đề
đặt ở đầu đoạn)
Đoạn văn trích trong tập Nắng trong vườn là một thành
công của Thạch Lam trong việc miêu tả cảnh quê, tình
quê, qua đó bộc lộ tấm lòng đáng quý của nhà văn dành
cho những mảnh đất nghèo. Cảnh quê được miêu tả tự
nhiên và chân thực với những hình ảnh rất đỗi quen





1,0

thuộc với thôn quê như bầu trời đêm ngàn ngôi sao lấp
lánh, những con bướm nhỏ vụt từ trong bóng tối bay ra
hay cảnh rừng núi chập chờn trong đêm tối, kết hợp với
những hình ảnh quen thuộc là hệ thống những âm thanh
“vang động như tiếng đàn” được miêu tả một cách chân
thực. Dường như nhà văn hòa mình vào cảnh vật, cảm
nhận được sự yên bình trong đêm tối để rồi gắn bó với
cảnh vật ấy “giống như một người bạn”. Tấm lòng của
nhà văn thật đáng quý, đó dường như là một tấm lòng
luôn nhạy cảm trước biến đổi của thiên nhiên, của đất
trời, mở lòng ra đón nhận những vang động dù là nhỏ
nhất của thôn quê. Trong văn xuôi Thạch Lam, hình ảnh
thôn quê đã xuất hiện nhiều, mỗi lần lại mang một dáng
vẻ khác nhưng đều gặp gỡ ở tấm lòng nhạy cảm đáng
quý ấy. Chính tấm lòng dành cho những mảnh đất thôn
quê đã khiến văn Thạch Lam gần gũi với độc giả nhiều
thế hệ, tạo nên phong cách rất riêng của ông trong dòng
văn học lãng mạn 1930 – 1945.
2
1.Giải
thích

- Hỏi là biểu hiện của những băn khoăn, của mong
muốn tìm hiểu, khám phá và lí giải song đồng thời
cũng là cách nêu ván đề đánh thức khả năng nhận
thức, tư duy của đối tượng giao tiếp.
- Đất, nước, cỏ là những vật thể vô tri thuộc về thế

giới tự nhiên, sự tồn tại và quan hệ giữa chúng rất
hồn nhiên, tự nhiên. Song khi bước vào thế giới của
nghệ thuật, nó trở thành những ẩn dụ, thành
phương tiện nghệ thuật để chở tải suy nghĩ tình
cảm, quan niệm của người nghệ sĩ về thế giới của
con người và những thứ thuộc về thế giới ấy
- Sống với nhau: Quan hệ, cách sống, cách ứng xử
giữa các cá thể trong cuộc sống.
0.5

- Tôn cao nhau: Ủng hộ, nâng đỡ, đề cao nhau để
guýp nhau khảng định sự tồn tại của cá nhân mình.
- Làm đầy nhau: Bù đắp, bổ sung cho nhau để trở
nên hoàn thiện.
- Đan vào nhau làm nên những chân trời: Đoàn kết,
găn bó với nhau để làm nên một khối thống nhất
và vững mạnh, cũng là để cuộc sống của mỗi cá
nhân được mở rộng pham vi mà trở nên phong phú,
lớn lao hơn.
Đặc điểm tồn tại của đất, của nước của cỏ được
lọc qua cái nhìn và tự duy con người trở thành một
bài học về lối sống cho con người. Cần lưu ý tới
sự đối xứng giữa ba câu hỏi danh cho đát, nước, cỏ
với ba câu hỏi danh cho con người. Sự đối xứng
này khiến bài thơ Hỏi trở thành bài thơ giãi bày,
đề xuất một quan niệm sống bởi trong câu hỏi đã
có sẵn câu trả lời.


2.Phân

tích, lí
giải

- Con người cần ủng hộ, giúp đỡ, trân trọng nhau để
giúp nhau tiến bộ:
+ Mỗi cá nhân khi bước vào cuộc sống đều có thể
gặp phải những khó khăn, vướng mắc hoặc sai
lầm, vấp ngã. Nếu không có ự ủng hộ, giúp đỡ của
người khác sẽ rất khó có thể vươn lên, không có
sự coi trọng của người khác sẽ rất khó để tự khẳng
định mình. (0.25)
+ Khi ủng hộ, giúp đỡ, đề cao người khác là khi
cá nhân đã thể hiện tấm lòng vị tha, nhân si. Hơn
thế nữa, người ta chỉ có thể giuspd dỡ và đề cáo
người khác khi cso khả nằng và bản lĩnh để vượt
lên thói nhỏ nhen, ích kỉ và nỗi sợ hĩa mơ hồ của
những kẻ yếu thế, tầm thường, luôn sợ người khác
0.5

hơn mình. Nghĩa là giúp đỡ, ủng hộ, đề cao người
khác cũng là cách tự khẳng định năng lực và tư
cách của mình trong cuộc sống.(0.25)
- Con người cần bù đắp bổ sung cho nhau để trở nên
hoàn thiện:
+ Cuộc sống luôn đặt ra rất nhiều yêu cầu, đòi
hỏi, thử thách buộc con người đpá ứng, phải vượt
qua song mỗi người luôn phải đối mặt với những
giới hạn về khả nảng của bản thân minh. Với
nhwgnx giới hạn đó, con người sẽ gặp phải những
khó khăn khi sống cuộc sống của mình và sống

giữa cuộc đời.
- Trong thực tế, không có người nào hoàn toàn tốt
hoặc xấu, mạnh hoặc yếu, thông minh hoặc ngu
dốt… Ai cũng có những thế mạnh và điểm yếu
của riếng mình mà nếu thế mạnh được phát huy,
điểm yếu được hạn chế thì người đó sẽ có thêm sức
mạnh và lòng tin để sống tốt hơn.
+ Để bù đắp nhữn khiếm khuyết, khắc phúc
những hạn chế, mỗi người cần biết học hỏi từ
người khác. Song ngược lại, mỗi người cũng cần
thiện chí trong việc khắc phục những khiếm
khuyết, hạn chế của người khác. Tinh thần thiện
chí này sẽ giúp mỗi người tự hoàn thiện mình và
góp phần hoàn thiện các cá nhân khác.
Để có thể ủng hộ, giúp đỡ, bù đắp, bổ sung cho nhau,
con người không thể và không nên sống ích kỉ, chỉ biết
nghĩ đến mình, cũng ko thế sống riêng rẽ. xa rời các cá
nhân khác. Tinh thần đoàn kết, gắn bó luôn là cần thiết
cho sự tiến bộ của mỗi cá nhân cũng như sự tiến bộ
chung của toàn xã hội

3.Bình
- Trong thực tế, con người rất khó tránh khỏi việc
0.5
0.5
0.5

luận,
đánh
giá


mắc phải thói đố kị, sự hẹp hòi, tính ích kỉ … vốn
là những biểu hiện tâm lí dẫn người ta đến chỗ nghĩ
cho mình, vì mình, thích đề cao mình, đặt mình cao
hơn người khác. Khi nét tâm lí này phát triển vượt
ra ngoài sự kiểm soát của lí trí, nó sẽ làm xấu đi
mỗi quan hệ giữa con người với con người và góp
phần tạo nên những bất ổn, lệch lạc trong đời sống
xã hội.
- Tác giả của bài thơ không cao giọng rao giảng đạo
đức mà chỉ nêu ra một vấn đề, gợi mở để mọi
người cùng ngầm nghĩ, tự lựa chọn và tự điều
chỉnh bản thân. Ở chiều sau tư tưởng của bài thơ là
một bài học vô cùng thấm thía về cách sống, cách
làm người để mỗi người trở nên “ người” hơn.

Câu
3a

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
(Vội vàng-Xuân Diệu, Ngữ văn 11, tập một, NXB GD,
tr.23)
Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

0.5

Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
(Sóng – Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, tập một, NXB GD,
tr.156)
Trình bày cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên.


I. Yêu cầu về kĩ năng:
- Nắm vững phương pháp làm bài văn nghị luận văn học
- Bố cục chặt chẽ, văn lưu loát, có cảm xúc.
II. Yêu cầu về nội dung:


1
Giới thiệu khái quát về hai tác giả Xuân Diệu, Xuân
Quỳnh và hai bài thơ Vội vàng, Sóng, hai đoạn thơ
được yêu cầu cảm nhận.
0.5

2
a. Đoạn thơ trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:
- Đoạn thơ thể hiện “cái tôi” ham sống, muốn tận hưởng
cuộc đời mãnh liệt. Như một tuyên ngôn của lòng mình,
nhà thơ tự xác định một thái độ sống gấp, tận hưởng vì
cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời (Mau đi thôi ! Mùa
chưa ngả chiều hôm); ý thức chiếm lĩnh, tận hưởng cuộc

sống ở mức độ cao nhất (chếnh choáng, đã đầy, no nê )
những gì tươi đẹp nhất (mùi thơm, ánh sáng, thời tươi ).
- Các yếu tố nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc câu,
động từ mạnh góp phần thể hiện cái hối hả, gấp gáp,
cuống quýt của tâm trạng, khiến nhịp điệu đoạn thơ sôi
nổi, cuồng nhiệt.
1.5


3
b. Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh:
- Đoạn thơ thể hiện khát vọng lớn lao, cao cả trong tình
yêu: ước mong được tan hòa cái tôi nhỏ bé-con sóng cá
thể, thành cái ta chung rộng lớn- “trăm con sóng” giữa
biển cả mênh mông;
Những câu thơ có tính chất tự nhủ mình gợi cách sống,
tình yêu mãnh liệt, hết mình: mong muốn được tan hòa
vào tình yêu lớn lao của cuộc đời. Đó là cách để tình yêu
trở thành bất tử.
- Thể thơ năm chữ với hình tượng “sóng”vừa ẩn dụ vừa
giàu tính thẩm mĩ khiến đoạn thơ sâu sắc, giàu nữ tính.

c. So sánh
- Điểm tương đồng: Hai đoạn thơ đều bộc lộ cảm xúc
mãnh liệt, những suy ngẫm trước cuộc đời. Đây là hai
đoạn thơ có sự kết hợp giữa cảm xúc-triết lí.
- Điểm khác biệt: không chỉ nằm ở phong cách thơ
(Xuân Diệu sôi nổi, mãnh liệt đầy nam tính, xuân Quỳnh
thủ thỉ, tâm tình đầy nữ tính) mà còn trong cách “ứng
xử” của mỗi nhà thơ: trước sự “chảy trôi” của thời gian,

Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp, tận hưởng, Xuân
Quỳnh lại thể hiện khát vọng muốn được tan hòa cái
riêng vào cái chung để tình yêu trở thành bất tử …
1.5

5
Đánh giá chung về hai đoạn thơ, hai nhà thơ
0.5
Câu
3b

Sau khi nhận được bát cháo hành từ tay thị Nở, Chí Phèo
bảo với thị:
- Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. (Chí
Phèo - Nam Cao, Ngữ văn 11)

1.0
4

Trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
(Ngữ văn 12), sau khi đãi người đàn bà bốn bát bánh
đúc, Tràng cười và nói với thị:
- Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe
rồi cùng về.
Cảm nhận của anh chị về ý nghĩa của những câu nói trên.


I.Yêu cầu về kĩ năng:
- Nắm vững phương pháp làm bài văn nghị luận văn học
- Bố cục chặt chẽ, văn lưu loát, có cảm xúc.

II. Yêu cầu về nội dung:
Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và giới hạn đề.
- Nam Cao, cây bút hiện thực xuất sắc và thấm đẫm tinh
thần nhân đạo. Chí Phèo (1941) là kiệt tác đã kết tinh cao
nhất cho đặc điểm nghệ thuật của nhà văn. Chi tiết “Hay
là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” là một trong
những chi tiết đặc sắc thể hiện giá trị nhân đạo của tác
phẩm. (0.25)
- Kim Lân là một nhà văn thành công đặc biệt khi viết về
người nông dân và cuộc sống nông thông trong nền văn
học Việt Namhiện đại. Vợ nhặt là một trong những
truyện ngắn xúc động nhất của ông. Tác phẩm có giá trị
hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Chi tiết “Này nói đùa chứ
có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” thể
hiện sâu sắc giá trị nhân đạo của truyện. (0.25)



Về chi tiết “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho
vui” trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao:
- Về nội dung: (1.0)
+ Cuộc gặp gỡ bất ngờ với thị Nở và trận ốm đã làm cho
1.5
0.5

con quỷ dữ Chí Phèo có sự thay đổi hẳn cả về tâm sinh
lí.
+ Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức ở Chí khát
vọng được sống cuộc sống của một người bình thường
“Hắn thèm lương thiện”. Cử chỉ mộc mạc của thị gieo

vào lòng Chí niềm hi vọng: thị sẽ là người mở đường dẫn
Chí về với “cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những
người lương thiện”.
+ Câu nói Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho
vui cho thấy khát vọng hạnh phúc, được yêu thương vẫn
ẩn sâu trong con quỷ dữ Chí Phèo sau bao nhiêu năm
tháng bị vùi lấp bởi rượu, máu và nước mắt. Chí không
dám nói một lời “cầu hôn” thẳng thắn, rõ ràng mà chọn
cách nói lấp lửng thể hiện sự âu lo, phấp phỏng của một
thân phận bị chối bỏ với một niềm hi vọng mong manh.
- Về Nghệ thuật: (0.5)
+ Cách Là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát
triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lí
và cảnh ngộ của nhân vật.
+ Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ
của ngòi bút Nam Cao


Về chi tiết Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân
hàng lên xe rồi cùng về trong Vợ nhặt- Kim Lân
- Về nội dung: (1.0)
+ Tràng là một chàng trai nông dân nghèo, ế vợ.
+ trước tình cảnh của người đàn bà bị cái đói xô đẩy,
Tràng đã đãi thị bốn bát bánh đúc. Sau đó, Tràng nói một
câu với hình thức như một câu nói đùa: Này nói đùa chứ
1.5

có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Câu
nói đùa nhưng lại thể hiện niềm khát khao hạnh phúc có
thật, mãnh liệt cháy bỏng thẳm sâu trong người nông dân

nghèo ấy mà ngay cả nạn đói và cái chết cũng không thể
dập tắt.
+ lời nói của Tràng có vẻ như đùa song ngọn lửa hạnh
phúc trong Tràng đước thắp lên từ câu nói đùa ấy lại thật
sự bùng cháy. Tràng trân trong hạnh phúc của mình cũng
như bằng tất cả những gì có thể, anh biến cuộc hôn nhân
với thị trở nên đàng hoàng, nghiêm túc.
- Về nghệ thuật: (0.5)
+ Là một chi tiết góp phần tạo nên một tình huống truyện
độc đáo và ý nghĩa, tạo bước ngoặt cuộc đời và tâm lí
của nhân vật, thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
+ Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ
của ngòi bút Kim Lân


So sánh:
- Sự tương đồng: (0.5)
+ Đó là những câu nói đặc biệt, có ý nghĩa hêt sức quan
trọng trong cuộc đời các nhân vật và có sức tác động
diệu kì, tạo nên những khoảng khắc ngọt ngào hạnh phúc
cho họ.
+ Đấy cũng chính là những chi tiết đặc sắc góp phần
khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ trong hai tác
phẩm: Phát hiện và ngợi ca khát vọng yêu thương, khát
vọng hạnh phúc ở những con người những tưởng như đã
hoàn toàn lụi tắt cảm xúc tình yêu trong những hoàn
cảnh khắc nghiệt của cuộc đời.
1.0

- Sự khác biệt: (0.5)

+ Ở Chí Phèo, chi tiết thể hiện khát vọng mang bản chất
người ẩn sâu trong con quỷ dữ Chí Phèo, sau khi cảm
nhận được tình yêu thương mộc mạc, chân thành ở thị
Nở. Câu nói cho thấy anh nông dân Chí hiền lành, chân
chất ngày xưa đã sống lại, thay thế hoàn toàn cho con
quỷ dữ Chí Phèo.
+ Ở Vợ nhặt, chi tiết khẳng định sức mạnh của tình
người, của khát vọng mái ấm gia đình, sống trong tình
yêu thương chiến thắng sự đe dọa của nạn đói và cái
chết.


Đánh giá chung: Hai chi tiết nhỏ đã thể hiện khả năng
thấu hiểu, đồng cảm và sự trân trọng của hai nhà văn đối
với vẻ đẹp và sức sống tâm hồn người nông dân nghèo
trước cách mạng tháng Tám. Đó là sự tiếp nối xuất sắc
của nam Cao và Kim Lân với mạch nguồn nhân đạo của
văn học Việt Nam.
0.5

Người ra đề và đáp án: Nguyễn Thế Hưng và Nguyễn Thị Thùy Vân.

×